Uy lực diệu kỳ của Tam bảo giúp viên mãn mọi tâm nguyện | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Uy lực diệu kỳ của Tam bảo giúp viên mãn mọi tâm nguyện

Trong đạo Phật, thuật ngữ “uy lực” được dùng để mô tả những ảnh hưởng tích cực rất lớn lao của việc thọ trì Tam quy – quy y Phật, Pháp, Tăng. Đức Phật tuy không có của cải, không có vũ khí, nhưng đi đến đâu Ngài đều có thể thu phục lòng người với uy lực từ đức tu của Ngài tỏa ra. Uy lực của giáo pháp là chữa lành bệnh tật, siêu độ, viên mãn tâm nguyện thế gian… Tăng là những vị xuất gia thanh tịnh cùng một cộng đồng, cho nên năng lực cứu độ chúng sinh của chúng Tăng cũng rất lớn.

Uy lực của Phật

Theo cách hiểu thế gian, uy lực chính là sức mạnh, bất kỳ người nào muốn có uy lực thì phải có tiền, có quyền. Ví dụ người đứng đầu một quốc gia muốn có nhiều của cải, vũ khí phải đi xâm lược nước khác. Thế nhưng uy lực của Đức Phật lại xuất phát từ đức tu của Ngài. Chỉ bằng một đôi chân trần, không của cải, không tài sản, không vũ khí mà đi đến đâu, Ngài đều có thể thu phục lòng người, khiến tất cả mọi người quy y buông bỏ vũ khí, buông bỏ sự giết hại lẫn nhau.

Thuở ấy, vua A Xà Thế vì nghe lời xúi giục của Đề Bà Đạt Đa nên đã thả voi Hộ Tài đang say rượu ra để làm hại Đức Phật. Tất cả mọi người trong thành Vương Xá đều kinh hoàng khiếp sợ và đau buồn than khóc khi thấy Đức Như Lai sắp sửa bị hại. Lúc ấy, Đức Phật vì muốn hàng phục con voi say hung dữ Hộ Tài, liền nhập định từ bi, rồi duỗi tay ra chỉ vào con voi. Tức thời, từ nơi năm ngón tay của Đức Phật hiện ra năm con sư tử. Voi thấy vậy hoảng sợ, phủ phục ngay xuống đất nơi chân Đức Phật mà đỉnh lễ Ngài. Về sau, Đức Phật dạy các đệ tử rằng: “Lúc ấy, ở năm ngón tay của Như Lai thật ra không có sư tử. Đó là sức thiện căn tu từ của Như Lai, khiến cho con voi ấy nhìn thấy như thế và chịu điều phục”.

Uy lực của giáo pháp

Một trong những tính chất vốn có của con người là luôn muốn hiểu được tất cả những hiện tượng, sự việc xảy ra quanh mình. Nhưng trong thực tế, từ thuở sơ khai cho đến nay luôn có quá nhiều điều mà con người không sao hiểu hết. Những bí ẩn không lời giải đáp luôn hiện hữu trong thế giới tự nhiên quanh ta và nằm ngay trong chính thế giới nội tâm của mỗi người. Có những bí ẩn chỉ gợi sự tò mò, thắc mắc (như sự hình thành và biên giới của vũ trụ, hay nguồn gốc con người... ), nhưng phần lớn các bí ẩn lại thường có khuynh hướng làm cho chúng ta sợ hãi, bất an (như sấm sét, dịch bệnh, mưa bão, động đất... ). Ngày nay, nhờ những tiến bộ nhất định về khoa học, con người đã tìm được lời giải đáp cho một số vấn đề, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta kiểm soát được những vấn đề ấy. Chẳng hạn, con người ngày nay dù đã giải thích được nguyên nhân của sấm sét, động đất... nhưng vẫn bất lực khi những hiện tượng này xảy ra và cướp đi sinh mạng của nhiều người...

Giáo pháp của đức Phật giúp chúng ta đẩy lùi mọi sự sợ hãi vô căn cứ mà trước đây có thể đã từng ngự trị trong tâm hồn ta. Lấy ví dụ như những điều may rủi đến với ta trong cuộc sống có vẻ như không theo một quy luật nhất định nào, và do đó ta thường lo sợ khi liên tiếp gặp phải những rủi ro. Từ đó, ta đi tìm chỗ dựa tinh thần vào những việc như bói toán, xem ngày giờ, cúng sao giải hạn... Nhưng tất cả những điều đó đều chỉ là những phương thức được hình thành từ sự tưởng tượng vô căn cứ. Trí tuệ giác ngộ của đức Phật đã chỉ ra rằng tất cả những gì xảy đến cho chúng ta hôm nay là kết quả của những hành vi trong quá khứ của chính chúng ta, và mối quan hệ nhân quả này đã được Ngài quán sát thấu đáo để giải thích cho tất cả mọi hành vi và nghiệp báo của chúng sinh. Khi tin và hiểu được điều này, chúng ta không còn những lo sợ vô căn cứ như trước nữa, mà trái lại có thái độ tích cực hơn để nỗ lực tu tập và cải thiện mọi hành vi trong hiện tại của mình, vì chúng ta biết chắc rằng điều đó sẽ quyết định những gì chúng ta gặt hái vào ngày mai.

Trong truyền thống Phật giáo Đại thừa – Kim Cương thừa, pháp thực hành Lục Độ Phật Mẫu liên quan đến việc cầu nguyện lên 21 hóa thân Lục Độ Phật Mẫu để bảo vệ chống lại các tác động phương hại khác nhau. Hóa thân Lục Độ Phật Mẫu tượng trưng cho 21 hạnh nguyện, phù hợp với các mong cầu khác nhau của chúng sinh, giúp chúng sinh thành tựu tu tập và bảo hộ họ khỏi tai nạn nguy hiểm. Những ai có thể hành trì ba lần hoặc bảy lần cầu nguyện đến 21 Độ Mẫu mỗi ngày thì mọi mong nguyện rất dễ thành tựu, mọi chướng ngại sẽ dễ vượt qua.

Có rất nhiều câu chuyện kể về lợi ích của sự thực hành pháp tu Đức Lục Độ Phật Mẫu, như được cứu thoát sinh mạng, thoát tù tội, khỏi bệnh, hay cầu có con. Pháp thực hành Lục Độ Phật Mẫu bắt nguồn từ Ấn Độ, nơi pháp thực hành này đã lưu truyền hơn 1000 năm. Trong tự viện Nalanda và trong một vài ngôi chùa cổ, chẳng hạn như Ajanta Alorra, chúng ta có thể nhìn thấy tranh họa Đức Lục Độ Phật Mẫu từ 1000 năm trước. Như vậy pháp thực hành này đã có từ rất lâu đời.Còn có vô số câu chuyện kể về những hành giả đã từng được diện kiến Đức Lục Độ Phật Mẫu hoặc đón nhận khai thị giáo pháp từ Ngài. Trong tự viện Nalanda trước kia, tương truyền có một tôn tượng Đức Lục Độ Phật Mẫu đang khai thị giáo pháp. Chuyện kể rằng có một người ngoại đạo thường có thói quen chê bai Phật Pháp và đặc biệt là pháp thực hành Lục Độ Phật Mẫu. Nhưng rồi một lần ông ta đi biển gặp nạn, lúc sắp chết đuối, đột nhiên ông ta nhớ tới Đức Lục Độ Phật Mẫu và những lời Ngài khai thị, rằng thông thường có thể chúng sinh không thường nghĩ tới Đức Lục Độ Phật Mẫu, nhưng khi gặp nguy khốn ai nấy đều khởi niệm cầu nguyện Đức Lục Độ Phật Mẫu. Khi ông khởi tâm như vậy, Đức Lục Độ Phật Mẫu liền hiện ra và cứu mạng ông. Khi dạt được vào bờ, Đức Lục Độ Phật Mẫu liền hóa thành tôn tượng và được thỉnh về thờ tại Đại học Phật giáo Nalanda.

(Quý vị có thể tải Nghi quỹ tu trì giản lược Đức Bản tôn Lục Độ Phật Mẫu tại đây)

Cho nên, nếu bạn biết thực hành Pháp một cách chân chính thì Pháp sẽ trở thành uy lực, sức mạnh khiến người sống có thể an, người chết có thể siêu.

Uy lực của Tăng

Tăng là những vị xuất gia thanh tịnh và đó là cộng đồng chứ không phải cá nhân một  người. Ít nhất phải có 4 vị Tu sĩ Tỷ kheo hoặc Tỷ kheo ni đã thọ Đại giới trở lên mới được gọi là Tăng. Một ngọn đèn đứng 1 mình thì leo lét nhưng cộng lại 1.000 ngọn đèn thì tạo thành khối ánh sáng khổng lồ. Cũng như vậy, 1 vị Tăng tu hành giới đức thanh tịnh cộng thêm năng lực chung của cả Đại chúng sẽ tạo thành uy lực rất lớn.  Uy lực ấy đặc biệt được thể hiện qua ý nghĩa của ngày Vu Lan.

Vu Lan hay Vu Lan bồn có nguồn gốc từ chữ Phạn Ullambana, dịch sang tiếng Hán ngữ là Giải đảo huyền, tức là gỡ khỏi nạn treo ngược. Chính nhờ tam nghiệp (thân, khẩu, ý) thanh tịnh qua mùa an cư và qua nghi thức Tự tứ nên công hạnh, giới đức của chúng Tăng được tăng trưởng. Đó là năng lực thù thắng để chư tăng có thể chú nguyện cứu vớt chúng sinh, cứu cha mẹ, tổ tiên thoát khỏi cảnh tội đồ.

Theo Phật thoại, Tôn giả Mục Kiền Liên là đại đệ tử thần thông đệ nhất của Ðức Phật. Một lần, dùng tuệ nhãn quan sát khắp “bốn phương tám hướng”, Tôn giả Mục Kiền Liên thấy mẹ mình (là bà Thanh Ðề) đang chịu cảnh tội đồ trong ngục A tỳ, thân thể gầy héo, xanh xao, chỉ còn da bọc xương, khổ đau khôn xiết. Dù biết đó là do kết quả của thói tham lam, độc ác, sự dối trá từ thuở sinh thời mẹ đã gây nên, nhưng Ngài vẫn không khỏi thương xót. Dùng thần thông, Tôn giả Mục Kiền Liên mang cơm dâng lên mẹ.

Nhưng khi bà vừa định ăn thì cơm ấy biến thành than đỏ rực. Tôn giả đau xót rơi lệ, đến bạch xin với Phật để cầu thỉnh đức Thích Ca chỉ bày cho cách giải thoát mẹ. Đức Phật nói với Mục Kiền Liên rằng: “Tấm lòng hiếu thảo của thầy thật đáng khen, nhưng khi còn sinh tiền, mẹ của thầy không sợ nhân quả, tham sân si đều có đủ, lại còn dối gạt nhiều người. Tội ấy không thể dùng sức của một cá nhân mà cứu được, thầy hãy nương oai thần của chư tăng mà giúp mẹ. Vào ngày lễ tự tứ của chư tăng sau kỳ an cư kiết hạ, hãy thiết lễ cúng dường trai tăng và nhờ vào công hạnh của chư tăng để chú nguyện, hộ niệm cho cửu huyền thất tổ và mẹ thầy”. Tôn giả Mục Kiền Liên làm theo lời Phật dạy, và nhờ vậy, sau ngày lễ tự tứ năm đó thân mẫu Ngài thoát nạn.

Đức Phật muốn dạy về ý nghĩa Vu Lan để cho chúng sinh biết rằng uy lực của chúng Tăng là vô cùng mạnh mẽ. Đề có thể cứu được Đảo huyền là việc rất khó nhưng nương năng lực thanh tịnh của chúng Tăng sau 3 tháng an cư, điều ấy có thể làm được!

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5773836
Số người trực tuyến: