Kinh Nhật tụng – TKN Hải Triều Âm: TỪ BI ĐỊA TẠNG BẢO SÁM
TỪ BI ĐỊA TẠNG BẢO SÁM
Con kính lễ Phật hoa sen
Từ bi là cành, trí tuệ là cánh.
Thiền định là tua, trải tòa giải thoát.
Bồ-tát như ong chúa hút cam lồ.
Đức Phật mẫn niệm chúng sanh vì nói từ bi Địa Tạng Đại Nguyện. Nay chúng con xin quy mạng đảnh lễ :
NAM MÔ
1- Mười phương ba đời hết thảy chư Phật.
2- Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
3- A Di Đà Phật.
4- Di Lặc Phật.
5- Đại Thông Sơn Vương Phật.
6- Trí Thắng Phật.
7- Tịnh Danh Vương Phật.
8- Nhất Thiết Trí Thành Tựu Phật.
9- Vô Thượng Phật.
10- Sơn Vương Phật.
11- Vô Biên Thân Phật.
12- Bảo Thắng Phật.
13- Ba Đầu Ma Thắng Phật.
14- Sư Tử Hống Phật.
15- Câu Lưu Tôn Phật.
16- Tỳ Bà Thi Phật.
17- Đa Bảo Phật.
18- Diệu Thanh Phật.
19- Mãn Nguyệt Phật.
20- Nguyệt Diện Phật.
21- Tịnh Nguyệt Phật.
22- Bảo Tướng Phật.
23- Ca Sa Tràng Phật.
24- Giác Hoa Định Tự Tại Vương Phật.
25- Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Phật.
26- Địa Tạng Bồ-tát Bổn Nguyện kinh tôn pháp.
27- Văn Thù Sư Lợi Bồ-tát.
28- Phổ Hiền Bồ-tát.
29- Định Tự Tại Vương Bồ-tát.
30- Vô Tận Ý Bồ-tát.
31- Giải Thoát Bồ-tát.
32- Phổ Quảng Bồ-tát.
33- Hư Không Tạng Bồ-tát.
34- Kim Cang Tạng Bồ-tát.
35- Địa Tạng Vương Bồ-tát.
Phật dạy năm giới. Nghiêm khắc với mình, nhiếp phục lòng người. Từ tâm không giết hại, không cho không lấy, thấy lợi suy nghĩ, phi lễ không nhìn, đâu cho gian tà, lời nói tráo trở, dùng chữ tín để đoạn trừ. Ham rượu diệt thân, vọng ngôn bại đức. Kiên trì năm giới, đạo làm người không khuyết. Năm thiện nghiệp này đồng tên hữu lậu vì chưa siêu việt cảnh giới thánh phàm đồng cư.
Lại có hạng lành, không chỉ kiệm đức mà hằng đem vật cho người, không những trì giới bất sát mà lòng dạ hiếu sanh.
Tuy chưa lìa dâm dục mà tiến thoái tiết độ. Ca tụng 10 thiện, khen hộ nhất thừa, tinh cần nhiếp tâm, tuy chưa đắc định. Cảm quả địa cư, làm chủ một tiểu thiên thế giới. Báo tợ thắng nhân, đều quy hữu lậu.
Lại có biết chán thô khổ cõi dục, ưng sắc tịnh diệu, tu 4 thiền định, cảm 18 cõi trời. Tuy hàng phục phiền não nhưng chưa đoạn diệt. Lại khởi tâm chán sắc lao ngục, tâm thức quy không. Quán không thì tưởng diệt, cảm quả báo ở cõi trời tột đỉnh, thọ hằng hà sa kiếp. Vì chưa chứng vô sanh nên sau lại đọa luân hồi. Vẫn là hữu lậu. Tuy tu thiện nghiệp nhưng còn hướng về cõi người, cõi trời, không cầu thoát ly luân hồi đều gọi là hắc nghiệp.
Nếu tu thiền quán, y chỉ quán không. Bắt đầu là ngũ đình tâm. Thân bất tịnh, thọ thị khổ, tâm vô thường, pháp vô ngã, cảnh tướng nào tổng nào biệt, thứ lớp quán thành. Chính quán tu 16 hạnh. Hành 37 phẩm trợ đạo, phá 88 kiến sử, chứng kiến đạo, trừ 91 tư duy, thân chứng vô sanh. Tâm cảnh tịch diệt. Do chứng thiên không, lìa năm núi uẩn, thoát biển sanh tử, ở đỉnh Niết-bàn. An pháp vô vi, chẳng độ chúng sanh, chưa gọi là Bồ-tát. Nếu thuận nghịch quán 12 nhân duyên của Trung thừa. Từ vô minh duyên hành cho đến lão tử ưu bi khổ não, cảm được trí tuệ tịch diệt, sớm chứng vô vi, không phải căn cơ độ sanh nên cũng thâu về tiểu quả.
Phàm là Bồ-tát đại thừa, thì tự thân chưa được độ trước lo độ chúng sanh, phát tỉnh giác thủy tâm, sau đại bi cứu khổ, rộng hành sáu độ, công trải ba a tăng kỳ, tu tuệ nghiệp lậu vô lậu thành tựu từ bi sanh vô sanh. Khai Phật tri kiến, chứng cực tự tánh linh minh bản hữu, ngộ bí tạng tâm địa. Tâm mình, chư Phật và chúng sanh đồng quy ba đức Pháp-thân, Bát-nhã và Giải-thoát.
Chúng con sỡ dĩ không giải thoát chỉ vì tánh thức không định, tâm chạy theo cảnh, nhiễm tập kết nghiệp, tịnh tập kết quả, làm thiện làm ác không ngừng, luân hồi năm đạo, trải khắp bốn loài, kiếp số như bụi trần, mê hoặc chướng nạn như cá mắc lưới, dù có tạm thoát ra, trong dòng nước chảy xiết, lại mắc vào lưới khác. Chỉ nhận vọng kiến, vọng tập, làm khách trọ trong ba cõi, nổi chìm không ngừng, tự chiêu vời lỗi nặng. Vọng tập có 10. Tạo 10 ác quả đều do sáu căn. Chiêu địa ngục báo, sáu căn thọ chịu. Cho nên hôm nay chúng con cần phải tha thiết sám hối.
1/- SÁM HỐI TỘI DÂM DỤC :
Nam nữ căn cảnh giao tiếp cọ xát. Anh mến sắc tôi, tôi ái tâm anh, ngày tháng nhơ thâm chuyển thành gầy ốm cho đến sanh lao, ngủ mộng không an, thân thể chân tay đau nhức, sống thảm thê, chết sợ hãi. Trong khi cha mẹ vợ con xót thương tử biệt, thì thần thức ngày đêm đi mãi đến chỗ chịu báo, nằm giường sắt khổ vô lượng kiếp. Cho nên mười phương Như Lai gọi dâm dục là lửa mạnh. Bồ-tát tránh dâm như sợ hầm lửa.
Con cùng chúng sanh từ vô thủy đến nay ngoan mê không biết, rộng tạo quỷ nghiệp. Mê sắc mê tâm, tự phá tịnh giới, hủy cả tánh giá, sỉ nhục nhơ người. Cả đến những kẻ chẳng nam chẳng nữ, năm loại phi nhân, hoặc Tỳ-kheo-ni. Vì ưa dục tập, tạo nhân địa ngục. Hôm nay cung đối thánh hiền, phát lồ bày tỏ, cầu ai sám hối. Nguyện mười phương Phật, Địa Tạng năng nhân nghiêng bình cam lồ rửa sạch tội cấu, khiến dục tập của con từ vô thủy hóa thành tịnh duyên giới luật, rốt ráo Bồ-đề, chứng Hoan Hỷ Địa, vĩnh tiệt luân hồi.
2/- SÁM HỐI THAM TẬP :
Tham tập phát hiện tướng thu hút. Thu hút không ngừng, nhuần nuôi rễ tham như đá nam châm hút sắt. Bậc biết đủ dù nghèo vẫn vui. Người không biết đủ dù giàu vẫn mong cầu. Đâu có biết của cải chiêu vời cực họa, tan nhà mất mạng, quyến thuộc lìa tan. Nước lụt lửa cháy, hoạn nạn bất ngờ, con ác tàn phá v.v… Chư Phật gọi là nước tham. Bồ-tát tránh tham như sợ biển khí độc.
Báu vật quý giá, lợi lộc công tư, rong ruổi tìm cầu, ác thủ thu hút, lanh lẹ cướp đoạt, bóc lột dân lành, của Tam-bảo hỗn loạn tạp dùng, dối vì lợi ích công tư, trốn đò qua ải, trộm cắp những vật không đáng, cân nặng đong nhẹ, gian trá từng hào ly. Đem xấu đổi tốt, đem ngắn đổi dài, trăm mưu ngàn cách, hy vọng từng chút, nuôi lớn tâm tham, khiến vòng luân hồi quay mãi.
Hôm nay chúng con mong Phật xót thương chứng minh sám hối. Nương công đức lễ sám, bá thí ba la mật được huân tu, tịnh tâm sớm cứu cánh, mau lên Ly Cấu Địa.
3/- SÁM HỐI MẠN TẬP :
Mạn quen lấn lướt, phát tướng cậy thế ỷ mình không thôi, rông rỡ quá trớn, nhuận biển vô minh, chứa nước tham ái. Như người miệng lưỡi tự chép, nước bọt chảy ra. Kia đây cổ động. Lâu ngày thành oán cừu. Xét nét biện bác, trọn đời chê trách. Chết gặp sóng máu, sông huyết, sông tro, cát nóng, biển độc, uống nước đồng sôi v.v… các thứ quả báo. Mười phương Như Lai gọi ngã mạn là biển si, Bồ-tát tránh mạn như sợ vực thẳm.
Chúng con từ vô thủy không biết sợ nước mạn nhận chìm. Cứ theo 8 thứ gió thế gian, ngàn sóng, nổi trôi trong biển sanh tử, chìm trong sông mạn kiến, giương buồm kiêu mạn vào dòng vô minh, hụp lặn trong biển trầm luân không hẹn ngày ra. Yû tộc họ sang, cậy mình thông minh, khinh người hậu học. Đến nỗi chưa được đã tự cho là được, chưa chứng đã tự cho là chứng, trộm nhận danh “đạo khí” lầm lạc người sau. Tướng ngã mạn không thể nói hết, nay cung kính đối trước Tam-bảo, chúng con cầu xin sám hối.
Nguyện chúng con tịnh lự viên thành nhẫn ba la mật, vượt biển kiêu mạn lên núi Niết-bàn, trí tuệ quang minh vào biển nhất thừa.
4/- SÁM HỐI SÂN TẬP :
Sân giận xung đột, phát tướng ngỗ ngược. Ngỗ ngược không dứt kết thành lửa nóng. Đúc khí hóa kim, đấu sanh ác nghiệp nên có núi đao, xe gươm, búa, cưa, đinh ba, thương, súng. Như người hàm oan, sát khí đằng đằng. Sân tập kích thích ắt có những sự cắt thiến, chém chặt, dùi đâm, đập đánh v.v… Vì vậy mười phương Phật gọi sân giận là đao kiếm. Bồ-tát tránh sân như sợ tru lục (giết cả họ).
Chúng con từ vô thủy không biết sân giận là ác tập. Cứ vơ ngoại cảnh để mà nổi xung. Thầy giận đệ tử, đệ tử phiền Thầy, cha mẹ sáu thân, sui gia nam nữ, hàng xóm láng giềng. Vì kết thân gần gũi, hễ trái ý liền sanh oán thù, thề chẳng hài hòa. Vì không nhớ mình không tuệ lực, người kia có phước duyên, càn tranh cao thấp, thi nhau kết hận. Lỗi mình thì đủ cách bào chữa. Lỡ lầm của người thì vội vàng phóng đại tuyên truyền như gió lốc.
Chúng con hôm nay thẹn hổ sám hối, tinh tấn chỉ quán thành ba la mật. Lửa tuệ hừng sáng, chứng đạo vô thượng, rộng cùng chúng sanh đồng chứng tứ địa.
5/- SÁM HỐI TRÁ TẬP :
Xảo trá dụ dỗ, phát tướng quyến rũ, lôi kéo, dẫn khởi phiền não. Như nước thấm ruộng, cỏ dại vực, hoang vu, cùng nhau lớn tốt, lúa mạ chẳng thể sống. Trá tập kéo dắt nhau, thị phi tiếp nối vô ích, giả bộ bày ra dị nghị, càn mạo anh hào đàn áp kia đây, khinh dối ta người. Cần thì siểm khúc nịnh hót, thêm bớt cong ngay, nên có những báo gông cùm xiềng xích, roi gậy qua bổng. Chư Phật gọi gian ngụy là giặc gièm pha. Bồ-tát tránh dối trá như sợ sài lang.
Chúng con từ vô thủy, túc tập siểm mị, ỷ cậy giàu sang, điên đảo lật đổ anh em, không cần trung tín, phản người vô tội, lẫn nhau dụ dẫn, làm quấy làm bừa, xả tám đường chánh, tà mạng tà cầu. Chết bị trá duyên buộc ràng, chiêu vời quả khổ không đường giải thoát.
Chúng con hôm nay cung đối thánh hiền cầu ai sám hối. Duy nguyện Tam-bảo, Địa Tạng từ tôn, xót thương nhiếp thọ, chứng minh chúng con phát lồ sám hối. Nguyện cho tội chướng tiêu trừ, tam muội tổng trì, 8 Na-già định, thiền ba la mật, mống niệm đầy đủ, rốt ráo Bồ-đề, biện tài vô ngại, tiếp độ hữu tình khỏi biển luân hồi, siêu Nan Thắng Địa.
Chúng con cùng nhau thống thiết quy mệnh đỉnh lễ tất cả chư Phật.
(Lễ Phật và Bồ-tát như trên.)
6/- SÁM HỐI TẬP QUÁN LƯỜNG GẠT, LỪA DỐI :
Phỉnh gạt không dừng, tâm dối tạo gian nên có các báo bụi đất, phân tiểu, các thứ nhơ nhớp. Như bụi theo gió, không thấy được nhau. Hai tập khí dìm nhau nên có những sự chìm đắm, nhảy ném, bay rơi, trôi lăn (2 tập khí : chủng tử và hiện hành). Chư Phật coi lừa gạt như cướp giật, Bồ-tát tránh lừa gạt như giẫm phải rắn độc.
Chúng con từ vô thủy tâm tính toán, miệng lừa dối, thấy nói không thấy, trước mặt nói là phải, sau lưng nói trái, phụ càn nói pháp, chính là hạng man muội ngu si. Nói về mình thì toàn những cao đăng thánh vị, nói về người thì chê hủy đọa tại phàm phu. Chẳng biết tự mình sa hầm tà kiến, còn dắt người vào địa ngục, chiêu vời khổ báo vô lượng vô biên. Nếu không sám hối đâu được tiêu trừ. Nguyện chúng con từ nay chân thật tu hành, trí tuệ hiện tiền mãn ba la mật, chân ngữ thật ngữ, tinh tấn Bồ-đề, ngộ tâm địa tạng.
7/- SÁM HỐI OÁN TẬP THÙ HIỀM HÀM HẬN :
Lúc đầu bực tức, ngậm ác không chán, kết oán làm tánh hăng hái nhiệt não, buông lời oán trách, kiện tới cửa quan, nên có quả báo quăng đá, ném gạch, hộp nhốt, xe cũi, đẫy bọc. Như người ngậm độc, hoài bão chứa ác. Quả báo sẽ có những sự ném, quăng, nắm bắt, đánh bắn, gieo ôm. Chư Phật gọi oán hận, đồng như quỷ Vi Hại. Bồ-tát thấy oán như uống rượu độc.
Chúng con từ vô thủy cứ say sưa ở trong nhà vô minh, ngỗ nghịch bất hiếu với cha mẹ, nuốt giận còn tấm tức chưa hả dạ, đối nghịch với bà con bạn bè, kết oán với Sư Tăng chung ở, trái lời giáo huấn của Phật Tổ. Hôm nay chúng con đối trước Tam-bảo, Địa Tạng từ tôn, cầu xin sám hối, bao nhiêu oán cừu nguyện đều tiêu diệt. Từ nay xin chừa không dám kết oán. Trí tuệ viễn hành ứng niệm thành tựu phương tiện ba la mật, đầy đủ thần lực, ứng hóa mười phương, độ các hữu tình lên núi Niết-bàn.
8/- SÁM HỐI TẬP QUÁN ÁC KIẾN :
Như ngã kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và các nghiệp tà ngộ phát sanh chống trái lẫn nhau. Như thế nên có quan lại chứng thực, văn từ biện chính, khảo xét tà ngụy. Kiến tập giao báo nên có sự khám hỏi, mưu mẹo khảo tấn, đòi hỏi gạn xét, cứu tra và những thiện ác đồng tử tay cầm sổ sách, biện bạch cãi vả. Chư Phật gọi các ác kiến là hầm hố. Bồ-tát tránh các hư vọng biên kế biên chấp như sợ hố độc.
Chúng con từ vô thủy chấp ngã, ngã sở, khởi các tà kiến, chấp đoạn chấp thường, chấp không chấp có, giới thủ, kiến thủ, tùy sự sanh tâm, bác không nhân quả, các thứ khổ hạnh gieo đầu ven núi, nhổ tóc ăn nhơ, nằm gai, xả thân vô ích, mạng chung vào thẳng địa ngục vô gián. Kiến nghiệp như thế, hôm nay chúng con quy mạng mười phương chư Phật, Địa Tạng từ tôn, cầu xin sám hối, nguyện được chánh tri chánh kiến, chánh tâm không động, cao đăng bát Địa một đời thành tựu nguyện ba la mật cùng với tất cả chúng sanh đồng thành Phật đạo.
9/- SÁM HỐI TẬP QUÁN VU VẠ :
Đem tâm không thật, khen ai đưa tận lên trời, chê ai chỉ sợ họ chưa tới vực sâu. Cơ hủy lương thiện, biếm xích Samôn. Chí chẳng trung trinh, tâm tồn hư ngụy. Như vậy cho nên có núi ép, đá ép, cối nghiền, cối xay. Ví như kẻ sàm tặc vu oan người lương thiện, bài xích người ta nên có các quả báo áp giải, đè đập, ép huyết, tuyết lột da vảy. Chư Phật gọi oan báng là sàm hổ. Bồ-tát tránh vu oan như sợ sấm sét.
Chúng con từ vô thủy đã từng vu hãm thân bằng, làm hại Sư Tăng huống chi người khác. Tâm không từ mẫn, thảm khắc kẻ không tội, hàm oan đến chết không nơi cáo tỏ. Hôm nay cung đối thánh hiền phát lồ sám hối, nguyện vĩnh tiêu uổng tập. Hành nguyện thành tựu lục ba la mật, dẫn đạo hữu tình đồng quy chánh giác.
10/- SÁM HỐI TẬP QUÁN KIỆN THƯA :
Tranh cãi phát sanh thói che giấu. Mất đức ẩn ác dương thiện, trở lại ganh thiện lành, ghét tài năng. Chỉ lo ta chẳng thắng người, người lại hơn ta ương ách bướng bỉnh, tự ý làm càn, không chịu nghe ai, trước mắt như chẳng có người. Mình làm tội không muốn ai nghe, người kia lỡ trái thường nghi liền lập nghiệp tuyên bố. Cho nên cảm quả báo nghiệp kính hỏa châu phơi lộ nghiệp xưa, các việc đối nghiệp. Chư Phật gọi che giấu là giặc ngầm. Bồ-tát thấy che giấu như đội núi cao đi trên biển sâu.
Chúng con từ vô thủy khí chất cao ngạo, lời nói xảo khéo mịt mờ, niệm niệm chỉ mong khoái kỷ. Trạo cử đến thành huyên náo, triển chuyển tương ưng chưa từng tạm ngừng. Hôm nay cung đối Thế Tôn, Địa Tạng Bồ-tát, kể từ dâm tập đến kiện tụng, tất cả 10 tập nhân tạo trăm ngàn nghiệp cho đến địa ngục, 6 giao báo và đọa lạc ba đường, chẳng chi không do đây. Nay xin mỗi mỗi tỏ bày sám hối. Nguyện Phật, Bồ-tát khuynh bình cam lồ giúp cho chúng con sớm diệt tập nhân. Trí tuệ quang minh phá tan si ám, thiền quán tinh thâm, trí ba la mật viên mãn, mưa pháp khắp nơi, cứu cánh 10 Địa diệu hạnh.
Chúng con thống thiết năm vóc gieo xuống đất, như núi đổ đỉnh lễ tất cả chư Phật.
(Lễ Phật và Bồ-tát như trên.)
Đã sám phiền não chướng, nghiệp chướng rồi, nay xin sám hối báo chướng. Kinh dạy : Giả sử trăm ngàn kiếp, nghiệp thiện ác không mất, nhân duyên một khi hội ngộ, quả báo mình vẫn phải chịu. Nên Phật kể chuyện ăn lúa ngựa để làm tin, lại nói việc ông trời thấy năm tướng suy, vội vàng nhất tâm sám hối, tức thoát thân lợn. Và ở nhân gian quả báo tội ngũ nghịch đã chín mà biết sám hối liền thoát địa ngục. Các chuyện như trên đều có bàn bạc trong kinh văn. Nên biết sám hối quả có diệt các tai họa.
Phàm phu chúng con không đạo nhỡn chỉ chạy theo sáu trần, sáu thức duyên cảnh tạo 10 ác, mê mất chân tâm, sáu căn giúp nhau tạo tội, khổ báo hoàn y sáu thức để trằng trói thêm vào.
1- Sám Hối Nhãn Căn :
Nghiệp thấy chiêu dẫn ác quả. Tội nhân sắp chết thấy lửa dữ tràn lan. Thần thức theo khói bay vào ngục vô gián, phát minh 2 tướng :
a. Thấy sáng tỏ rõ các vật nên khiếp sợ vô cùng.
b. Tối mù mờ mịt, không thấy gì, sanh kinh hoảng vô hạn.
Lửa thấy này nếu đốt cái nghe thì cảm báo vạc dầu sôi, nước đồng chảy ; nếu đốt hơi thở thì cảm báo khói đen lửa đỏ ; đốt cái nếm cảm quả báo ăn viên sắt nóng ; đốt cái xúc thì có tro nóng lò than ; đốt tâm ý thì có sao lửa rưới khắp.
Như vậy 6 thứ nhất thời giao thọ đều do xưa mắt tham huyễn sắc. Nếu không sám tạ, làm sao ra khỏi. Chúng con từ vô thủy, tâm đắm vọng trần, đen vàng hồng tía, lụa là gấm vóc, nam nữ dung nhan, khởi tưởng phi pháp, tạo ác không cùng, chiêu vời quả báo như trên, hôm nay cung đối Tam-bảo, Địa Tạng từ tôn, sám hối nghiệp xưa. Từ nay trở đi, nhiếp tâm nội chiếu, thật cảnh hiện tiền, thấy tịnh diệu sắc, phát chân quán trí, mãn Bồ-đề nguyện.
2- Sám Hối Văn Báo :
Nghiệp nghe giao báo, lâm chung sóng cuộn chìm ngập trời đất, thần thức theo dòng nước vào ngục vô gián, phát minh 2 tướng :
a. Nghe tỏ các loại âm thanh độc ác, tinh thần hoảng hốt.
b. Lặng lẽ im lìm, tinh thần mê chìm, sóng nghe rót vào cái nghe hiện tướng trách hỏi ; rót vào cái thấy thành sấm sét, hơi độc ; rót vào hơi thở thành mưa sâu độc rưới khắp thân thể ; rót vào cái nếm thành mủ máu các thứ nhơ bẩn ; rót vào cảm xúc thành các loài bàng sanh, các loại ma quỷ sống trong phân tiểu ; rót vào ý nghĩ thành điện chớp, mưa đá đập nát tâm thần.
Con và chúng sanh từ vô thủy đã bị âm thanh làm mê hoặc, cung đàn tiếng sáo, ca hát bổng trầm, phường chèo diễn kịch, nam nữ cười đùa, lời dâm đủ thứ, tâm mê đắm cảnh, khởi tướng phi pháp tạo tội vô biên. Ngày nay phát lồ cầu ai sám hối. Nguyện tai chúng con được nghe diệu lý pháp thân. Nương sám pháp hôm nay, tức thành viên âm Bát Nhã giải thoát, phổ hóa hữu tình đồng quy tịch nhẫn.
3- Sám Hối Tỵ Căn (Nghiệp Lưỡi) :
Lâm chung thấy hơi độc đầy dẫy xa gần. Thần thức từ đất trồi lên vào ngục vô gián, phát minh 2 tướng :
a. Ngửi thông bị các hơi dữ ngộp tột bực, tinh thần bại hoại.
b. Nghẹt bức muốn chết.
Ngửi báo xông vào hơi thở làm thông, làm nghẹt ; xông vào cái thấy làm lửa, làm đuốc ; xông vào cái nghe làm chìm ngập, làm chết đuối, làm nước lớn, làm nước sôi ; xông vào cái nếm làm đói, làm ngấy ; xông vào cái xúc làm hư, làm nát làm núi thịt chịu trăm ngàn trùng hút ăn ; xông vào ý nghĩ làm tro, làm chướng khí, làm gạch đá bay tung đập nát thân thể.
Chúng con từ vô thủy bị nghiệp ngửi vọng báo như vậy, hoặc vì tham các thứ hương trầm, hương hoa, hương thân thể nam nữ. Hôm nay cung đối Tam-bảo, Địa Tạng từ tôn, cầu ai sám hối tất cả tội nghiệp của căn mũi. Nguyện từ nay trở đi, thường được ngửi năm phần hương Pháp-thân, đời đời xa lìa các thứ uế khí sanh tử, đốn tuyệt trần khí. Chỉ quán định tuệ 10 cảnh viên minh, không còn hư vọng dù trong một hơi thở, lần thông 10 Địa.
4- Sám Hối Thiệt Căn (Nghiệp Nếm) :
Tham vị chiêu dẫn ác quả. Khi nghiệp nếm giao báo, thần thức thấy lưới sắt nung đỏ bao trùm thế giới. Người chết thấy mình từ dưới tung lên, mắc vào lưới treo ngược đầu xuống, vào ngục vô gián, phát minh 2 tướng :
a. Nuốt vào được thì kết thành giá lạnh nứt nẻ thân thể.
b. Phải mửa ra thì bay lên thành lửa hồng đốt cháy rụi xương tủy.
Vị báo qua cái nếm làm nhận, làm chịu ; qua cái thấy làm kim thạch đốt cháy ; qua cái nghe làm binh khí sắc bén ; qua hơi thở làm lồng sắt lớn chụp khắp cõi nước ; qua cái xúc làm cung, làm tên, làm nỏ làm bắn ; qua ý nghĩ làm hòn sắt nóng bay từ trên không rớt xuống.
Vị báo đều do không tin Phật pháp, ăn thịt uống rượu. Chúng con từ vô thủy buông lung bốn đại nên vui bồi gốc khổ. Mổ cá máu đỏ ngón tay, đâu có biết tình cha con nay đã thành oán thù. Nếm rượu vừa say đâu có ngờ ngay phút này nghĩa vua tôi có thể đoạn tuyệt. Nguy hại như thế. Thích tử Samôn dĩ nhiên là phải đề phòng. Hôm nay cung đối thánh hiền chúng con tận tình sám hối. Nguyện từ nay trở đi xa lìa tanh uế, sống chừng mực với cơm rau, thiền duyệt hằng nếm, pháp hỷ no lòng, bốn biện tài tuyên dương chánh pháp, tám âm phu tấu, ứng cơ nói pháp. Tuệ mạng diên hồng, cùng với hàm linh đồng siêu nghiệp đắm say vị trần.
5- Sám Hối Thân Căn (Xúc Nghiệp) :
Xúc nghiệp khi chín, người này lâm chung trước thấy bốn bề núi cao tới ép. Không có lối ra. Thấy thành sắt lớn, rắn lửa, chó lửa, hùm sói sư tử, ngục tốt đầu trâu, la sát đầu ngựa, tay cầm thương xóc lùa vào cửa thành, hướng về ngục vô gián, phát minh 2 tướng :
a. Hợp xúc thì núi kẹp ép mình, xương thịt tan nát.
b. Ly xúc thì dao gươm cắt thân, tim gan xẻ mảnh.
Xúc báo qua cái xúc thì có đường đi, quán, sảnh, án ; qua cái thấy thì nung đốt ; qua cái nghe thì đập đánh, đâm bắn ; qua hơi thở thì đẫy trùm, trói tra ; qua cái nếm thì có chém chặt, kìm kẹp, cày bừa ; qua ý nghĩ thì nấu nướng, rơi bay.
Xúc nghiệp chiêu báo giao thọ như vậy. Con và chúng sanh từ vô thủy vì tham gấm vóc lụa là mềm dịu, xúc cảnh tâm mê, khởi tưởng phi pháp, tội ác vô lượng vô biên. Hôm nay cung đối Tam-bảo, Địa Tạng từ tôn, cầu ai sám hối. Từ nay trở đi, nguyện mặc giáp nhẫn nhục, ngồi tòa pháp không, ở trong nhà từ bi, khắp hóa hữu tình đồng lên bờ giác.
6- Sám Hối Ý Nghiệp :
Khi ý nghiệp giao báo, thần thức thấy gió dữ thổi nát quốc độ. Tội nhân tự thấy bị thổi xoay trong hư không, theo gió vào ngục vô gián, phát minh 2 tướng :
a. Mê không còn biết gì, điên chạy không biết mỏi.
b. Tỉnh táo chịu khổ đốt cháy.
Yù báo kết vào, ý nghĩ làm phương, làm sở ; kết vào cái thấy làm gương soi, làm chứng cớ, kết vào cái nghe làm đại hợp thạch, làm gió sương đất mù ; kết vào hơi thở làm xe lửa lớn, thuyền lửa, cũi lửa kết vào cái lưỡi thành kêu la khóc lóc ; kết vào cảm xúc thì thấy lớn nhỏ, nghiêng ngửa, một ngày muôn lần sống chết.
Sáu giao báo như vậy đều do mê vọng khởi nên. Ba độc làm nhân, 10 tập làm duyên, hư vọng tạo nghiệp, hư vọng chịu quả báo. Cũng như hoa đốm ở trong hư không, loạn che tánh thật. Trong tâm Bồ-đề quả tình không có.
Chúng con phàm phu hoặc nhân ba độc khởi nghiệp, hoặc nhân 10 tập lỗi lầm, hoặc từ sáu căn tạo ác, ắt bị luân hồi sáu nẻo. Hôm nay chúng con cầu ai sám hối. Ngưỡng nguyện mười phương Tam-bảo, thập luân Địa Tạng từ tôn, phóng tịnh quang minh chiếu sáng chúng con. Bao nhiêu tội khiên ác tật, mình người đều rũ sạch.
Nguyện nương lực sám hối hôm nay, tăng trưởng đạo thánh, đoạn đường sanh tử, rốt ráo an vui, dùng kim cang trí chiếu phá vô minh, tâm địa bí tạng ứng niệm viên thành, đồng Phật 10 lực, 4 không sợ hãi, 18 bất cộng, vô lượng công đức, đầy đủ sáu thông, 3 đạt đỗng minh, tận độ hữu tình cùng thành Phật đạo.
Chí tâm quy mạng đảnh lễ thường trụ Tam-bảo.
(Lễ Phật và Bồ-tát như trên.)
TÁN
Mười nhân giao báo, tạo nghiệp như núi.
Sáu căn giao báo, biển cả oan khiên.
Vô gián ngục khổ, ai người cứu vớt.
Đảnh lễ từ tôn, nhân quả tuyệt vời.
TỤNG HỒI HƯỚNG – TAM QUY
Biệt Khoa Cúng Tổ
HÒA THƯỢNG THÍCH THANH THIỆU (ĐỨC NHUẬN)
TÁN PHẬT – LỄ PHẬT (như thường lệ).
TRÌ CHÚ ĐẠI BI vào một chén nước.
(Một người xướng
Kính nghe
Mỗi khi cung nghênh Tôn sư thánh đức giáng phó đàn tràng, phải có pháp thủy nước thơm tịnh khiết.
(Một vị đi quanh rảy nước khắp nơi, cả chúng tụng Tào Khê Lâm Tế một nguồn, đức thủy bản lai thanh tịnh. Một giọt rửa sạch oan khiên. Bao nhiêu bụi trần quét sạch. Đại địa sơn hà tươi sắc, thiền tâm khí tượng hưng long.
Nam mô Thanh Lương Địa Bồ-tát (3 lần).
(Một người xướng Hương này chẳng phải từ gỗ, chẳng phải từ lửa, tức không tức sắc. Khói thơm tiêu bệnh nạn, khiến bình an. Năm phần hương sung mãn, dù ngược gió vẫn tỏa lan, khắp huân pháp giới, đâu riêng chỉ ngát một trời Nam. Một niệm thành cầu, liệt vị Tổ sư quang lâm chứng giám.
(Đại chúng hòa Nam mô Hương Trang Nghiêm Bồ-tát (3 lần).
(Một người xướng
Bông hoa hiện điềm lành,
Năm cánh lạc phương xa,
Trao pháp tạng đất Ấn,
Tôn thờ ở Trung Hoa
Việt Nam trồng giống thánh,
Kết quả hằng hà sa.
(Chúng đứng lên đồng xướng lễ
– Nam mô Tây Thiên Đông Độ Việt Nam, thập phương du hóa, truyền giáo, khai sơn, liệt vị Tổ sư (3 lạy).
(Một người xướng Duy nguyện quang giáng Tổ đường chứng minh cúng dường.
(chúng hòa Hương hoa thỉnh
(Một người xướng Hương đèn bày biện, màu sắc hòa vui. Tôn sư chánh báo y báo trang nghiêm, chúng con ngửa lên xưng tán.
(Chúng đồng tụng
Căn trần giải thoát, khéo siêu ba cõi.
Kiến tánh minh tâm, bi trí sâu xa.
Tùy duyên giáo hóa, truyền pháp độ sanh.
Huấn từ khắp thấm nhuần cả sông núi.
Nay nhân viên quả mãn, nguyện toại về nguồn như băng tiêu hoàn về nước.
Chân tánh diệu linh quang vẫn thường minh, nơi tịnh cảnh sen khai thượng phẩm.
XÉT VỀ XƯA
Triều Nguyễn, Phạm Công quý tộc, ấp Đồng vun sẵn phước duyên, sư sớm gặp bậc thạc đức truyền trao giới phẩm, lại vì khai pháp nhãn diệu minh, khiến chùa Kim Liên dòng Lâm Tế nở hoa. Tổ đạo gia phong trùng trùng truyền xa mãi mãi. Thắng ngôn sữa pháp chan hòa, đưa đại chúng lên thuyền giải thoát.
– Nam mô Độ Nhân Sư Bồ-tát (3 lần).
(Một ngư
Nhất tâm phụng thỉnh
(Chúng quỳ tụng Có đạt tâm thể mới khéo lợi tha. Nhớ Bổn Sư lúc sinh tiền, giới luật nghiêm thân như sen thoát bùn. Vì chuyên lo tuệ nghiệp nên ở ẩn như rùa lấy mai làm áo giáp. Bao nhiêu nhẫn nhục nhu hòa mới có tam thừa giáo lý để sau này tùy cơ lợi ích chúng con.
Kinh dạy : Biết ơn, đền ơn. Tâm hiếu kính là tâm Phật Tổ. Chúng con ngửa lên học đạo thánh hiền, uống nước nhớ nguồn, siêng chăm ruộng phước, khoa văn tỏ chút lòng thành, hiến dâng chén cơm bát nước, báo đức thù ân. Giáo có chân ngôn phụng thỉnh. Trân trọng chúng con xin tụng trì.
– Nam mô bộ bộ đế rị dà rị đa rị đát đa nga đa da (7 lần).
(Một người xướng Pháp tử thành tâm hương hoa bái thỉnh.
(Chúng đứng dậy xướng lễ
– Nam mô Kim Liên tháp, Tào Động phái, Ma-ha Tỳ-kheo Bồ-tát giới Thích Thanh Thiệu, hiệu Đức Huy thiền sư, thế danh Phạm Đức Nhuận giác linh thiền tọa hạ (3 lạy).
(Một người xướng Pháp quý đầu cơ, cơ không tận, người hay hoằng đạo, đạo vô cùng. Cung thỉnh Tôn sư quang giáng Tổ đường chứng minh cúng dường.
(Chúng hòa Hương hoa thỉnh
(Chúng quỳ tụng Vì rõ biết thành Càn-thát-bà là mộng huyễn, ban sơ vâng theo Lâm Tế Tổ sư khán công án, chiếu thoại đầu. Ngưỡng mong hướng núi thiền tìm châu ngọc, vào biển trí kiếm như ý ma ni. Nhưng kim châm hạt cải thật khó khăn. Đành chỉ nghiêm thân tiến đức, dùng pháp thủy rửa vọng tâm, nuôi lớn nền giới phẩm. Suốt quãng đời niên thiếu chuyên học, kiêm tu và diễn giảng. Trải nhiều năm nào thật giáo nào quyền tông, phân minh trải rõ thậm sâu. Chứa tâm góp lự, mỗi tấc bóng mặt trời đều lưu thần để lực. Nước nhiều, chuyển đất thành lúa. Tiếp lửa kế đăng, thay Phật Tổ hoằng dương chánh đạo, giáo hóa khắp gần xa. Đưa hậu học vào tam thừa, giúp bậc trí lên xe tối thượng. Thiện căn phước tuệ, sự nghiệp công ân, lưu lại cho thế gian một tấm gương sáng chói lòa.
(Chúng đứng lên xướng lễ
Nam mô Kim Liên tháp, Tào Động phái, Ma-ha Tỳ-kheo Bồ-tát giới Thích Thanh Thiệu, hiệu Đức Huy thiền sư, thế danh Phạm Đức Nhuận giác linh thiền tọa hạ (3 lạy).
(Một người xướng Tấc lòng son sắt đối với hương thơm, văn hóa của giang sơn. Chạm vật, thấy người, mỗi hành vi cử chỉ để lại hồng phạm cho các tùng lâm noi dấu. Cung thỉnh Tôn sư quang giáng Tổ đường, chứng minh cúng dường.
(Chúng hòa Hương hoa thỉnh
(Một người xướng
Nhất tâm phụng thỉnh
(Chúng quỳ tụng Thiện hành pháp sư, tùy thuận chúng duyên, kế đăng chùa Kim Liên, hưng duyên chùa Hồng Phúc, trụ trì đất Quảng Bá, nơi nơi đều dựng phướn nêu cao Tam-bảo, tạo nền phước nghiệp cho nhân thiên, đem nhiều đổi cũ thay mới trong thiền môn, dạy hàng tại gia tập nếm tinh hoa của Phật pháp.
Hằng ngày nghe đại chúng tụng kinh Tịnh-độ. Tiếng đàn an lạc phương Tây ca ngợi đạo ngạn để hồi quang, khuyên xa lìa cõi Nam diêm đất khách. Một mặt các kinh Lăng Nghiêm, Pháp Hoa, Hoa Nghiêm v.v… Lại chỉ con đường Niết-bàn vô dư. Vừa may gặp đại thiện tri thức chỉ dạy thiền tịnh song tu, Bổn sư chúng con từ nay chuyên phản văn, theo tông Tào Động, hồi hướng vãng sanh thượng phẩm.
Trong khi trời nghiêng đất ngửa, Việt Nam thay đổi sơn hà. Nửa thế kỷ ngài sống bình an trong tánh định. Luyện tâm nên khéo dụng tâm. Rõ pháp nên có cơ chứng pháp. Tuổi 98 mà vẫn tự chủ, không quên oai nghi tế hạnh. Từ trẻ đến già nét mặt trang nghiêm, các đường cơ bắp thịt khoan thư, hiển lộ bốn đức Từ Bi Hỷ Xả. Giảng kinh nói pháp cho tới ngày cuối cùng.
Sanh tử diệu hữu thể vốn chân không. Năm Quý Dậu (1993) tháng 11, xe trâu trắng thẳng vãng trời Tây, Ngày 11, 5 giờ 15 phút, bình minh rạng sáng thanh lương, giác lộ thơm lừng thánh đức. Pháp bảo để lại gồm cả trân ngọc thế và xuất thế gian.
(Chúng đứng lên xướng lễ
– Nam mô Kim Liên tháp, Tào Động phái, Ma-ha Tỳ-kheo Bồ-tát giới Thích Thanh Thiệu, hiệu Đức Huy thiền sư, thế danh Phạm Đức Nhuận giác linh thiền tọa hạ (3 lần).
(Một người xướng Pháp tánh cao hiển, dù thời đục cũng không giảm. Tinh thần anh tuấn thầm gia hộ hải chúng an khang, sơn môn vững vàng thịnh vượng. Cung thỉnh Tôn sư quang giáng Tổ đường, chứng minh cúng dường.
(Chúng hòa Hương hoa thỉnh
(Một người xướng
Nhất tâm phụng thỉnh
(Đại chúng xướng lễ
– Cung thỉnh chư Tôn sư thiền tông pháp phái, sớm đăng cảnh quê hương viên tịch (1 lạy).
– Cung thỉnh kết tập, phiên dịch, giảng dạy, chú thích, đông tây kim cổ liệt vị Pháp sư (1 lạy).
– Cung thỉnh tùng lâm pháp lữ, liệt vị Tăng Ni. Duy nguyện các giác linh đồng tới tiệc pháp thọ cúng dường (1 lạy).
(Chúng hòa Hương hoa thỉnh
(Một người xướng
Nhất tâm phụng thỉnh
(Đại chúng đứng thỉnh
– Cung thỉnh Tôn sư gia tiên nội ngoại thân sơ đẳng đẳng các chân linh (1 xá).
– Cung thỉnh Phật tử tại gia, trùng trùng quyến thuộc đẳng chúng các hương linh (1 xá).
Duy nguyện thừa Tổ Đức, cộng phó tiệc trai nạp thọ cúng dường (1 xá).
(Chúng hòa Hương hoa thỉnh
(Một người xướng Trong môn bất nhị đâu có xa mà. Tánh không chân sắc. Cung thỉnh mười phương pháp giới hữu tình đồng thừa pháp lực đến nơi đây (1 xá).
(Chúng hòa Nam mô Vân Lai Tập Bồ-tát (3 lần).
(Một người xướng Hôm nay toàn chúng năm vóc năm căn khâm thỉnh từ nhan. Dưới tòa cung kính bày biện sáu trần sáu vị. Duy nguyện thùy từ chứng giám.
(Chúng quỳ tụng Biến Thực – Biến Thủy – Phổ Cúng Dường (mỗi thần chú 7 biến).
Thức ăn hương sắc thương nạp thọ,
Khắp đồng cúng dường nguyện chứng minh.
Quốc độ nhân dân nhiều thắng phước,
Thiện cơ mệnh vị bảo khang ninh.
Nam mô Phổ Cúng Dường Bồ-tát (3 lần).
SỚ VĂN
Tín căn nhất niệm, linh giác chứng minh, cung dâng văn sớ, kính xin tuyên đọc :
Mây sớm mưa chiều, dòng sông sanh tử xuôi xuôi chảy. Pháp thuyền đưa chúng con lên bờ giác, hôm nay rời bến đi đâu ?
THIẾT NIỆM
Bổn sư một đời chăm tu thắng nhân vô lậu, vì đã tỉnh mộng huyễn hữu vi. Nay thoát lồng ba cõi, trở về đất tịnh, báo địa diệu cực trang nghiêm. Hiếu đồ chúng con thành tâm cung thỉnh Tôn sư linh giác, Đức Huy thiền sư, pháp húy Thanh Thiệu, thế danh Phạm Đức Nhuận quang lâm Linh Quang Ni Viện chứng minh cúng dường.
Duy nguyện Tôn sư đạt liên cung thượng phẩm, ngự cảnh An Dưỡng quê hương, phước tuệ nghiêm thân, Ấn Tổ lưu truyền, đèn Phật sáng trưng mãi mãi.
Tấc dạ đan thành thống thiết, đệ tử chúng con khấu đầu đảnh lễ tam bái thượng sớ.
ĐỐT SỚ (Tụng BÁT NHÃ TÂM KINH).
(Một người xướng
Gương tuệ sáng vô biên,
Hương đức thơm ngào ngạt,
Rừng Bồ đề bát ngát,
Hoa giác ý nở tươi.
Trong biển giác tánh,
Ngộ sắc không chẳng phải sắc không,
Rõ sanh diệt thật không sanh diệt.
Bát Nhã Tâm Kinh cần mật tụng,
Quán không ngũ uẩn phá si mê,
Đại minh thần chú năng siêu khổ,
Tự tại Quán Âm độ hữu tình.
Nam mô Quán Tự Tại Bồ-tát (3 lần).
(Một người xướng
NGƯỠNG BẠCH
(Chúng quỳ tụng
Pháp thân thường trụ, cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn. Công cao giáo dục mông mênh như biển khơi, bát ngát như trời xanh. Hằng sa kiếp thạch nhân duyên tiếp nối, giới sanh tuệ dưỡng, pháp chảy đèn truyền. Vậy mà chúng con chưa báo đáp được một giọt, một sợi tơ, trong khi bánh xe vô thường không ngừng chuyển bánh. Nay hương đã tàn, chén trà đã lạnh. Tôn sư mây nước đằng không. Đến không dấu, đi không vết, huyền cơ khó đo lường. Cõi Ta Bà sứ mạng đã viên tròn. Từ nay hằng sa thế giới rộng vân du.
Nam mô Sanh Tịnh Độ Bồ-tát (3 lần).
HỒI HƯỚNG – TAM QUY
- 1825
Viết bình luận