16. Phẩm Bồ Tát Thứ Mười Sáu | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

16. Phẩm Bồ Tát Thứ Mười Sáu

PHẨM BỒ TÁT THỨ MƯỜI SÁU

(Hán bộ phần sau quyển thứ chín)

Này Thiện-nam-tử! Như ánh sánng mặt trời mặt trăng hơn hết trong các ánh sáng. Ánh sáng Đại-Niết-Bàn rất là thù-thắng đối với ánh sáng của các khế kinh. Ánh sáng của các khế kinh không thể kịp được. Vì ánh sáng Đại-Niết-Bàn có thể chiếu vào các lỗ chân lông của chúng sinh. Chúng sinh dầu không có tâm bồ-đề, nhưng có thể làm nhân duyên cho bồ-đề, vì thế nên gọi là Đại-Niết-Bàn.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Như lời Phật vừa nói “ánh sáng Đại-Niết-Bàn chiếu vào các lỗ chân lông của chúng sinh, chúng sinh dầu không tâm bồ-đề, nhưng có thể làm nhân duyên cho bồ-đề”. Xét ra, nghĩa trên đây chẳng đúng.

Bạch Thế-Tôn! Người phạm bốn giới trọng, người tạo tội ngũ nghịch và hạng nhất-xiển-đề, ánh sáng chiếu vào thân họ làm nhân bồ đề, thời những hạng này có khác gì người trì giới thanh tịnh, tu tập các hạnh lành, nếu không khác, cớ sao đức Như-Lai nói nghĩa tứ-y.

Bạch Thế-tôn! Lại như lời Phật nói, nếu có chúng sinh một lần được nghe kinh Đại-Niết-Bàn, thời dứt trừ đặng các phiền não. Trước kia đức Như-Lai lại nói có người ở nơi hằng hà sa chư Phật mà phát tâm, nghe kinh Đại-Niết-Bàn chẳng hiểu được nghĩa, sao lại có thể dứt tất cả phiền não?

Này Thiện-nam-tử! Trừ hạng nhất-xiển-đề, những chúng sinh khác được nghe kinh này, thảy đều có thể làm nhân duyên cho bồ-đề. Ánh sáng của tiếng pháp chiếu vào lỗ chân lông quyết định sẽ đặng vô thượng chính đẳng chính giác. Vì người đã có thể cúng dường cung kính vô lượng chư Phật mới đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn. Người phước bạc thời chẳng được nghe. Việc lớn như đây người đại-phước mới có thể được nghe, kẻ tiểu nhân thời chẳng được nghe. Những gì là việc lớn? Chính là chỉ cho tạng bí mật rất sâu của chư Phật, tức là Phật tính.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-tôn! Những gì làm nhân bồ-đề cho người chưa phát tâm bồ-đề?

Này Thiện-nam-tử! Nếu có người nghe kinh Đại-Niết-Bàn này, không tin nói rằng tôi chẳng cần phát bồ-đề tâm. Người đó thường ở trong chiêm bao thấy hình La-Sát, lòng rất kinh sợ. La Sát bảo rằng: Nếu ngươi chẳng phát bồ-đề tâm, ta sẽ giết ngươi. Vì sợ sệt nên khi thức giấc người này liền phát tâm bồ đề. Sau khi chết, nếu người này hoặc đọa trong ba đường ác, cùng sinh trong loài trời, loài người tiếp tục nhớ lại tâm bồ đề đã phát. Nên biết người này là bậc Bồ-tát.

Do nghĩa trên đây, nên oai thần của kinh Đại-Niết-Bàn này có thể làm nhân bồ đề cho người chưa phát tâm.

Đây gọi là Bồ-Tát có nhân duyên mà phát tâm, chẳng phải không nhân duyên. Do vì nghĩa này nên kinh điển Đại-Thừa vi diệu thiệt là của Phật nói.

Này Thiện-nam-tử! Như trên hư không kéo mây mưa xuống, nơi cây khô, núi đá, gò nổng, cao nguyên nước không đọng lại. Ruộng thấp hồ cao đều đầy chúng sinh nơi đó được lợí ích. Cũng vậy, kinh Đại-Niết-Bàn vi diệu này khắp nhuần chúng sinh, làm cho nẩy nở tâm bồ đề. Còn hàng nhất-xiển-đề chẳng phát tâm bồ đề không được lợi ích.

Này Thiện-nam-tử! Ví như hột giống đã cháy, dầu có gặp mưa trọn chẳng mọc mầm. Cũng vậy, hàng nhất-xiển-đề dầu nghe kinh Đại-Niết-Bàn vi diệu này, trọn không phát tâm bồ đề. Vì hạng này đoạn diệt tất cả căn lành như hột giống đã cháy.

Này Thiện-nam-tử! Ví như ngọc minh châu để trong nước đục, thế lực của minh châu làm cho nước liền trong. Nhưng để minh châu trong bùn lầy không thể làm cho trong. Kinh Đại-Niết-Bàn vi diệu này cũng như vậy, có thể làm cho chúng sinh phạm tội vô gián, tứ trọng, tiêu tội được thanh tịnh phát tâm bồ đề. Không thể làm cho nhất-xiển-đề phát bồ đề tâm, vì nhất-xiển-đề dứt hết căn lành không phải pháp khí.

Này Thiện-nam-tử! Ví như cây thuốc Dược Vương là vua trong những thứ thuốc. Nếu đem Dược Vương hòa với lạc, hoặc tô, hoặc mật, hoặc nước, sữa, hoặc thuốc bột, thuốc hoàn, hoặc dùng thoa ghẻ, thoa mắt, hoặc uống, hoặc xông, hoặc nhìn, hoặc ngửi, đều có thể làm cho chúng sinh được lành tất cả bệnh. Dược Vương ấy chẳng nghĩ rằng chúng sinh nếu lấy rễ của ta, thời chẳng nên lấy hết, cũng chẳng nghĩ rằng, nếu lấy lá chẳng nên lấy rễ, nếu lấy thân chẳng nên lấy vỏ, nếu lấy vỏ chẳng nên lấy thân. Dược Vương ấy dầu chẳng tưởng niệm mà có thể trừ tất cả bệnh khổ.

Này Thiện-nam-tử! Kinh Đại-Niết-bàn vi diệu này có thể diệt trừ tất cả ác nghiệp, bốn tội trọng, năm tội vô gián của chúng sinh. Người chưa phát bồ đề tâm nhân kinh này thời đặng phát bồ đề tâm. Vì kinh này là vua trong các thứ kinh, như cây thuốc Dược Vương là vua trong các thứ thuốc. Nếu có người tu tập cùng chẳng tu tập kinh Đại-Niết-Bàn này, nếu nghe được danh tự của kinh này, nghe rồi sinh lòng kính tin, thời đều trừ diệt được tất cả phiền não. Nhưng chỉ chẳng thể làm cho hạng nhất-xiển-đề an trụ nơi vô thượng chính đẳng chính giác. Như Dược Vương kia dầu có thể chữa lành tất cả bệnh nặng, nhưng không thể cứu chữa người quyết định chết.

Này Thiện-nam-tử! Như người tay có ghẻ lở, bốc nắm thuốc độc, thời chất độc thấm vào thịt. Người tay không ghẻ lỡ, dầu có cầm nắm chất độc cũng chẳng thấm vào được. Hạng nhất-xiển-đề không có nhân bồ đề, như người tay không ghẻ không thể thấm chất độc. Chất độc dụ cho diệu nghĩa đệ nhất.

Này Thiện-nam-tử! Ví như kim cương không gì phá vỡ được, mà kim cương có thể phá vỡ tất cả vật khác, chỉ trừ mu rùa và sừng bạch dương. Kinh Đại- Niết- Bàn vi diệu này có thể làm cho vô lượng chúng sinh trụ nơi đạo bồ đề, chỉ không thể khiến hạng nhất-xiển-đề thành lập nhân bồ đề.

Này Thiện-nam-tử! Như cỏ Mã-Xỉ, cây Ta-La-Xí, cây Ni-Ca-La, dầu chặt nhánh, đốn cây, nhưng rồi đâm chồi mọc lên như cũ, chẳng phải như cây Đa-la đốn rồi không thể mọc lại.

Cũng vậy, những chúng sinh đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn này, dầu phạm bốn tội nặng và năm tội vô gián, vẫn có thể sinh nhân bồ đề, Hạng nhất-xiển-đề thời chẳng như vậy, dầu đặng nghe kinh điển vi diệu, nhưng không thể sinh nhân bồ đề.

Này Thiện-nam-tử! Như cây Khư-đà-la, cây Trấn-đầu-ca bị đốn thời chẳng mọc lại, và những hột giống bị cháy thời chẳng mọc mầm, cũng vậy, hàng nhất- xiển-đề dầu đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn này. Nhưng không thể phát tâm bồ-đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như mưa to, nước mưa chẳng dừng ở hư không. Kinh Đại-Niết-Bàn này cũng chẳng dừng ở nơi hạng nhất-xiển-đề.

Hạng nhất-xiển-đề này khắp mình kín dày như chất kim cương, vật ngoài không thể lọt vào được.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Như đức Phật từng nói kệ rằng:

Chẳng thấy, lành, chẳng làm.

Chỉ thấy, ác, nên làm.

Điều đó đáng kinh sợ.

Dường như đường nguy hiểm.

Bạch Thế-Tôn! Bài kệ đó có những nghĩa gì?”.

Phật nói: “Này Thiện-nam-tử! Chẳng thấy là chẳng thấy Phật tính. Lành là vô thượng chính đẳng chính giác. Chẳng làm là chẳng gần gũi thiện tri thức. Chỉ thấy là thấy không nhân quả. Ác là hủy báng kinh điển Đại-thừa Phương- đẳng. Nên làm là hạng nhất-xiển-đề nói không có Đại-thừa. Hạng nhất-xiển- đề không có tâm xu hướng pháp lành thanh tịnh. Pháp lành là Đại-Niết-Bàn. Xu hướng Đại-Niêt-Bàn là nói có thể tu tập hạnh hiền-thiện. Hạng nhất-xiển-đề không hạnh hiền-thiện, nên không thể xu hướng Đại-Niết-Bàn. Điều đó đáng kinh sợ là nói hủy báng chính pháp: Người trí phải kinh sợ, vì người hủy báng chính pháp không có tâm lành, không có phương tiện tu tập, con đường nguy hiểm là nói các hành pháp.

Ca-Diếp Bồ-Tát lại bạch: Như Phật từng nói:

Thấy chỗ làm thế nào?

Đặng pháp lành thế nào?

Chỗ nào chẳng kinh sợ?

Như đường bằng vua đi.

Thế-Tôn! Bài kệ này nghĩa như thế nào?

Này Thiện-nam-tử! Thấy chỗ làm là phát-lồ các tội ác: Từ vô lượng đời gây tạo các nghiệp ác thảy đều phát lộ, đến nơi rốt ráo thanh tịnh. Đó là chỗ không kinh sợ. Như đường bằng thẳng của vua đi, trộm cướp đều chạy trốn. Cũng vậy, phát lồ như trên thời tất cả tội ác đều dứt trừ.

Lại chẳng thấy chỗ làm là nói hàng nhất-xiển-đề làm những việc ác mà chẳng tự thấy. Hàng nhất-xiên-đề do lòng kiêu mạn nên dầu làm ác nhưng không kinh sợ. Vì thế nên hạng này chẳng đặng Niết-Bàn. Dụ như khỉ vượn mò nắm mặt trăng trong nước.

Này Thiện-nam-tử! Giả sử vô lượng chúng sinh đồng thời chứng đặng vô thượng chính đẳng chính giác, các Đức Như-Lai này cũng chẳng thấy hạng nhất-xiển-đề kia đặng thành bồ-đề. Vì nghĩa này nên gọi là chẳng thấy chỗ làm.

Và lại chẳng thấy chỗ làm của ai? Đây là chẳng thấy chỗ làm của Phật. Phật vì chúng sinh nói có Phật tính. Hạng nhất-xiển-đề trôi lăn trong sinh tử, không thể thấy biết Phật tính. Vì nghĩa này nên gọi là chẳng thấy chỗ làm của Như-Lai.

Lại hàng nhất-xiển-đề thấy đức Như-Lai rốt ráo nhập Niết-bàn, họ cho rằng thật vô thường, như đèn tắt, dầu mỡ đều hết. Vì hạng này nghiệp ác của họ chẳng giảm bớt.

Nếu có Bồ-Tát lúc làm những nghiệp lành hồi hướng vô thượng chính đẳng chính giác, dầu hàng nhất-xiển-đề chẳng tin chê bai phá hoại, nhưng các vị Bồ-Tát vẫn đem công đức thí cho, muốn cùng họ đồng thành đạo vô thượng. Vì pháp của chư Phật và Bồ-Tát tự nhiên như vậy.

Làm ác chẳng liền thọ,

Như sữa liền thành lạc,

Như tro che trên lửa.

Người ngu khinh đạp đó.

Hàng nhất-xiển-đề gọi là kẻ không con mắt, nên chẳng thấy đạo A-La- Hán, vì không con mắt, nên chê bai Đại-thừa chẳng muốn tu tập. Như A-La-Hán siêng tu tâm từ.

Nếu người nói rằng: Nay tôi chẳng tin kinh điển Thanh-văn, chỉ tin thọ Đai- thừa, đọc tụng giải thuyết. Vì thế nên nay tôi là Bồ-Tát. Tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Do có Phật tính nên trong thân chúng sinh bèn có mười trí lực ba mươi hai tướng, tám mươi thứ tốt. Lời nói của tôi không khác lời nói của Phật. Nay anh cùng tôi đều phá vô lượng phiền não ác, như phá vỡ bình nước. Vì phá kiết sử nên liền đặng thấy vô thượng chính đẳng chính giác.

Người đó dầu diễn nói như vậy, nhưng tâm nó thiệt chẳng tin có Phật tính, chỉ vì lợi dưỡng nên nói theo văn kinh, đây gọi là người ác. Người ác như vậy chẳng liền thọ quả báo, như sữa thành lạc.

Ví như Vương sứ biện luận giỏi, nhiều chước khéo, phụng mạng qua nước khác, thà chết chớ trọn chẳng ẩn giấu lời truyền của vua. Cũng vậy, người trí ở trong hàng phàm phu, chẳng tiếc thân mạng, quyết phải tuyên nói Như-Lai tạng kinh điển Đại-thừa Phương-đẳng, tất cả chúng sinh đều có Phật tính.

Này Thiện-nam-tử! Có kẻ nhất-xiển-đề làm dạng A-La-Hán, chê bai kinh điển đại thừa. Người phàm phu thấy đó đều cho là thiệt A-La-Hán, là đại Bồ- Tát. Bọn ác Tỳ-kheo nhất-xiển-đề này, ở nơi A-Lan-Nhã phá hoại pháp A-Lan-Nhã, thấy người khác đặng lợi sinh lòng ganh ghét, nói rằng những kinh điển Đại-thừa đều là lời của Thiên-Ma Ba-Tuần nói. Họ cũng nói Như-Lai là pháp vô thường. Họ hủy diệt chính pháp, phá hoại chúng tăng. Họ lại nói lời của Thiên-Ma Ba-Tuần chẳng phải là lời lành, lời thuận.

Bọn trên đây tuyên nói lời tà ác như vậy. Bọn này làm ác chẳng liền thọ báo. Như sữa thành lạc. Người như vậy gọi là nhất-xiển-đề. Như tro trùm trên lửa, người ngu khinh đạp đó.

Vì thế nên biết kinh điển Đại-thừa vi diệu quyết định thanh tịnh. Như châu Ma-Ni ném vào nước đục, nước liền trong.

Này Thiện-nam-tử! Ví như hoa sen được mặt trời rọi đến đều nở. Tất cả chúng sinh nếu đặng thấy nghe kinh Đại-Niết-Bàn, thời đều phát Bồ-đề tâm. Vì thế nên ta nói ánh sáng Đại-Niết-Bàn chiếu vào lỗ chân lông, quyết định làm nhân vi diệu.

Nhất-xiển-đề kia dầu có Phật tính, nhưng bị vô lượng tội chướng ràng buộc, nên chẳng thể hiện ra, như con tằm ở trong kén, do nghiệp chướng đó chẳng thể sinh nhân bồ đề, lưu chuyển mãi trong sinh tử.

Này Thiện-nam-tử! Như hoa sen mọc nơi bùn lầy, mà trọn chẳng bị bùn lầy àm nhơ. Nếu có chúng sinh tu tập kinh điển Đại-Niết-Bàn vi diệu này, dầu có phiền não, mà trọn chẳng bị phiền não làm nhơ, vì nhờ năng lực rõ biết Như-Lai tính.

Này Thiện-nam-tử! Ví như có nước kia nhiều gió mát mẻ. Nếu gió ấy thổi vào lỗ chân lông nơi thân của chúng sinh, thời có thể trừ tất cả sự nóng bức bậc bội.

Kinh điển Đại-thừa Đại-Niết-Bàn này cũng lại như vậy, vào khắp lỗ chân lông của tất cả chúng sinh, mà làm nhân bồ-đề, trừ hạng nhất-xiển-đề vì hạng này chẳng phải pháp-khí.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y, hiểu rõ tám thứ thuốc trị lành tất cả bệnh, chỉ trừ người quyết định chết. Cũng vậy, tất cả khế kinh, thiền định, tam muội, có thể trị tất cả phiền não tham sân, si, mà không thể trị kẻ phạm bốn tội trọng, năm tội vô gián.

Này Thiện-nam-tử! Lại có lương y giỏi hơn, có thể chữa lành tất cả bệnh khổ của người, chỉ trừ bệnh quyết định chết. Cũng vậy, kinh điển Đại-thừa Đại- Niết-bàn này, có thể trừ tất cả phiền não, làm cho chúng sinh an trụ nơi nhân Như-Lai thanh tịnh, người chưa phát tâm làm cho phát tâm, chỉ trừ hạng nhất-xiển- đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y có thể dùng thuốc hay chữa trị cho các người mù, khiến mắt họ được sáng, thấy tất cả cảnh vật, chỉ chẳng thể trị lành con mắt của người sinh-manh. Cũng vậy, Kinh Đại-Niết-Bàn này có thể làm cho hàng Thanh-văn, Duyên-Giác khai phát huệ nhãn, khiến cho họ an trụ nơi vô lượng vô biên kinh điển Đại-thừa. Những người chưa phát tâm, hoặc phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián, kinh này đều có thể làm cho họ phát tâm bồ đề, chỉ trừ bọn nhất-xiển-đề, như kẻ sinh-manh.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y hiểu rõ tám khoa trị bệnh vì trị tất cả bệnh khổ cho người, dùng các phương thuốc, theo bệnh mà trị, mà người bệnh ngu chẳng muốn uống đó. Lương y xót thương, dắt người này về nhà mình, ép uống thuốc, bệnh liền được lành. Phụ nữ sinh sản, lá nhau chẳng ra, nếu uống thuốc này lá nhau liền ra, cũng làm cho hài nhi được an lành.

Cũng vậy, kinh điển Đại-thừa Đại-Niết-Bàn này có thể trừ vô lượng phiền não cho chúng sinh, trừ bốn tội trọng, năm tội vô gián, người chưa phát tâm đều làm cho phát tâm trừ hạng nhất-xiển-đề.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Phạm bốn tội trọng và năm tội vô gián gọi là rất nặng, rất ác. Ví như cây đa-la đã bị đốn chẳng còn mọc lại được. Những người phạm tội này chưa phát tâm bồ-đề thế nào có thể làm nhân bồ- đề cho họ được?”.

Này Thiện-nam-tử! Những người phạm tội này, hoặc ở trong chiêm bao thấy bị đọa địa ngục, thọ những sự khổ não, liền sinh lòng ăn năn, sau khi thức dậy, tin có quả báo lớn, bèn phát tâm bồ-đề.

Như hài nhi kia, lấn lần khôn lớn, thường nghĩ nhớ rằng: Lương y đó rất giỏi, nhờ ông cho thuốc, mẹ mình đặng an lành, do đó nên mạng của mình cũng đặng toàn. Cảm thương mẹ mình chịu nhiều sự khổ não, mang thai cả mười tháng, sau khi sinh nở, nhường khô nằm ướt, hốt rửa phân dải, bú mớm nuôi nấng. Vì những công ơn ấy, ta phải báo đền, săn sóc hầu hạ, tùy thuận cúng dường mẹ ta.

Người phạm bốn tội nặng và năm tội vô gián, lúc sắp chết nhớ đến kinh Đại- Niết-Bàn này, dầu đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, hay sinh trên trời, trong loài người, kinh điển này cũng làm nhân bồ-đề cho người này, trừ hạng nhất-xiển- đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y và con trai của lương y hiểu biết sâu rộng hơn các y sĩ khác, biết rành phương trừ độc : Độc rắn, độc rồng, độc rít, độc bò cạp, lại đem phương thuốc này thoa nơi giày dép, các độc trùng chạm đến chất độc liền tiêu, chỉ không thể tiêu được độc của đại-long.

Cũng vậy, nếu có chúng sinh phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián, kinh Đại Niết-Bàn này có thể làm cho tội tiêu diệt, an trụ nơi đạo bồ-đề. Oai thần của kinh làm cho chúng sinh được an-lạc chỉ trừ hạng nhất-xiển-đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như có người lấy chất thuốc độc thoa lên mặt trống, những người nghe tiếng trống này, dầu là vô tâm đều trúng độc mà chết, chỉ trừ một người.

Cũng vậy, những người nghe tiếng kinh Đại-Niết-Bàn này, bao nhiêu tham dục, sân- khuể, ngu si thảy đều dứt hết. Oai lực của kinh này có thể diệt trừ phiền não, dầu là người không lòng nghĩ nhớ. Người phạm bốn tội nặng, năm tội vô gián được nghe kinh này cũng thành nhân vô thượng bồ-đề, lần dứt phiền não, chỉ trừ hạng nhất- xiển-đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như đêm tối, tất cả công việc làm đều ngưng nghĩ. Nếu việc chưa làm xong phải chờ đến sáng ngày sau. Cũng vậy, người học Đại- thừa dầu tu tập theo khế kinh tất cả các môn thiền định, cần phải chờ nghe lời dạy vi mật của Như-Lai, nơi hội Đại-thừa Đại-Niết-Bàn rồi sau mới có thể tu tạo nghiệp nhân bồ-đề an trụ nơi chính pháp.

Như trời mưa nhuần thấm làm cho tất cả hột giống nẩy mầm lên cây, đơm bông kết trái, mọi người nhờ đó được no đủ, khỏi đói khát. Cũng vậy, pháp tạng của Như-Lai có thể diệt trừ tám thứ thống khổ. Kinh này ra đời, như những trái, hột đem sự no đủ an vui đến cho mọi người, tức là làm cho chúng sinh thấy Phật tính. Như trong hội Pháp-Hoa tám ngàn Thanh Văn đặng thọ ký thành Phật.

Hạng nhất-xiển-đề không tu tập pháp lành như mùa thịnh-động.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y nghe con người khác bị quỷ thần bắt, liền sai một người đem thuốc đến cứu, dặn rằng : Ngươi đem thuốc này mau trao cho người đó, sức thuốc sẽ làm cho quỷ thần tránh xa. Nếu người chậm trễ thời ta phải tự đi, quyết chẳng để người đó bị hại. Nếu người bệnh đó đặng thuốc, và oai đức của lương y, bệnh khổ liền hết. Cũng vậy, nếu Tỳ-kheo, Tỳ-kheo-ni, Ưu- bà- tắc, Ưu-bà-di, và hàng ngoại đạo có thể thọ trì đọc tụng kinh điển này, lại phân biệt giảng nói cho người khác, hoặc tự biên chép, khiến người biên chép, tất cả đều là nhân bồ-đề.

Nếu người phạm bốn tội nặng, năm tội nghịch, hoặc bị quỷ tà ác độc làm hại, nghe kinh điển này tất cả ác độc đều tiêu diệt, nên biết người này thật là Bồ-tát. Vì tạm đặng nghe kinh Đại-Niết-Bàn này, cũng do vì sinh lòng tưởng niệm Như- Lai thường-trụ. Tạm đặng nghe còn đặng công đức như vậy, huống là biên chép thọ trì đọc tụng, tất cả đều là Bồ-Tát, chỉ trừ hạng nhất-xiên-đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như người điếc chẳng nghe được tiếng. Cũng vậy, hàng nhất-xiển-đề dầu muốn nghe kinh điển vi diệu này, cũng chẳng đặng nghe.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y thông suốt tất cả phương thuốc và rộng biết vô lượng chú thuật. Lương y này thấy nhà vua bèn tâu rằng: “Nay Đại-Vương có bệnh nguy đến tính mạng”. Vua nói: “Khanh chẳng thấy việc trong bụng ta, sao lại nói rằng có bệnh nguy đến tính mạng”. Lương y tâu: “Nếu chẳng tin lời của thần, xin Đại-Vương uống thuốc xổ, sau khi xổ Đại-Vương tự nghiệm lấy”. Vua không bằng lòng uống.

Bấy giờ lương y dùng chú thuật làm cho hậu môn của vua sưng phồng lên và thòng xuống, trùng máu tuôn ra. Vua nhìn thấy kinh sợ, hết lời khen ngợi lương y: Ta rất tiếc trước chẳng dùng lời của khanh, giờ đây mới biết khanh thật lương y, nhờ khanh mà thân ta đặng an lạc. Vua bèn cung kính lương y xem như cha mẹ.

Kinh Đại-Niết-Bàn này cũng lại như vậy. Tất cả chúng sinh không luận hàng hữu dục hay vô dục, đều có thể làm phiền não của kia tiêu dứt.

Những chúng sinh này nhẫn đến trong chiêm bao, cung kính cúng dường kinh này, như nhà vua cung kính lương y.

Nếu vị lương y đó biết người quyết định chết thời không chữa trị. Cũng vậy, kinh Đại-Niết-Bàn này chẳng thể chữa trị hạng nhất-xiển-đề.

Này Thiện-nam-tử ! Ví như lương y biết rành tám khoa trị bệnh có thể trị lành tất cả các bệnh. Chỉ chẳng thể chữa trị người quyết định chết. Cũng vậy, chư Phật, Bồ-Tát, có thể cứu độ tất cả chúng sinh có tội, chỉ không thể độ hạng nhất-xiển-đề.

Này Thiện-nam-tử! Ví như lương y biết rành tám khoa trị bệnh, lại thông hiểu nhiều khoa cao siêu khác, đem chỗ hiểu biết của mình truyền dạy cho con. Lần lần truyền dạy cả tám khoa, lại dạy thêm những khoa cao siêu khác. Cũng vậy, Đức Như-Lai trước dạy các Tỳ-kheo những phương tiện diệt trừ tất cả phiền não, dạy quán thân chẳng bền chắc, quán thân thọ khổ, quán vô ngã, khiến các đệ tử học thông thuộc chín bộ kinh, rồi sau mới dạy học tạng Như-Lai bí mật, nói Như-Lai thường trụ. Đức Như-Lai nói kinh Đại-thừa Đại-Niếât-Bàn để làm nhân bồ-đề cho những chúng sinh đã phát tâm và người chưa phát tâm, chỉ trừ hạng nhất-xiển-đề.

Này Thiện-nam-tử! Kinh Đại-Niết-Bàn này là giáo pháp vô lượng vô số chẳng thể nghĩ bàn chưa từng có. Nên biết kinh này là lương y vô thượng tôn quý nhất hơn tất cả, là vua trong các kinh.

Này Thiện-nam-tử! Ví như thuyền lớn từ bờ biển này đi đến bờ kia lại từ bờ biển kia trở về bở này. Cũng vậy, Đức Như-Lai ngồi thuyền báu Đại-thừa Đại-Niết-Bàn qua lại tế độ chúng sinh. Nơi nào chốn nào có kẻ đáng được độ thời đều làm cho đặng thấy thân Như-Lai. Vì thế nên Đức Như-Lai có hiệu là vô-thượng thuyền-sư.

Ví như có thuyền, thời có thuyền sư, do có thuyền sư thời có người đi qua biển lớn. Đức Như-Lai thường trụ hóa độ chúng sinh cũng lại như vậy.

Này Thiện-nam-tử! Ví như có người ở trong biển lớn, ngồi thuyền muốn đi qua, nếu đặng thuận gió, thời trong khoảnh khắc có thể đi đặng trăm ngàn do tuần. Nếu chẳng đặng thuận gió dầu ngồi thuyền trải qua nhiều năm chẳng rời khỏi chỗ cũ, có lúc thuyền hư lủng, đắm chìm mà chết.

Cũng vậy, chúng sinh ở nơi biển lớn sinh tử ngu si, ngồi trên thuyền các công hạnh, nếu gặp được gió mạnh Đại-Niết-Bàn, thời có thể mau đến bờ vô thượng đạo. Nếu chẳng gặp kinh này, sẽ phải luân chuyển mãi trong sinh tử. Hoặc có lúc phá hư công hạnh, phải đọa địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.

Này Thiện-nam-tử! Ví như có người chẳng gặp gió thuận lớn, ở lâu trong biển nghĩ rằng: Nay chúng ta ắt chết tại đây. Lúc nghĩ như vậy bỗng gặp gió lớn, thuận theo gió qua khỏi biển, vui mừng nói rằng ngọn gió tốt này thật chưa từng có, làm cho chúng ta đặng an ổn qua khỏi nạn biển lớn. Cũng vậy, chúng sinh từ lâu ở trong biển lớn ngu si sinh tử, nghèo cùng tiều tụy khốn khổ, lúc chưa gặp kinh Đại-Niết-Bàn thời nên nghĩ rằng: Chúng ta quyết định phải đọa nơi địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Lúc chúng sinh này suy nghĩ như vậy, bỗng gặp kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, tùy thuận tu hành vào nơi vô thượng chính đẳng chính giác, khen rằng : Chúng ta từ trước đến nay chưa từng được nghe tạng Như-Lai vi mật như vậy. Lúc bấy giờ mới sinh lòng tin thanh tịnh đối với kinh Đại- Niết-Bàn.

- Này Thiện-nam-tử! Như rắn lột da, nó có chết đặng chăng?

- Bạch Thế-Tôn! “Rắn không chết”.

- Này Thiện-nam-tử! Cũng vậy, Đức Như-Lai phương tiện thị hiện dứt bỏ thân độc này, có thể nói rằng Đức Như-Lai là vô thường diệt mất ư.

- Bạch Thế-Tôn! Không phải vậy.

Đức Như-Lai ở trong Diêm-Phù-Đề phương tiện bỏ thân, như rắn kia lột bỏ lớp da cũ, vì thế nên Đức Như-Lai gọi là thường trụ.

- Này Thiện-nam-tử! Ví như thợ kim hoàn đặng vàng thật tốt làm thành các món đồ tùy theo ý mình. Cũng vậy, Đức Như-Lai ở trong hai mươi lăm cõi, vì hóa độ chúng sinh khỏi dòng sinh tử, nên thị hiện các thứ sắc thân tùy ý tự tại, nên Đức Như-Lai có hiệu là vô-biên-thân. Dầu lại thị hiện các thứ sắc thân, nhưng cũng gọi là thường trụ không biến đổi.

Này Thiện-nam-tử! Như cây Am-la và cây Diêm-phù. Trong một năm ba lần biến đổi; có lúc sinh bông màu sắc sáng rỡ, có lúc mọc lá sum sê rậm rợp, có lúc điêu tàn như khô chết.

Này Thiện-nam-tử! Cây ấy có thiệt là khô chết chăng?

- Bạch Thế-Tôn! Cây ấy không phải chết.

- Này Thiện-nam-tử! Đức Như-Lai ở trong ba cõi, thị hiện ba thứ sắc thân cũng lại như vậy: Có lúc mới giáng sinh, có thời kỳ lớn khôn, có thời kỳ nhập Niết- Bàn. Dầu vậy, nhưng thân Đức Như-Lai thiệt chẳng phải vô thường.

Ca-Diếp Bồ-Tát tán thán rằng: “Lành thay! Lành thay! Thiệt đúng như lời Phật dạy: Đức Như-Lai thường trụ không có biến đổi”.

Này Thiện-nam-tử! Mật ngữ của Như-Lai rất sâu khó hiểu, ví như nhà vua bảo các quan đem Tiên-Đà-Bà đến. Danh từ Tiên-Đà-Bà chỉ cho bốn thứ: Một là muối, hai là chén, ba là nước, bốn là ngựa. Có cả bốn thứ ấy đều đồng một danh từ Tiên-Đà-Bà. Quan hầu có trí biết rành danh từ này. Lúc vua muốn rửa ráy đòi Tiên-Đà-Bà, liền dưng nước. Lúc vua ăn đòi Tiên-Đà-Bà liền dưng muối. Lúc vua ăn xong muốn uống nước ngọt, đòi Tiên-Đà-Bà liền dưng chén. Lúc vua muốn du hành đòi Tiên-Đà-Bà liền đem ngựa dưng. Quan hầu có trí hiểu rành mật ngữ của nhà vua.

Kinh Đại-thừa này có bốn nghĩa vô thường cũng như vậy. Hàng Phật-tử Đại-thừa phải nên biết rành. Nếu đức Phật ra đời vì chúng sinh nói Như-Lai Niết-Bàn, người trí nên biết đây là đức Như-Lai vì người chấp thường mà nói pháp quán vô thường, muốn cho các Tỳ-kheo tu pháp quán vô thường. Hoặc Đức Phật lại nói chính pháp sẽ diệt, người trí nên biết đây là đức Như-Lai vì người chấp lạc nói pháp quán về khổ, muốn cho các Tỳ-kheo tu pháp quán khổ. Hoặc đức Như-Lai nói, nay ta bệnh khổ, chúng Tăng phá hoại. Người trí nên biết đây là đức Như-Lai vì người chấp ngã nói pháp quán vô ngã, muốn cho các Tỳ-kheo tu pháp quán vô ngã. Hoặc Đức Phật lại nói, pháp quán không là chính giải thoát. Người trí nên biết đây là đức Như-Lai nói chính giải thoát, không hai mươi lăm cõi, muốn cho các Tỳ-kheo tu học pháp quán không. Vì nghĩa này nên chính giải thoát gọi là không, cũng gọi là bất động. Bất động là vì trong giải thoát không có khổ. Cho nên bất động là chính giải thoát, là không có tướng. Nói rằng không tướng đó là không có sắc, thanh, hương, vị, xúc vân vân, nên gọi là không tướng. Chính giải thoát này thường chẳng biến đổi. Trong giải thoát này không có vô thường khổ não biến đổi. Vì thế nên giải thoát hiệu là thường trụ, mát mẻ chẳng biến đổi.

Hoặc đức Phật nói rằng tất cả chúng sinh đều có Như-Lai tính. Người trí nên biết.

Đây là đức Như-Lai nói pháp thường, muốn cho các Tỳ-kheo tu tập pháp thường. Các Tỳ-kheo này nếu có thể tùy thuận học tập như vậy, nên biết người này thật là đệ-tử của Phật, biết rành tạng Như-Lai vi mật, như quan hầu có trí, biết rành ý của nhà vua.

Này Thiện-nam-tử! Nhà vua kia cũng có mật ngữ như vậy, huống là đức Như-Lai mà lại không có.

Này Thiện-nam-tử! Vì thế nên giáo pháp vi mật của Như-Lai khó có thể biết được. Chỉ người trí mới có thể hiểu được Phật pháp rất sâu vi diệu của Như-Lai, chẳng phải hạng phàm phu trong đời mà có thể tin được.

Này Thiện-nam-tử! Như cây Ba-la-xa cây Ca-ni-ca, cây A-thúc-ca gặp lúc nắng hạn thời chẳng sinh hoa trái. Nhẫn đến các sinh vật dưới nước trên đất thảy đều khô héo, không thể tăng trưởng, tất cả các phương thuốc không còn công hiệu.

Kinh Đai-thừa Đại-Niết-Bàn này cũng lại như vậy. Sau khi ta diệt độ, có các chúng sinh chẳng thể cung kính thời chẳng có oai đức. Vì các chúng sinh này chẳng biết tạng Như-Lai vi mật, bởi chúng sinh này phước đức mỏng kém.

Này Thiện-nam-tử! Lúc chính pháp của Như-Lai sắp diệt, bây giờ có số đông ác hạnh Tỳ-kheo chẳng biết tạng Như-Lai vi mật, chểnh mảng biếng nhác, chẳng thể đọc tụng tuyên dương chính pháp của Như-Lai.

Ví như kẻ cướp ngu si, vất bỏ châu báu mà mang gánh cỏ trấu. Vì chẳng hiểu tạng Như-Lai vi mật nên biếng nhác đối với kinh này.

Thương thay đời vị lai rất nguy hiểm, rất đáng sợ sệt.

Khổ thay chúng sinh chẳng siêng năng thọ trì kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn này.

Chỉ các vị Đại Bồ-Tát có thể ở nơi kinh này chẳng chấp văn tự, tùy thuận nghĩa chân thật mà vì chúng sinh giảng nói.

Này Thiện-nam-tử! Như đứa gái chăn bò vì muốn bán sữa, tham lợi nhiều nên thêm hai phần nước rồi bán cho đứa gái chăn bò khác. Đứa gái kia lại thêm hai phần nước rồi bán lại cho đứa gái ở gần thành. Đứa gái này lại thêm hai phần nước rồi bán lại cho đứa gái ở trong thành. Đứa gái này lại thêm hai phần nước rồi đem ra chợ bán. Bấy giờ có một người cần sữa tốt để đãi tân khách, nên đến chợ muốn mua sữa. Đứa gái bán sữa đòi giá mắc. Người mua nói sữa này pha nhiều nước, không đến giá đó, nay nhằm lúc tôi phải đãi đằng tân khách nên đành mua mắc. Mua xong đem về nhà, nấu thành cháo trọn không có mùi sữa. Dầu không có mùi sữa, nhưng cũng ngàn lần hơn vị chát đắng, vì vị sữa hơn hết trong các vị.

Này Thiện-nam-tử! Sau khi ta nhập Niết-Bàn, lúc chính pháp chưa dứt, còn tám mươi năm, kinh này sẽ lưu hành rộng nơi Diêm-Phù-Đề. Lúc bấy giờ sẽ có các ác Tỳ-kheo sao lược kinh này chia làm nhiều phần, có thể làm mất mùi vị tốt đẹp của chính pháp. Những người này dầu đọc tụng kinh điển đây, nhưng lại diệt trừ yếu nghĩa thâm mật của Như-Lai, đem lời thế gian vô nghĩa văn sức lẫn lộn, sao phần trước để ở sau, sao phần sau để ở trước, phần trước phần sau để ở giữa, phần giữa để ở phía sau phía trước. Nên biết các Tỳ-kheo này là bạn bè của ma. Họ nhận chứa tất cả vật bất tịnh mà nói rằng đức Như-Lai đều cho chúng tôi nhận chứa. Như đứa gái chăn bò pha nhiều nước vào trong sữa. Cũng vậy, các ác Tỳ-kheo này đem lời thế tục xen tạp vào kinh này. Làm cho đa số chúng sinh chẳng đặng lời nói chân chính, biên chép chân chính, nhận lấy chân chính, để tôn trọng tán thán cúng dường cung kính. Ác Tỳ-kheo đây vì lợi dưỡng nên chẳng thể lưu truyền rộn kinh này. Dầu có lưu truyền cũng là chút ít phần chẳng đáng kể. Như các đứa gái xoay vần bán sữa. Nhẫn đến nấu thành cháo mà không có vị sữa. Cũng vậy, Kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn này lần lượt lạt lẽo không có khí vị. Dầu không khí vị vẫn còn hơn những kinh khác cả ngàn lần. Như cháo không mùi sữa kia vẫn ngàn lần hơn các vị đắng. Vì kinh Đại- thừa Đại-Niết-Bàn này là thượng-thủ nhất đối với kinh điển Thanh-văn. Như sữa bò hơn hết trong các vị. Vì nghĩa này nên gọi là Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.

Này Thiện-nam-tử! Như loài người không ai chẳng mong mỏi được thân nam tử. Vì thân người nữ đều là chỗ nhóm ở của các sự nhơ xấu.

Này Thiện-nam-tử! Như nước tiểu của con muỗi không thể làm cho mặt đất được nhuần ướt. Người nữ lòng dục khó đầy cũng như vậy. Ví như cả quả địa cầu, đem vò viên như hột đình lịch. Nam tử đông như số hột ấy, cùng dâm với một người nữ, vẫn không thể đủ.

Giả sử số nam tử như hằng sa cùng dâm với một người nữ, cũng không thể đủ.

Ví như trời mưa, trăm sông các giòng đều chảy vào biển cả, mà biển cả vẫn chưa từng đầy.

Cũng vậy, giả sử tất cả đều là nam tử, cùng dâm với một người nữ cũng không đủ.

Này Thiện-nam-tử! Như cây A-thúc-ca, cây Ba-tra-la, cây Ca-ni-ca, mùa xuân hoa nở, có con ong hút lấy hương tế nhị của hoa chẳng chán chẳng đủ.

Cũng vậy, người nữ muốn người nam chẳng nhàm chẳng đủ.

Này Thiên-nam-tử! Do nghĩa này nên mọi người khi nghe kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn này, thường phải quở trách thân nữ cầu được thân nam. Vì kinh này có tướng trượng phu, tức là Phật tính. Nếu người chẳng biết Phật tính này, thời không có tướng nam, ta nói những người nàygọi là nữ nhân. Nếu có thể tự biết Phật tính, ta nói người này gọi là tướng trượng phu. Nếu có người nữ biết thân mình quyết có Phật tính, nên biết những người này chính là nam tử.

Kinh Đại-thừa Đại-Niết-bàn này chứa nhóm vô lượng vô biên công đức chẳng thể nghĩ bàn, vì nói tạng Như-Lai vi mật. Thế nên mọi người nếu muốn mau biết tạng Như-Lai, nên phải phương tiện siêng tu kinh này.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Phải lắm, phải lắm, đúng như lời Phật nói. Nay tôi nhân có tướng trượng phu nên đặng vào tạng Như-Lai vi mật. Hôm nay đức Như-Lai mới giác ngộ cho tôi, nhân đây tôi liền được quyết định thông đạt”.

Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện-nam-tử! Nay ông tùy thuận thế gian mà nói”.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Tôi chẳng tùy thuận pháp thế gian”.

Đức Phật khen ngợi Ca-Diếp Bồ-tát: “Lành thay! Lành thay! Nay chỗ biết của ông là pháp vị vô thượng, pháp ấy rất sâu khó biết mà ông có thể biết đặng. Như con ong hút lấy mật hoa.

Này Thiện-nam-tử! Như nước tiểu của con muỗi không thể làm cho mặt đất được thấm ướt. Đời đương-lai kinh này lưu truyền cũng lại như vậy. Lúc chính pháp sắp diệt, kinh này sẽ trước ẩn mất nơi cõi đất này. Nên biết đó là tướng suy của chính pháp.

Này Thiện-nam-tử! Ví như hết mùa hạ qua đầu mùa thu, mưa thu tầm tã. Cũng vậy, kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn này vì các vị Bồ-Tát ở phương nam sẽ lưu truyền rộng, rưới pháp võ đầy khắp xứ ấy. Lúc chính pháp sắp diệt, kinh này sẽ truyền đủ nơi nước Kế-Tân. Hoặc có người tin, có người chẳng tin, kinh này ẩn mất trong đất. Khi kinh này ẩn mất rồi, tất cả kinh điển Đại-thừa khác, thảy đều dứt mất. Nếu ai gặp đặng kinh này đầy đủ, thời người đó là đệ nhất trong loài ngươi. Các hàng Bồ-Tát nên biết chính pháp vô thượng của Như-Lai sắp diệt chẳng còn lâu.

Lúc bấy giờ ngài Văn-Thù Sư-Lợi bạch Phật rằng: “Thế-tôn! Nay ông Thuần-Đà còn có tâm nghi, ngưỡng mong đức Như-Lai vì ông giảng giải.

- Này Thiện-nam-tử! Tâm nghi thế nào, ông cứ trình bày Như-Lai sẽ dạy nữa cho.

Văn-Thù Sư-Lợi nói: “Ông Thuần-Đà nghi rằng: Đức Như-Lai là thường trụ, do vì đặng sức tri kiến Phật tính. Nếu thấy Phật tính mà là thường trụ, thời lúc trước chưa thấy lẽ ra là vô thường. Nếu lúc trước là vô thường, lúc sau cũng phải như vậy. Như những vật trong đời trước không nay có, có rồi trở thành không. Những vật như vậy đều là vô thường. Do nghĩa này nên chư Phật, Bồ- Tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn không sai khác nhau”.

Đức Thế-Tôn liền nói kệ rằng:

Trước có nay không,

Tước không nay có,

Trọn không có nghĩa.

Ba đời là có.

Này Thiện-nam-tử! Do nghĩa này mà chư Phật, Bồ-Tát, Duyên-Giác, Thanh- Văn, cũng có sai khác.

Văn-Thù Sư-Lợi tán thán rằng: “Lành thay! Thiệt như lời dạy của Như-Lai, nay tôi mới biết chư Phật, Bồ-Tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn cũng có sai khác, cũng không sai khác.”

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Như lời Phật nói, Chư Phật, Bồ- tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn, tính không sai khác, cúi mong đức Như-Lai giảng rộng nghĩa ấy, để lợi ích, an lạc tất cả chúng sinh.”

Phật nói: “Này Thiện-nam-tử! Lóng nghe suy xét kỹ, đức Như-Lai sẽ vì ông giảng nói nghĩa ấy.

Này Thiện-nam-Tử! Ví như trưởng giả nuôi nhiều bò sữa, đủ các màu lông, sai một người chăn nuôi. Một hôm người chăn vì sự cúng kiếng, vắt sữa tất cả bò đựng chung trong một thùng. Người ấy thấy sữa đồng một màu trắng, lấy làm lạ nghĩ rằng : Bầy bò mỗi con đều khác màu, sao sữa của chúng nó đều đồng màu. Người ấy ngẫm kỹ, xét rằng tất cả đều do nhân duyên nghiệp báo của chúng sinh làm cho sữa đồng một màu.

Này Thiện-nam-tử! Hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát, đồng một Phật tính, như sữa của bầy bò đồng một màu. Vì đồng sạch hết phiền não. Nhưng các chúng sinh nói chư Phật, Bồ-Tát, Duyên-Giác, Thanh-Văn, sai khác nhau. Cũng có hàng Thanh-Văn và người phàm phu nghĩ rằng: Ba thừa sao lại không sai khác. Những người này lâu lâu về sau tự hiểu rằng, tất cả ba thừa đồng một Phật tính. Như người chăn bò hiểu rằng màu sữa đồng một, là do nhân duyên nghiệp báo.

Này Thiện-nam-tử! Ví như quặng vàng, nấu lọc cặn bã, sau khi tiêu dụng thành vàng, thời giá trị vô lượng. Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát đều đặng thành tựu đồng một Phật tính, vì trừ hết phiền não, như quặng vàng trừ hết cặn bã thành vàng. Do nghĩa này nên tất cả chúng sinh đồng một Phật tính không có sai khác. Vì họ trước kia nghe tạng Như-Lai vi mật, thời gian sau thành Phật tự nhiên đặng biết, vì dứt vô lượng phiền não. Như ông Trưởng giả kia biết sữa đồng một màu”.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật rằng: “Thế-tôn! Nếu tất cả chúng sinh đều có Phật tính, thời Phật cùng chúng sinh có gì sai khác. Người nói như vậy có nhiều lỗi lầm. Nếu các chúng sinh đều có Phật tính, do nhân duyên gì Ngài Xá-Lợi- Phất vân vân lại nhập Tiểu Niết-Bàn. Hàng Duyên-Giác nhập Trung Niết-Bàn, các vị Bồ-Tát nhập Đại Niết-Bàn. Ba hạng người như vậy nếu đồng Phật tính sao lại chẳng đồng nhập Đại-Niết-Bàn như Đức Như-Lai?”.

- Này Thiện-nam-tử! Niết-Bàn của chư Phật Thế-Tôn chính là chẳng phải cho ãchứng của Thanh-Văn, Duyên-Giác, do nghĩa này nếu nhập Đại Niết-Bàn gọi là thuần-thiện. Thế gian nếu không Phật ra đời chẳng phải là không có hàng nhị thừa chứng đặng hai thứ Niết-Bàn”.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Nghĩa ấy như thế nào?”.

Phật nói vô lượng vô biên vô số kiếp mới có một đức Phật hiện ra nơi đời khai thị pháp tam thừa.

Này Thiện-nam-tử! Như lời ông nói, Bồ-Tát, Duyên-Giác và Thanh-Văn không sai khác đó, trước kia trong tạng Như-Lai Đại-Niết-Bàn này ta đã có nói nghĩa đó. Các vị A-La-Hán không có thuần thiện, vì các vị A-La-Hán đều sẽ đặng Đại-Niết- Bàn này, do nghĩa này nên nhập Đại-Niết-Bàn có lạc rốt ráo, vì có lạc rốt ráo nên gọi là nhập Đại-Niết-Bàn.

Ca-Diếp Bồ-tát bạch Phật rằng: “Như lời Phật nói tôi nay mới biết nghĩa sai khác, cùng nghĩa không sai khác, vì tất cả Bồ-Tát Thanh-Văn, Duyên-Giác đều sẽ đồng qui nơi Đại-Niết-Bàn ở đời vị lai, như các dòng nước chảy về biển cả. Thế nên hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác đều gọi là thường chẳng phải là vô thường. Do nghĩa này nên cũng có sai khác, cũng không sai khác.

- Bạch Thế-Tôn! Thế nào là tính sai khác?

- Này Thiện-nam-tử! Thanh-Văn như sữa. Duyên-Giác như lạc, Bồ-Tát như sinh-tô thục-tô, chư Phật Thế-tôn như đề-hồ. Do nghĩa này nên trong Đại- Niết- Bàn nói bốn chủng tính sai khác nhau.

- Bạch Thế-Tôn! Tính tướng của tất cả chúng sinh như thế nào?

- Này Thiện-nam-tử! Như bò mới sinh, sữa máu chưa sai khác. Tính phàm phu các phiền não xen tạp cũng lại như vậy.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch rằng: “Trong thành Câu-Thi-La có gã chiên-đà-la tên là Hoan-Hỷ, Phật thọ ký người này do một lần phát tâm nên sẽ mau thành đạo vô thượng chính giác trong số ngàn Phật ở thế giới này. Cớ sao đức Như-Lai chẳng thọ ký cho Tôn-Giả Xá-Lợi-Phất, Tôn-Gỉa Mục-Kiền-Liên vân vân, mau thành Phật đạo?

- Này Thiện-nam-tử! Hoặc có Thanh-Văn, Duyên-Giác, Bồ-Tát phát nguyện rằng: Tôi sẽ mãi mãi hộ trì chính pháp vậy sau mới thành Phật đạo. Vì phát nguyện mau, nên thọ ký cho mau thành Phật.

Này Thiện-nam-tử! Ví như người buôn bán, có châu báu vô giá đem ra chợ bán. Người ngu thấy báu chẳng biết, khinh cười. Nhà buôn xướng rằng châu báu của tôi giá trị vô số. Bọn ngu càng nghe lại khinh cười thêm bảo nhau rằng: Thứ đó không phải chân châu hay là châu pha lê. Cũng vậy, hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác nếu nghe thọ ký mau thành Phật, thời bèn giãi đãi khinh cười coi rẽ. Như bọn người ngu chẳng biết chân châu.

Đời vị lai có hàng Tỳ-kheo chẳng thể siêng năng tu tập pháp lành. Do nghèo cùng khốn khổ, đói khát mà xuất gia để thân được no ấm, tâm chí họ khinh tháo, tà mạn, siểm khúc. Hạng này nếu nghe đức Như-Lai thọ ký hàng Thanh-Văn mau thành Phật, họ sẽ cả cười khinh mạn chê bai. Nên biết bọn này tức là kẻ phá giới, tự nói rằng đã chứng đặng hơn người. Do nghĩa này nên tùy theo người phát nguyện mau thành, thời thọ ký cho mau thành. Người hộ trì chính pháp, thời vì thọ ký cho lâu thành.

Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Đại Bồ-Tát như thế nào sẽ đặng chẳng hư hoại quyến thuộc?

Phật nói: “Nếu các Bồ-tát siêng năng tinh tấn muốn hộ trì chính pháp. Do nhân duyên này được quyến thuộc chẳng thể hư hoại”.

- Bạch Thế-Tôn! Do nhân duyên gì chúng sinh môi miệng khô cháy?

- Nếu có người chẳng biết Tam-bảo là thường còn, do nhân duyên này, môi miệng khô cháy. Như người miệng bệnh chẳng biết vị ngọt, đắng, cay, chua mặn, lạt. Tất cả chúng sinh ngu si vô trí chẳng biết Tam-bảo là thường còn, thế nên gọi là môi miệng khô cháy.

Này Thiện-nam-tử! Nếu có chúng sinh chẳng biết Như-Lai là thường trụ, nên biết người này là kẻ sinh manh, nếu biết Như-Lai là thường trụ, người này dầu là nhục nhãn nhưng Phật nói là thiên-nhãn.

Này Thiện-nam-tử! Nếu người có thể biết Như-Lai là thường trụ nên biết người này từ lâu đã tu tập kinh điển này. Phật nói những người này cũng gọi là thiên nhãn.

Nếu chẳng thể biết Như-Lai là thường trụ, người này dầu có thiên nhãn, nhưng Phật gọi là nhục nhãn. Người này nhẫn đến chẳng biết tay chân chi tiết của thân mình, cũng không thể làm cho người khác biết, do nghĩa này nên gọi là nhục nhãn.

Này Thiện-nam-tử! Đức Như-Lai thường vì tất cả chúng sinh mà làm cha mẹ. Vì tất cả chúng sinh các thứ hình loại: Hai chân, bốn chân, nhiều chân, không chân, đức Phật dùng một âm thanh mà vì thuyết pháp. Những loài chúng sinh khác nhau kia đều tự đặng nhận hiểu, đều tán thán rằng: Đức Như-Lai ngày nay vì tôi mà thuyết pháp. Do nghĩa này nên đức Như-Lai gọi là cha mẹ.

Này Thiện-nam-tử! Như người sinh con trai mới được mười sáu tháng, đứa trẻ dầu biết nói nhưng chưa rành rẽ. Mà cha mẹ của đứa trẻ muốn dạy con nói, nên theo đồng tiếng của nó để dạy lần lần. Lời nói của cha mẹ đứa trẻ có phải là chẳng đúng giọng ư?

- Bạch Thế-tôn! Không phải vậy.

- Này Thiện-nam-tử! Chư Phật Như-Lai tùy theo các thứ tiếng nói của mọi loài chúng sinh mà thuyết pháp. Vì làm cho chúng sinh an trụ nơi chính pháp. Tùy theo chúng sinh đáng được thấy mà vì thị hiện các thứ hình tượng. Đức Như-Lai nói năng đồng với chúng sinh, có thể cho rằng âm thanh của Như-Lai là chẳng chính ư?

- Bạch Thế-Tôn! Không phải vậy. Vì Đức Như-Lai tùy thuận theo các thứ âm thanh của thế gian, mà vì chúng sinh diễn nói diệu-pháp.


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5770611
Số người trực tuyến: