Kinh công đức tạo tượng - Quyển hạ | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Kinh công đức tạo tượng - Quyển hạ

KINH ĐẠI THỪA CÔNG ĐỨC TẠO TƯỢNG PHẬT

QUYỂN HẠ

Bấy giờ, Đức Phật ngồi tòa Sư Tử[35] tại nơi đạo tràng nước Tăng Già Thi. Tâm của bốn chúng người nào cũng nghĩ: “Chúng ta mong được nghe Đức Như Lai diễn nói công đức của sự tạo tượng. Nếu chúng sinh nào làm kẻ ấy được phước cỡ nào?”

Lúc đó, Ngài đại Bồ Tát Di Lặc biết ý nghĩ ấy liền từ chỗ ngồi đứng dậy sửa áo, hở vai bên mặt, quỳ thẳng chấp tay bạch lên Đức Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Vua Ưu Đà Diên tạo hình tượng Phật, nếu Phật ở đời hoặc Niết Bàn rồi, người có lòng tin, có thể tùy phần tạo hình tượng Phật, người ấy gặt hái công đức thế nào? Cúi mong Thế Tôn nói rộng tướng ấy.

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

- Di Lặc lóng nghe và khéo nhớ lấy, sẽ vì ông nói.

- Nếu có thiện nam, người thiện nữ nào đức tin trong sạch, chuyên ròng buộc niệm về công Đức Phật, thường xét Như Lai oai đức tự tại, đầy đủ. Mười lực, Bốn Vô sở úy[36], Mười tám pháp Bất cộng, Đại từ, Đại bi, Nhất thiết Chủng trí, ba mươi hai tướng của Đại trượng phu, Tám mươi tướng phụ. Mỗi lỗ chân lông đều có vô lượng ánh sáng khác màu, trăm ngàn ức thứ phước đức siêu thắng trang nghiêm tạo thành, vô lượng trí tuệ sáng tỏ thông suốt, vô lượng Tam muội, vô lượng thần thông... Tất cả các thứ công đức như vậy không có hạn lượng, lìa các lỗi lầm, không ai sánh bằng.

Người nào xét nghĩ rồi sinh tin ưa một cách sâu sắc, y các tướng tốt mà tạo tượng Phật, công đức người ấy rộng lớn vô biên, không thể tính đếm.

- Di Lặc! Nếu có người nào dùng những tơ sợi, thêu thùa tượng Phật[37] hoặc là nấu đúc bằng thứ vàng, bạc, đồng, sắt, chì, kẽm. Hoặc điêu khắc bằng gỗ thơm Chiên đàn, hoặc khắc bằng thứ trân châu, sò ốc, gấm vóc dệt thành, đất đỏ xi măng, thạch cao, đất sét, hoặc các thứ gỗ... Dùng những vật đó tùy phần sức mình tạo ra tượng Phật[38], cho đến rất nhỏ như ngón tay cái, có thể khiến cho người khác nhìn biết đó là Tôn tượng, phước báo người nay ta sẽ nói:

- Di Lặc! Những người như vậy ở trong sinh tử tuy còn trôi lăn, trọn chẳng sinh tại gia đình nghèo cùng, cũng chẳng sinh nhà dòng dõi thấp hèn, cô đơn hẻo lánh ở ven cõi nước. Lại cũng chẳng sinh vào nhà tà kiến, con buôn, con bán, nhà làm hàng thịt, cho đến chẳng sinh vào giòng hèn hạ, kỹ nữ bất tịnh, hoặc nhà ngoại đạo, khổ hạnh tà kiến, trừ khi vì sức thệ nguyện Từ Bi, ngoài ra chẳng sinh vào những nhà ấy.

Người này thường sinh nhà thuộc giòng tộc vua Chính Chuyển Luân có thế lực lớn. Hoặc sinh giòng Bà La Môn tịnh hạnh, hoặc nhà giàu sang không tạo tội nặng. Sinh ở nơi nào cũng thường gặp Phật, vâng thờ cúng dường. Hoặc được làm vua hộ trì chính pháp, đem pháp giáo hóa, chẳng làm trái đạo. Hoặc làm vua Thánh Chuyển Luân oai hùng, bảy báu thành tựu, đủ ngàn người con, bay đi trên không giáo hóa bốn châu, suốt một cuộc đời tự tại giàu vui. Hoặc làm Đế Thích, vua Trời Dạ Ma, vua trời Đâu Suất, vua trời Hóa Lạc, vua trời Tha Hóa Tự Tại, lạc thú Trời người, không gì chẳng hưởng. Phước báo như thế nối tiếp không dứt. Sinh ra nơi đâu cũng là đàn ông, không chịu thân nữ, lại chẳng chịu thân huỳnh môn hai hình là thứ hèn hạ. Thân được thọ sinh không bị xấu xí, mắt chẳng mù chột, tai chẳng điếc lác, mũi chẳng cong gãy, miệng chẳng méo lệch, môi chẳng trề xuống, cũng chẳng túm rút, răng chẳng thưa thiếu chẳng đen, chẳng vàng, lưỡi chẳng ngắn thụt, cổ chẳng bướu nhọt, thân chẳng lưng gù, da chẳng loang lỗ, tay chẳng cụt ngủn, chân chẳng lệch què, chẳng quá ốm o, chẳng quá béo mập, cũng chẳng quá dài, cũng chẳng quá ngắn... Đều không có các tướng chẳng đáng ưa.

Thân của người ấy thẳng thóm đoan trang, mặt mày đầy đặn. Tóc màu xanh biếc mềm mại, sáng sạch. Môi đỏ như son, mắt như sen xanh, tướng lưỡi rộng dài. Răng trắng bằng khít, nói ra hay khéo, khiến người nghe ai cũng vui đẹp. Khuỷu tay vừa chừng. Bàn tay bằng phẳng, lưng vế no đầy, vai ngực nở nang, tay chân dịu dàng dường như bông vải, các tướng đầy đủ không bị khuyết giảm gân sức tất mạnh, tựa hồ như trời Na La Diên[39].

- Di Lặc! Ví như có người rớt vào hầm cầu tiêu, từ đó được ra, cạo bỏ phần uế, lấy nước rửa sạch, dùng hương thoa thân, mặc áo mới sạch... Người như thế đó so với người còn ở trong hầm tiêu, chưa được ra khỏi, vậy sự nhơ sạch và sự thơm, hỏi cách nhau bao nhiêu? Kính bạch Thế Tôn việc ấy cách xa không biết mấy lần!

- Di Lặc! Nếu có người nào còn trong sinh tử, hay phát lòng tin tạo hình tượng Phật, so sánh với lúc người ấy chưa tạo, thì sự cách xa lại cũng như vậy. Nên biết người ấy đời đời sinh ra trừ sạch nghiệp chướng, các thứ kỹ thuật, không thấy mà hiểu. Tuy sinh làm người mà các giác quan được coi như cõi trời. Nếu sinh lên trời, thì trỗi vượt hơn rất nhiều Thiên chúng. Sinh ra nơi nào cũng không tật nguyền, không bị phong hủi, không bị ung thư, không bị dựa nhập bởi các quỷ mị. Không mắc những bịnh điên cuồng khô héo, vàng da sốt rét, sạn hòn, ghẻ dữ, thẹo sâu, thổ tả vô độ, ăn uống không tiêu, cựa mình nhức nhối, tê liệt nửa người...Những bệnh như vậy bốn trăm bốn chứng thảy đều không có[40].

Lại cũng chẳng bị các thứ thuốc độc, binh khí gậy gộc, cọp sói, sư tử, nước, lửa, trộm, cướp... những duyên xảy ra bất ngờ như vậy không làm tổn hại. Thường được không sợ, chẳng phạm các tội.

- Di Lặc! Nếu có chúng sinh trước tạo nghiệp ác, phải chịu đủ thứ các sự khổ não, như bị kềm kẹp, còng khóa, gông xiềng, đánh mắng, đốt châm, xẻ da nhổ tóc, treo ngược lên cao, cho đến hoặc bị mổ xẻ lòng đốt... Nếu phát lòng tin tạo hình tượng Phật, thì khổ báo ấy thảy đều chẳng thọ. Chẳng sinh những chỗ giặc giã quấy nhiễu, thành ấy sụp đổ, sao dữ biến quái, đói kém ôn dịch... Những chỗ như thế đều chẳng sinh đến, nếu nói có sinh, đó là vọng ngữ.

Lúc ấy, Ngài Đại Bồ Tát Di Lặc bạch Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói “Nghiệp lành, nghiệp dữ đều chẳng mất mát.[41]” Nếu có chúng sinh gây tạo nghiệp nặng, phải sinh vào nhà giòng họ hèn mọn, nghèo nàn tật nguyền, mạng sống ngắn ngủi. Sau phát lòng tin tạo hình tượng Phật, các tội báo này là còn phải chịu hay là chẳng chịu?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

- Ông nay nghe kỹ, sẽ vì ông nói. Nếu chúng sinh nào gây các tội rồi, phát tâm tạo tượng cầu xin sám hối, quyết định tự dứt, thề không phạm lại, thì tội tạo phước đều được tiêu diệt. Nay ta vì ông nêu rộng việc này.

- Di Lặc! Ví như có người đời trước sẻn lận, do duyên cớ đó chịu khổ nghèo nàn, không có của cải, thiếu thốn vật dùng, bỗng gặp Tỳ kheo trước đó nhập định, từ định vừa xuất, người kia liền đem món ăn thức uống dâng lên cúng thí, người ấy thí rồi khỏi khổ nghèo nàn, phàm có cầu gì, đều như ý muốn. Di Lặc! Nghiệp ác đời trước và chỗ mắc báo của người nghèo kia nay có còn chăng?

Ngài Di Lặc thưa:

- Kính bạch Thế Tôn! Nhờ cúng thức ăn mà nghiệp ác cũ thảy đều diệt hết, lìa hẳn nghèo nàn và được giàu có, của cải sung túc.

Đức Phật dạy rằng:

- Bồ Tát Di Lặc! Đúng như ông nói, nên biết, người kia lại cũng như vậy. Nhờ tạo tượng nên những nghiệp ác cũ hết hẳn không còn, chỗ đáng chịu báo đều chẳng chịu nữa.

- Di Lặc! Nghiệp có ba thứ[42]. Một là, hiện đời chịu báo. Hai là, đời sau chịu báo. Ba là, nhiều đời về sau mới chịu quả báo... Trong ba loại nghiệp như vừa nêu trên, mỗi nghiệp đều có Định và Bất định. Người có lòng tin tạo hình tượng Phật, chỉ có định nghiệp là trong hiện đời chịu lãnh ít phần, ngoài ra chẳng chịu những thứ nghiệp khác.

Khi ấy, Bồ Tát Di Lặc bạch rằng:

- Kính bạch Thế Tôn! Như Lai thường nói: Có năm thứ nghiệp rất là sâu nặng, quyết định đọa tại địa ngục vô gián[43]. Đó là các tội: giết cha, hại mẹ, giết A La Hán, ác tâm làm cho thân Phật ra máu, phá hòa hợp Tăng. Nếu có chúng sinh trước tạo tội này, sau sinh lòng tin đối với Đức Phật và tạo hình tượng, người này có còn đọa tại địa ngục hay chẳng bị đọa?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

- Nay ta vì ông nói một thí dụ nữa: Giả như có người, tay cầm cung mạnh ở giữa rừng cây, nhằm lên phía trên bắn những lá cây, mũi tên đi suốt không bị trở ngại. Nếu có chúng sinh gây tội nghịch kia, sau tạo tượng Phật, thành tâm sám hối, được đức tin chưa chắc chắn lắm, người ấy tưởng mình tội được nhẹ mỏng, thì dù có đọa ngục chăng nữa cũng liền ra khỏi, như mũi tên bắn đi suốt không ngừng, trường hợp người này lại cũng như vậy... Lại như Tỳ kheo, chứng Thần túc thông, từ bờ bên này qua bên kia biển quanh cả bốn châu không gì ngăn ngại. Người kia cũng thế, do tội phạm trước tạm đọa địa ngục, chẳng phải nghiệp trước có thể làm ngại.

Bồ Tát Di Lặc lại bạch hỏi tiếp:

- Kính bạch Thế Tôn! Chư Phật Như Lai là thân Pháp tính, chẳng phải là thân thuộc về sắc tướng. Nếu lấy sắc tướng làm thân Đức Phật, thì Tỳ kheo Nan Đà và Chuyển Luân Vương lẽ ra là Phật. Bởi vì đều có đủ các tướng tốt. Như có chúng sinh hoại pháp thân Phật[44], Pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, sau phát lòng tin và tạo tượng Phật, thì tội nặng này là cùng tiêu diệt, hay chẳng được diệt?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

- Nếu chúng sinh nào pháp nói là phi pháp, phi pháp nói là pháp, chỉ dùng miệng nói mà không phá kiến, sau sinh tin ưa tạo hình tượng Phật, thì nghiệp ác trước, chỉ nơi hiện thân bị chịu báo nhẹ, chẳng đọa đường ác, song với sống chết chưa giải thoát liền.

Bồ Tát Di Lặc lại thưa hỏi tiếp:

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu có người nào, trộm lấy những vật trong bảo tháp Phật, trộm vật thường trụ, trộm vật bốn phương Tăng, vật hiện tiền Tăng, tự mình tiêu dùng, đem cho người dùng, coi như của mình. Thế Tôn thường nói: “Dùng vật lấy trộm từ trong tháp Phật hay vật của Tăng, tội ấy rất nặng.[45]” Vậy chúng sinh nào tạo tội ấy rồi rất tự hối trách, khởi lòng tịnh tín và tạo tượng Phật, các hạng người đó tội được diệt chăng?

Đức Phật bảo Ngài Bồ Tát Di Lặc:

- Nếu chúng sinh nào từng dùng vật ấy, sau tự tỉnh xét ôm lòng thẹn hối, y số thường bồi, thề chẳng phạm nữa, nay ta vì ông nói một ví dụ: Như có người nghèo trước mắc nhiều nợ, bỗng gặp của chìm vô số vàng ngọc, trả hết nợ xong vẫn còn dư lớn. Người tạo tội kia lại cũng như thế, đền vật nọ rồi lại tạo tượng Phật, sẽ khỏi nạn khổ, mãi được an vui.

Bấy giờ Ngài đại Bồ Tát Di Lặc lại bạch hỏi Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Như Phật từng dạy “Ở trong pháp Phật mà phạm khí tội[46], chẳng gọi là sống.” Nếu lại có người phạm tội đó rồi, phát tâm nhớ nghĩ công đức chư Phật và tạo hình tượng, vậy thì đối trong giáo pháp của Phật được “sống” lại chăng? Lại trong đời này, hoặc đời thứ hai, thứ ba, thứ tư được chứng Pháp chăng?

Đức Phật bảo ngài Bồ Tát Di Lặc:

- Ví như có người thân bị trói cột, tay, chân và cổ, nếu được cởi trói như chim khỏi lưới, bay đi tự do, việc kia thế nào thì người nọ cũng vậy. Nếu phát lòng tin, ngẫm nghĩ về những công đức của Phật và tạo tượng Phật, thì các nghiệp chướng đều được tiêu trừ, ở trong sinh tử mau được ra khỏi, không bị trở ngại. Di Lặc nên biết, có ba Thừa pháp[47] là Thanh Văn thừa, Bích Chi Phật thừa và Phật Đại thừa, người tạo tượng Phật tùy nơi thừa nào, khởi nguyện ưa muốn, tức nơi thừa đó, được sự giải thoát. Nếu như chỉ vì cầu thành Phật đạo, không cầu báo khác, thì dầu chướng nặng vẫn được mau diệt, tuy tại sinh tử nhưng không nạn khổ, cho đến sẽ chứng Vô thượng Bồ đề, được cõi thanh tịnh; đủ các tướng tốt, được cảm thọ mạng, lâu dài vô tận.

Bấy giờ trong hội, có những người chưa phát tâm Đại thừa, đều sinh mối nghi, nghĩ như thế này: “Đức Như Lai ta về thuở quá khứ có tạo tượng Phật hay là không tạo? Giá mà có tạo, sao tuổi thọ Ngài ở đầy những nhơ nhớp, chẳng được thanh tịnh?”

Vua Ba Tự Nặc nương oai thần Phật[48], liền từ chỗ ngồi, đứng dậy chấp tay quỳ thẳng bạch Phật:

- Kính bạch Đức Thế Tôn! Con thấy Đức Như Lai các căn tướng tốt cũng như giòng tộc đều là đệ nhất, lòng con quyết định không có chỗ nghi. Nhưng Đức Như Lai từng có một lần, cây Khư đà la đâm thủng chân Ngài. Lại có một lần Đề Bà Đạt Đa lăn đá văng mảnh, chân Phật chảy máu. Trước đây có lúc Ngài bảo có bệnh, cho mời Kỳ Bà điều chế thuốc tốt. Lại có một lần từng nhức sau lưng. Ngài bảo Tôn giả Ma Ha Ca Diếp tụng bảy pháp Giác phần thì chỗ đau được trừ. Lại có một lần từng bị đau nhức, sai Ngài A Nan đến nhà Bà La Môn tìm xin sữa bò. Trước đây có lần tại thôn Ta La, ba tháng an cư chỉ ăn lúa ngựa. Lại từng một lần khất thực chẳng được, bát không trở về.[49]”

- Kính bạch Thế Tôn! Như Thế Tôn nói: “Nếu có người nào tạo hình tượng Phật, thì bao nghiệp chướng đều bị trừ diệt, lìa những khổ não, không các tật bệnh. Vậy Đức Thế Tôn trong những kiếp xưa từng có tạo tượng hay là không tạo. Nếu trong quá khứ Ngài có tạo tượng, thì nhân duyên nào, có những việc ấy?”

Đức Phật bảo vua Ba Tư Nặc rằng:

- Lóng nghe! Lóng nghe và khéo nhớ nghĩ, sẽ vì Đại vương phân biệt giải nói. Hỡi này Đại vương Ta về kiếp xưa vì cầu Bồ đề mà đã dùng những châu ngọc quý giá, gỗ thơm Chiên đàn và việc sơn vẽ để tạo tượng Phật, nhiều hơn tất cả số chúng Trời người trong hội hiện nay. Do phước này nên dầu còn trong vòng lưu chuyển sinh tử chưa mê hoặc, nhưng được thọ thân bền như kim cương, chẳng thể tổn hư.

Lại này Đại vương! Ta nhớ quá khứ cách vô lượng kiếp, còn trong sinh tử ta tạo tượng Phật lúc đó ta còn tham, giận, si mê[50]... Vô lượng phiền não tương ưng với tâm, nhưng ta chưa từng trong khoảng một niệm, vì tội nghiệp mà bốn đại chẳng điều, hoặc là bị các quỷ thần dựa nhập, hay bị chút ít các chứng bệnh khổ, còn vật cần dùng thì không thứ nào mà chẳng đầy đủ, huống gì ngày nay ta đã chứng đạo Bồ đề, lại còn có việc “bất như ý” sao?

- Đại vương! Nếu ta thuở xưa từng tạo tượng Phật, nay có nghiệp tàn để chịu báo đó, ta làm sao thành bức “Vô úy thuyết” để rồi nói rằng “Tạo tượng quyết định có thể trừ hết các nghiệp xấu ác?”

- Đại vương! Ta thuở quá khứ cấp giúp vô lượng món ăn thức uống, tiền tài châu báu[51], làm sao đời nay khất thực chẳng được phải ăn mã mạch? Thoảng như ngày nay, việc đó có thật, thì ta làm sao trong vô lượng kinh, nhiều cách khen ngợi thí Ba la mật, nói phước bố thí trọn không hư dối?

- Đại vương! Ta là một bực nói chân, nói thật, bậc không nói gạt. Nếu ta khi dối thì độ được ai?

- Đại vương! Từ lâu ta đã dứt hết nghiệp ác, bỏ việc khó bỏ, làm sự khó làm, thân mạng được bỏ hàng trăm ngàn ức, đã tạo vô lượng hình tượng chư Phật, hối cải vô lượng các tội nghiệp ác, há mắc những việc bị thương, bịnh khổ, ăn dùng lúa ngựa, đói khát hay sao? Nếu từng được những quả báo thù thắng, nay lại lui mất, lấy đâu khuyến tu các phước lành kia?

- Này Đại vương! Chư Phật Như Lai là thân thường hằng, là thân pháp tính[52], vì độ chúng sinh mà hiện việc trên, chẳng phải thật vậy. Bị thương bàn chân, đau lưng, xin sữa, uống thuốc v.v... cho đến nhập đại Niết bàn, để xá lợi mình phân chia các nơi, xây tháp v.v... Đều là phương tiện hay khéo của Phật, khiến các chúng sinh thấy tướng như vậy.

Đại vương! Ta ở thế gian hiện ra những việc bệnh hoạn như trên, mục đích muốn cho chúng sinh biết rõ nghiệp báo chẳng mất, khiến họ biết sợ để dứt tội lỗi tu các hạnh lành, để rồi sau đó, biết thân thường hằng, biết thân pháp tính, thọ mạng vô hạn, cõi nước thanh tịnh.

- Đại vương! Chư Phật Như Lai không hề hư vọng, thuần là đại bi, trí tuệ khéo léo, cho nên có thể đủ mọi cách thức thị hiện như vậy.

Khi đó vua Ba Tư Nặc nghe lời này rồi, mừng vui khấp khởi, cùng với vô lượng trăm ngàn chúng sinh, đều phát đạo tâm Vô thượng Bồ đề[53].

Bấy giờ, Ngài đại Bồ Tát Di Lặc tiếp tục hỏi Phật:

- Kính bạch Thế Tôn! Có những người nữ ý chí nhỏ hẹp, mang nhiều ghen, giận, khinh bạc, siểm dối, giận dai không bỏ, mang ơn chẳng bá. Dẫu cầu Bồ đề, nhưng không mấy người giữ chí bền bỉ, thường muốn mê hoặc tất cả mọi người, lại cũng bị người lừa gạt trở lại[54].

- Kính bạch Thế Tôn! Nếu người nữ này tạo hình tượng Phật, những nghiệp như vậy được trừ diệt chăng? Được làm một người biết ơn, báo ơn chăng? Được đủ trí tuệ, đại từ bi chăng? Với sự sống chết hay chán lìa chăng? Trừ khi nguyện lực, ngoài ra có chịu thân nữ lại chăng? Có được như bà Cù Đàm Di và Phật mẫu là bà Ma Gia phu nhân chăng?

Đức Phật đáp lời Bồ Tát Di Lặc:

- Nếu người nữ nào hay tạo tượng Phật, thì hẳn không thọ lại thân phụ nữ. Giả như thọ thân, thì đó là bậc nữ lưu tôn quý đệ nhất hơn hết. Nhưng các người nữ có năm thứ đức, những gì người nữ tạo tượng sẽ được, hơn cả nữ giới. Năm đức là gì?

Một là: Sinh nở con cái.

Hai là: Giòng dõi tôn quý.

Ba là: Bẩm tính trinh lương.

Bốn là: Thể chất tướng mạo đẹp đẽ cả hai.

Năm là: Dáng vẻ mỹ mãn.

- Di Lặc! Tất cả người nữ có tám nhân duyên cho nên hằng chịu thân nữ nhiều đời. Thế nào là tám?

Một là: Yêu dấu thân nữ.

Hai là: Ham đắm dục lạc của người phụ nữ.

Ba là: Miệng thường khen ngợi dung chất nữ nhân.

Bốn là: Lòng không ngay thẳng, che dấu việc làm.

Năm là: Chán nản chồng mình.

Sáu là: Cõi lòng nặng trĩu nhớ đến người khác.

Bảy là: Biết người có ơn nhưng mình bội nghịch.

Tám là: Trang sức tà ngụy muốn người mê luyến.

Nếu hay dứt hẳn tám điều như thế, tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật, thường làm đàn ông. Chịu thân nữ nữa là điều vô lý.

- Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân nữ nhân. Thế nào là bốn?[55]

Một là: Dùng tiếng người nữ khinh cười gọi Phật, chư vị Bồ Tát, các vị Thánh nhân.

Hai là: Với người giữ giới, đem lòng chê bai, nói rằng phạm giới.

Ba là: Ưa đi nịnh hót dối gạt người khác.

Bốn là: Thấy ai hơn mình tâm sinh ganh ghét.

Nếu đàn ông nào làm bốn việc trên, sau khi chết rồi ắt chịu thân nữ, lại phải trải qua vô lượng nỗi khổ trong các ngã ác. Nếu phát lòng tin sâu dày sám hối việc làm lúc trước và tạo tượng Phật, các tội như trên đều bị tiêu diệt, rốt ráo chẳng còn chịu thân người nữ.

- Di Lặc! Có bốn thứ nhân duyên, khiến những người nam chịu thân huỳnh môn[56]. Những gì là bốn?

Một là: Tàn hại hình dáng người và súc sinh.

Hai là: Đối với Sa môn gìn giữ tịnh giới mà nổi sân hận chế giễu chê bai.

Ba là: Tình nhiều tham dục, cố tâm phạm giới.

Bốn là: Gần người phạm giới, lại khuyên người phạm.

Nếu người nam nào trước làm điều này, sau khởi lòng tin tạo hình tượng Phật, mãi đến thành Phật chẳng chịu báo đó, thường làm đàn ông các căn đầy đủ.

Di Lặc! Có bốn thứ nghiệp hay khiến đàn ông chịu thân hai hình[57], thấp hèn nhất trong tất cả mọi người. Những gì là bốn?

Một là: Loạn dâm nhơ nhớp ở chốn tôn nghiêm.

Hai là: Với thân người nam mà đắm nhiễm bậy.

Ba là: Chính tự nơi mình làm việc dâm dục.

Bốn là: Mua bán nữ sắc cho những người khác.

Nếu chúng sinh nào làm các việc ấy, rất tự trách lỗi, hối chỗ phạm trước, khởi lòng tịnh tín tạo tượng Phật, mãi đến thành Phật, chẳng chịu thân ấy.

Di Lặc! Lại có bốn duyên khiến những người nam, tâm họ thường sinh ái dục của nữ[58], thích người với mình làm chuyện đàn ông. Thế nào là bốn?

Một là: Hoặc ngờ, hoặc giỡn báng bổ người khác.

Hai là: Ưa lối phục sức trang điểm của nữ.

Ba là: Làm chuyên dâm nhơ với người nữ bà con.

Bốn là: Thật không đức tốt, vọng nhận người lạy.

Do nhân duyên này khiến những đàn ông khởi những phiền não khác biệt như thế. Nếu như ăn năn những lỗi đã phạm, chẳng tạo lỗi mới, tâm sinh tin ưa tạo hình tượng Phật, tội kia đã diệt tâm nọ cũng dứt.

Di Lặc! Có năm thứ bỏn xẻn[59] hay phá chúng sinh. Thế nào là năm?

Một là: Xẻn tiếc thôn ấp, chỗ ỏ gần gũi. Do đây mà sinh ở chỗ đồng mông hiu quạnh.

Hai là: Xẻn tiếc nhà cửa, hiên chái để ở, sẽ làm sâu cổ, hằng ở những chỗ phân tiểu hôi nhơ.

Ba là: Xẻn tiếc sắc đẹp đoan chính, sẽ cảm hình xấu chẳng như ý muốn.

Bốn là: Xẻn tiếc của cải sẵn có, sẽ bị nghèo nàn, áo cơm thiếu hụt.

Năm là: Xẻn tiếc giáo pháp đã biết, sẽ mắc những quả báo súc sinh, đần độn.

Nếu như ăn năn nghiệp trước của mình và tạo tượng Phật, thì sẽ lìa tâm bỏn xẻn trước đó, không thọ những báo như đã nói trên!

Di Lặc! Lại có năm duyên làm cho chúng sinh, sinh chỗ man di, ở chốn biên cương[60], hoặc sinh thời kỳ không có Phật Pháp. Thế nào là năm?

Một là: Chẳng sinh lòng tin trong sạch đối với ruộng lành Tam Bảo.

Hai là: Trái với lẽ thật, lệch với chính lý, mà vọng đi giáo giới.

Ba là: Chẳng đúng lý thật mà dạy trao người.

Bốn là: Phá hòa hợp Tăng khiến thành hai bộ.

Năm là: Cho đến ít nhất phá hai Tỳ kheo khiến chẳng hòa hợp.

Dứt hẳn nghiệp trên và tạo tượng Phật, sẽ thường gặp Phật, thường nghe pháp yếu.

Di Lặc! Chúng sinh lại có năm thứ nhân duyên thường bị nhiều người chán ghét xua đuổi, cả đến người thân cũng không ưa gặp[61]. Thế nào là năm?

Một là: Nói lời hai lưỡi.

Hai là: Nói lời hung ác.

Ba là: Nhiều sự tranh chấp.

Bốn là: Nhiều sự giận dỗi.

Năm là: Giỏi nói bóng bẩy nhằm chê bai người.

Sau nếu phát tâm tạo hình tượng Phật, ăn năn nghiệp cũ thề không tạo lại, tội của người ấy đều được trừ diệt, được cả mọi người mến kính gần gũi. Tại sao vậy? Vì chư Phật có vô lượng vô biên phước đức thù thắng, vô lượng vô biên trí tuệ rộng lớn, vô lượng vô biên tam muội giải thoát[62], đủ những pháp tính công đức hiếm có.

- Chư thiện nam tử! Giả sử có người đem một tam thiên đại thiên cõi nước nghiền thành bụi nhỏ, lại nghiền bụi ấy, mỗi mỗi hạt bụi chia bằng con số bụi nhỏ trong một đại thiên thế giới, những số hạt bụi được nghiền gia tăng bởi những quốc độ một cõi đại thiên nhiều biết chừng nào. Giả như có người lấy hạt bụi nghiền, dùng sức thần thông đi qua phương Đông, khoảng một sát na vượt qua cõi nước nhiều như số bụi một cõi đại thiên đã được nghiền nhỏ (bằng một phần tỷ) sát na thứ hai, sát na thứ ba lại cũng như vậy, người ấy đi mãi lâu đến số kiếp như bụi đã nghiền, rồi bao sát na trong mỗi mỗi kiếp của mỗi sát na, đều lướt qua khỏi cõi nước nhiều như số bụi được nghiền toàn cõi đại thiên, hết số cõi ấy bèn bỏ một bụi. Người ấy trở lại lấy hột bụi khác, lại qua phương Đông hơn số cõi đó bỏ một lần nữa, đến hạt thứ ba lại hơn lần trước, lần lượt như thế, cứ gập bội lên, cho đến hết sạch số bụi đã nghiền.

Phương Đông như thế, phương Nam, Tây, Bắc lại cũng như vậy. Những chỗ bốn phương người nọ đi qua, tất cả cõi nước nghiền thành bụi hết. Những hạt bụi này tất cả chúng sinh cùng nhau tính lường còn có thể biết, còn những công đức từng phần sợi lông nơi thân Như Lai, chẳng thể biết được. Tại sao vậy?

Những công đức mà chư Phật đã có, đều vô hạn lượng chẳng thể nghĩ bàn.

Các thiện nam tử! Giả sử số người nhiều như bụi nhỏ vừa được nêu trên bằng Xá Lợi Phật, bao nhiêu trí tuệ của những người đó, chẳng bằng một niệm trí của Như Lai. Vì sao thế?

Bởi vì Như Lai trong mỗi mỗi niệm, thường hay xuất hiện chính định giải thoát, tổng trì v.v...nhiều hơn số bụi được ví dụ trên, thứ nào cũng có vô lượng công đức thù thắng vậy.

Công đức thù thắng của các Đức Phật, tất cả Thanh Văn, tất cả Duyên Giác còn chẳng thể biết danh tử để gọi! Thế nên người nào đức tin trong sạch tạo hình tượng Phật, tất cả nghiệp chướng thứ nào cũng diệt, được những công đức vô lượng vô biên, cho đến sẽ thành Vô thượng Bồ đề, nhổ hẳn khổ não cho khắp chúng sinh.

Đức Phật nói kinh này rồi, Bồ Tát Di Lặc và Thiên Đế Thích, vua Ưu Đà Diên và cả thế gian Trời, Người, Tu La, thần Càn thát bà được nghe Phật dạy, tất cả mừng rỡ, tin nhận vâng làm.

HẾT QUYỂN HẠ

 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5697241
Số người trực tuyến: