Lược giải Kinh Hoa Nghiêm (HT Thích Trí Quảng) - Chương 5 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Lược giải Kinh Hoa Nghiêm (HT Thích Trí Quảng) - Chương 5

LƯỢC GIẢI KINH HOA NGHIÊM


HT Thích Trí Quảng

CHƯƠNG V.

PHẨM NHẬP PHÁP GIỚI

 

Bồ tát đi vào đời dưới dạng pháp giới được kinh Hoa Nghiêm diễn tả bằng hình ảnh Thiện Tài cầu đạo gặp 53 thiện tri thức. Tôi đọc phẩm Nhập Pháp giới, suy nghĩ và theo dấu chân Thiện Tài, quan sát xem Thiện Tài làm gì, rồi nhìn kỹ lại mình xem đã học được và có thể làm được gì, để nhắc nhở các pháp lữ cùng nhau tu hành.

 

Mở đầu hiện tượng nhập pháp giới, Xá Lợi Phất hướng dẫn 6000 Tỳ kheo đến Bồ đề đạo tràng nghe Phật thuyết pháp, nhưng không thấy Phật, nên đến rừng Thệ Ða, ở Ta La song thọ để tìm.

 

Từ Bồ đề đạo tràng đến Ta La song thọ gợi cho chúng ta nghĩ về một đời giáo hóa của Ðức Phật, nếu nhìn dưới dạng tâm linh sẽ khác với cách nhìn theo lịch sử.

 

Theo lịch sử, sinh hoạt của Phật giáo đạt đến đỉnh cao vào thời điểm mà trưởng giả Cấp Cô Ðộc đổi vàng lấy đất để xây tinh xá cúng dường Phật. Hoặc lúc vua Ba Tư Nặc hết lòng hộ đạo, kính trọng Tăng đoàn.

 

Ngài Hiền Thủ gọi thời kỳ cực thạnh mà mọi người đều quy ngưỡng Ðức Phật là "Nhựt thăng phổ chiếu". Nghĩa là mặt trời lên đến đỉnh đầu sẽ chiếu tận hang cùng ngõ hẻm, ai cũng được hưởng phước lạc của Phật pháp. Nhưng khi có nhiều người đến với Phật đạo vì danh lợi thì đương nhiên nổi lên những thành phần không tốt. Mầm mống suy đồi đã xuất hiện trong thời kỳ vàng son. Ðiển hình là nhóm lục quần Tỳ kheo chuyên gây rối ở thành Xá Vệ.

 

Tuy nhiên, theo nhãn quan của Bồ tát thì thấy khác, không thấy tốt xấu như trên. Bồ tát thấy ở dạng siêu hình. Sở dĩ vua chúa phát tâm, hàng trí thức quy ngưỡng và Tỳ kheo theo Phật đông là nhờ tác động vô hình của Phật, Bồ tát, chư Thiên, thiện thần ủng hộ. Chính sức mạnh siêu nhiên này mới tạo thành cảnh giới bình yên thật sự cho đại chúng tu học, hình thành pháp giới của Phật.

 

Trên bước đường tu, chúng ta cần thấy và phát huy được mặt siêu nhiên của đạo. Nếu chỉ thấy hình thức, chùa cao Phật lớn, thì cách đạo còn xa. Bồ tát thấy thế lực vô hình thu hút vua chúa, trí thức Bà la môn, chư Thiên đến với Phật, hình thành pháp giới để thâm nhập.

 

Trong hàng Thanh văn chỉ có Xá Lợi Phất là bậc trí tuệ bậc nhất mới thấy được thế lực siêu hình của Phật thật sự vô cùng tận, có khả năng che chở cho người phát tâm bồ đề và nuôi dưỡng mạng mạch Phật pháp. Thật vậy, Xá Lợi Phất biết rõ năng lực của baûn thân không làm gì nổi. Việc lớn thì phải nhờ tâm hồn lớn và khả năng lớn mới thực hiện được.

 

Xá Lợi Phất thấy điều ấy bằng tuệ giác và 500 La hán cùng đi với Ngài, thì thấy bằng niềm tin. Ðó là hai cách thấy đạo và thâm nhập đạo.

 

Trên bước đường tu, khi thấy được đức độ của Phật, ta tin Phật dễ dàng. Nếu không, cũng có thể dùng niềm tin để đến với Phật. Như tôi tin Phật gia bị cho mình thành tựu mọi việc, không phải do tài của tôi. Một số người thường nghĩ tự thắp đuốc đi. Theo tôi, Phật là người cầm đuốc soi đường và ta nương theo ánh đuốc của Ngài, ta tự thắp không được.

 

Xá Lợi Phất bảo 500 La hán nên biết Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cũng như phần lớn các Bồ tát đóng vai cư sĩ, nhưng thật sự các Ngài đóng vai trò quan trọng trong việc hộ đạo. Ðừng nghĩ rằng cư sĩ không bằng hàng nhị thừa. Phải thấy từ chư thiên, chư Thần, nhân vương, người trí thức, người giàu coù, thậm chí cả công nhân, thợ thuyền, v.v... Họ đều có thể là Bồ tát hiện thân lại trên cuộc đời để hộ đạo, tạo điều kiện cho các Tỳ kheo tu hành. Như vậy, hàng nhị thừa đã thọ ơn của Bồ tát.

 

Nhận thức điều này, Hoøa thượng Trí Tịnh cho biết Ngài rất ngại dự trai tăng, vì sợ rằng trong hàng cư sĩ cúng dường, quỳ lạy, nếu có Bồ tát hiện thân lại, thì Ngài bị tổn phước.

 

Lời Hòa thượng dạy làm chúng ta phải suy nghĩ. Trên thực tế, chuùng ta thấy trong giới Phật tử có thành phần trí thức như giáo sư, bác sĩ.., trình độ học thức hơn ta và về phước báo, họ cũng giàu có hơn ta, nếu ta không mặc áo tu. Khi thực sự phát bồ đề tâm, chúng ta phải thấy như vậy.

 

Ở đây mượn nhân vật Xá Lợi Phất, dùng trí tuệ bậc nhất, dắt chúng nhân từ Bồ đề đạo tràng đến Ta La song thọ, không phải nhằm diễn tả dẫn đi baàu7857?ng đường bộ, theo động tâm. Nhưng hàm ý rằng Xá Lợi Phất dạy các Tỳ kheo nên quan sát, theo dõi bước chân Phật từ thành đạo đến nhập Niết bàn, Ðức Phật đã làm gì. Phải nhìn suốt cuộc đời du hoá của Phật để học và làm theo.

 

Ðến rừng Thệ Ða không thấy được Phật đang phô diễn thần lực, nói khác không gặp Phật mà lại gặp Văn Thù Sư Lợi đang giáo hoá chúng sinh. Ðiều này cũng nhằm chỉ rằng trước kia chúng ta quen quan sát theo lịch sử. Nhưng nay cần quan sát việc làm của Phật ở dạng Văn Thù hay dùng trí tuệ xem Phật xử trí với cuộc đời như thế nào.

 

Phẩm Nhập Pháp giới phát xuất từ rừng Thệ Ða. Kinh diễn tả do thần lực của Phật mà rừngThệ Ða rộng lớn bằng vô số quốc độ của Phật. Nơi đó lại có vô lượng hoa báu, đài báu, lưới báu, diệu hương, kỹ nhạc để ca ngợi công đức Phật.

 

Theo tôi, mỗi người có cách nhìn riêng về khu vườn này. Người thế gian, ngoại đạo nhìn về khu vườn chắc chắn khác với cái thấy của Tăng Ni, tín đồ. Và hàng Bồ tát sống trong khu vườn lại càng thấy khác hơn nữa. Cảnh là một, nhưng tâm trí khác nhau, nên nhận xét không giống nhau.

 

Theo nhận thức tham vọng của người đời hay ngoại đạo, họ không hiểu tại sao đạo Phật không có giáo quyền, giáo sản, không ép buộc, đe dọa, dụ dỗ, mà lại tồn tại lâu dài, truyền bá rộng rãi. Không hiểu tại sao giàu có như Cấp Cô Ðộc lại cúng vàng xây tinh xá cho Phật mà chẳng thấy ông được quyền lợi gì.

 

Cách nhìn thứ hai của Thánh chúng thường được diễn tả bằng câu chỉ có người uống nước mới cảm nhận được mùi vị như thế nào. Người ngoại cuộc như phàm phu, ngoại đạo mang cặp kính nghiệp làm sao biết được. Hàng đệ tử theo bằng chân tình mới hiểu đạo Phật, theo do hoàn cảnh không thể sống lâu dài trong đạo.

 

Chỉ người tu chân chính mới thấy Phật và Thánh chúng ngồi yên lặng trong rừng Thệ Ða, không nói, không làm, nghĩa là tu Thiền. Ngồi như vaäy, họ hiểu được Phật. Ngồi mà không hiểu thì một lúc chán cũng bỏ đi, ngoại đạo khó thâm nhập Phật đạo là vậy.

 

Phật và Thánh chúng tọa Thiền tạo thành cuộc sống hỷ lạc, ngồi nhiều năm cũng cảm thấy không đủ, không chán. Thật tu chúng ta dễ hiểu điều này. Người say mê Thiền quán, vui thích chánh pháp mới thấy được những gì khác hơn người thường. Họ đắc đạo nên tâm họ và Phật cảm thông, đó là tâm Phật ấn tâm đại chúng và thaàn của Phật truyền qua đại chúng, kinh gọi là Phật phóng quang gia bị. Nhờ vậy, tâm họ yên tĩnh lạ lùng, thần họ minh mẫn, sáng thêm. Theo tôi, điểm này quan trọng nhất đối với người tu, nếu không cảm nhận như vậy, e rằng khó tu lâu. Cuộc đời tôi từng kinh nghiệm, khiến tôi nhận chân được giá trị Phật ấn tâm, Phật hộ niệm. Thật vậy, có những lúc cực kỳ khó khăn, nguy hiểm, người sợ, nhưng tôi rất tỉnh táo, không cảm thấy sợ bất cứ theá lực nào. Và tôi bình tâm giải quyết thoả đáng từng việc thích hợp với từng lúc.Thiết nghĩ, trên bước đường tu, gặp việc vui ta vui, gặp buồn ta buồn, thì dù có khoác áo tu sĩ cũng chưa hẳn là người tu. Vì điểm đặc bieät của người tu, tâm lúc nào cũng bình ổn, hoàn cảnh nào cũng tự tại, loé lên tia sáng để giải quyết việc khó.

 

Thánh chúng sống đạm bạc, không có quyền lợi gì, nhưng hoàn toàn an vui. Ðó chính là tinh thần Ðại thừa phát triển để hình thành thế giới quan của Hoa Nghiêm gọi là Nhập Pháp giới. Tại sao sống hẩm hiu, tu cực khổ nhưng có sức thu hút người tu chịu nổi. Thực tế, người an trú lâu trong đạo có nguồn vui riêng và lý tưởng để soáng. Còn người thường không tìm thấy niềm vui đạo, tu một lúc rồi cũng bỏ cuộc.

 

Người tu sĩ Nhật có câu phương châm : Khi tâm hồn yên tĩnh thì cái thấy của chúng ta sáng ra, thấy cái đẹp. Thế giới người tu đạt đến trạng thái tâm hồn yên tĩnh, sáng ra là thế giới của Hoa Nghiêm hay pháp giới. Và với tâm hồn Hoa Nghiêm nhập pháp giới, phóng khoáng, bao la, dung được các pháp, tất cả đều đẹp. Từ đó, dưới cái nhìn theo Hoa Nghiêm, Thánh chuùng ngồi xung quanh Phật dưới gốc cây, tâm hồn nhẹ nhàng, sung sướng, hình thành được thế giới đẹp, trong sáng, từ cọng cỏ, cho đến dòng suối, con cá, con chim, hòn đá... không có gì không đẹp. Hàng trí thức bỏ ngoại đạo trở về theo Phật cũng vì nhận được hạnh phúc vô giá ấy. Họ cảm đức của Phật, nhận được tình thương bao la của Ngài và Thánh chúng tạo thành thế giới an vui giải thoát. Trái lại, theo ngoại đạo họ luôn kẹt trong tham vọng, nghĩ đến khống chế, mua chuộc người, nên tâm hồn không yên tĩnh thì thế giới của họ luôn đen tối.

 

Ðức Phật không bắt ai theo, người tự nguyện theo Ngài vì họ được an lành, thanh thản. Nhập pháp giới hay đi vào thế giới bao la của Phật, thế giới của tình thương, của trí tuệ. Bấy giờ, cũng là rừng Thệ Ða mà hàng nhị thừa và Phật tử thấy nơi đó an lành nhất, hoàn toàn khác với thế giới khổ đau bên ngoài. Ðó là cái nhìn về Ðức Phật vào đạo Phật của người xuất gia và tín đồ.

 

Tiến hơn một nấc, cái nhìn của bậc cứu thế Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền Bồ tát tiêu biểu cho trí và hạnh đi vào cuộc đời. Trong thêá giới yên tĩnh, tâm sáng, tức trí Văn Thù chỉ đạo, mở ra cho chúng ta thấy nơi có đạo đáng quý hơn bất cứ nơi nào. Và nhìn xa hơn, thấy mọi việc trên cuộc đời tốt đẹp hay không đều do phước đức, trí tuệ quyết định. Thấy như vậy là thấy thế giới Báo thân của Phật hieän ra. Trí Văn Thù hướng dẫn kết hợp với hành động dấn thân vào đời làm lợi ích chúng sinh của hạnh Phổ Hiền, tạo thành kinh Hoa Nghiêm với phần quan trọng là Nhập pháp giới.

 

Ðức Phật cho biết mười phương Phật thuyết pháp đều phóng quang đến đỉnh đầu của VănThù Sư Lợi Bồ tát. Văn Thù tiêu biểu cho Trí thân Phật, một thân quan trọng theo kinh Hoa Nghiêm. Nhìn thế giới qua lăng kính của Văn Thù hay trí tuệ, khác với người tham vọng nhìn đời bằng cặp kính hẹp của vô minh.

 

Người vô minh, chấp trước nghe ai nói động tới là tự ái, nổi giận, mất khôn. Trái lại, người trí thế gian lắng nghe, suy nghĩ xem lời nói của người tác động có hại hay lợi cho họ, theo đó mà giải quyết. Ðiển hình như các chính khách Nhật gặp khó thường tĩnh tâm để sáng suốt, thấy được cách đối phó nào lợi nhất. Ðó là người trần gian dùng thủ đoạn chọi với thủ đoạn.

 

Nhưng cao hơn là cách xử trí của Phật, Bồ tát, thấy rõ mối liên hệ sâu xa của họ và người trong vô lượng kiếp trước và cả đời sau, nên chuyển hoá khổ, ác thành vui, tốt. Muốn như vậy, Ðức Phật phải trải qua quá trình tu Bồ tát đạo, chứng được Trí thân, hay trí tuệ viên mãn mới giáo hoá người trở nên sáng suốt, đạo đức và biến đổi thế giới trần lao ô nhiễm của họ thành pháp giới của Phật. Từ Trí thân Phật đầu tư cho hữu tình và vô tình chúng sinh, biến tất cả thành một phần tương ưng với Phật, gọi là Pháp thân. Trí thân và Pháp thân ấy hợp lại thành Tỳ Lô Giá Na Phật chi phối và điều động được muôn người, muôn vật trong vũ trụ.

 

Về phần chúng ta, vì vô minh, sống với nghiệp thân, giải quyết theo nghiệp và phiền não, nên phiền não cứ lần lần bao vây, xiết chặt ta lại. Ðầu tiên, ta chỉ đối phó với người bên ngoài và với hoàn cảnh xa, nhưng vì vô minh chi phối, lần lần thế lực xấu ác thâm nhập vào gia đình, làm con cháu, phá hại chúng ta đến tàn mạt. Thực tế lịch sử cho thấy rõ điều này. Một người mới dựng nghiệp có nhiều quyến thuộc tốt, trung thành, nhưng vì nghiệp ác, khiến họ hành động ngu muội, giết lần những người thân cận giỏi, trung tín. Cuối cùng chỉ còn thế lực ác theo họ và sử dụng độc ác để đối phó, chống lại họ.

 

Ðức Phật thì hoàn toàn khác hẳn. Ngài hành động theo trí tuệ và lòng từ bi vô hạn nên càng cứu độ chúng sinh, tình thương Ngài càng mở rộng. Người đã thương Ngài thì thương nhiều hơn, người không thương phải thương, người ghét thì thành người thương.Xá Lợi Phất nhắc đại chúng phải quan sát việc làm của người trí, kinh diễn tả phải nhìn viên quang của Văn Thù Sư Lợi. Viên quang là trí tuệ tuyệt luân của Văn Thù, Ngài hiểu biết mọi việc.

 

Ý này gợi nhắc chúng ta tu hành, phải nhìn lại giới cư sĩ, có người đáng kính trọng là bậc thầy cuûa ta. Trên thực tế, có cư sĩ Lê Ðình Thám là thầy dạy chư Tăng. Nhưng trước khi dạy, ông đảnh lễ chư Tăng. Quả thật, có thể nói trí tuệ và đức hạnh của ta không bằng bác Thám. Tuy nhiên, không phải tất cả cư sĩ đều là Bồ tát. Phải biết rằng Bồ tát hiện thân vào nhân gian thì khác hẳn người thường. Họ giàu sang, thông minh, nhưng rất đức hạnh.

 

Xá Lợi Phất nhìn thấy viên quang của Văn Thù, tức trí tuệ của Văn Thù vượt hơn Thanh văn nhiều. Kinh diễn tả là viên quang bất muội, nghĩa là ánh sáng trí tuệ của Văn Thù không bao giời tắt, phiền não không bao giờ nổi dậy. Còn nhận định của chúng ta không phải lúc nào cũng sáng suốt, hễ nổi giận là mờ ám ngay.

 

Trí tuệ của Văn Thù siêu tuyệt, thấy sự việc chính xác, làm việc hoàn hảo. Những thành quả tốt đẹp hoàn toàn do tâm trí chỉ đạo như vậy, ảnh hưởng đến thân tướng, tạo thành thân Bồ tát có tướng hảo trang nghiêm thanh tịnh, không tội lỗi, bợn nhơ, buồn phiền, nhưng đáng quý, đáng nhìn.

 

Ðặc điểm thứ ba là quang võng của Bồ tát Văn Thù bao trùm chúng sinh, tức trí tuệ của Ngài ảnh hưởng cho chúng sinh được giải thoát. Trong khi trí tueä của Thanh văn chỉ làm cho bản thân họ được giải thoát mà thôi. Chính nhờ tác động của trí Văn Thù phổ cập toàn diện, nên việc giáo hóa chúng sinh của Ngài không cùng tận.

 

Ðặc điểm kế tiếp của Bồ tát là có được chúng hội đạo tràng khác hẳn chúng hội của Thanh văn. Phần lớn theo Thanh văn đạo, không quan tâm đến vật chất, cơm ăn, chỗ ở. Thực tu như vậy, chúng hội Thanh văn được thanh tịnh, nhưng nghĩ đến vật chất thì phiền phức vô cùng, khó tránh khỏi tranh chấp.

 

Chúng hội Bồ tát hay quyến thuộc của Văn Thù thì khác, họ là người hằng tâm hằng sản chuyên cúng dường, đầu tư trí tuệ và công sức cho Phật đạo.

 

Chúng hội Thanh văn, sau an cư, làm pháp yết ma, phân chia vật dụng. Còn quyến thuộc của Bồ tát thì kết hợp lại để cúng cho Thanh văn hưởng. Người làm, ta hưởng, thì phước sẽ về họ.

 

Xá Lợi Phất nhắc nhở đồ chúng, hay đó là tinh thần Phật giáo Ðại thừa muốn chấn chỉnh việc tu hành của giới xuất gia, không khéo rơi vô tình trạng chỉ tiêu thụ hơn là đóng góp. Hãy quan sát Văn Thù Sư Lợi xây dựng quyến thuộc lo cho đạo, không lo hưởng thụ, mới thành tựu được những Phật sự lơùn lao, mới giữ vững được mạng mạch đạo pháp.

 

Kế đến, Xá Lợi Phất bảo đại chúng nên quan sát con đường đi của Bồ tát Văn Thù khác với đường của Thanh văn đi. Văn Thù Sư Lợi đi đến đâu đều làm lợi ích, cứu khổ ban vui, nghe chỗ nào có nghèo khổ, hoạn nạn thì chuẩn bị cơm áo đến ban phát. Bồ tát bố thí, cúng dường là việc chính, không đến để nhờ vả. Ðó là lập trường cố hữu của Phật giáo Ðại thừa.

 

Ngày nay, chúng ta đi theo con đường của Bồ tát Văn Thù, là con đường mà không có đường. Nghĩa là mỗi người tự vạch ra con đường cho mình. Tôi gọi đó là đường đời hay cách hành xử khéo léo của chính mình, mọi việc đều nhằm mục tiêu mang an vui hạnh phúc cho đời.

 

Riêng tôi thường quan sát đường đi của Phật, của các bậc cha anh, của đồng bạn, của người thuộc giới khác. Từ đó tự vẽ ra con đường riêng của tôi và điều chỉnh dần cho phù hợp với bước đi của Văn Thù.

 

Con đường của người chinh lược đầy máu xương, nước mắt, con đường của Thanh văn tu vất vả khổ cực mà không được gì. Chỉ có con đường của Bồ tát, của Phật quá đẹp, quá trong sáng và vĩnh cửu. Thiết nghĩ đó là khởi niệm của chúng ta cũng như của đại chúng muốn theo Xá Lợi Phất đến gặp Văn Thù Sư Lợi.

 

Ðặc điểm thứ sáu là chỗ đứng của Bồ tát Văn Thù rất dễ thương. Ngài là thầy của ba đời các đức Phật, nhưng đến với Phật, tức học trò của Văn Thù, Ngài lại đứng chỗ thấp nhất, cung kính cúng dường học trò.

 

Học gương của Văn Thù, khi hành Bồ tát đạo, dù năng lực ta vượt hơn người, nhưng nếu cần làm việc nhỏ có lợi cho đạo, ta cũng không từ chối. Phải khiêm tốn, đừng tự coi mình xuất gia là thầy của thiên hạ.

 

Văn Thù Bồ tát đóng vai thấp nhất, nhưng ai dám xem thường Ngài. Chỉ sợ mình đứng trên cao, mà đức hạnh và tài năng không bằng ai, mới đáng hổ thẹn. Tu Ðại thừa, phát tâm bồ đề, làm mọi việc Phật sự, không từ nan. Ðứng ở vị trí thấp có cái lợi là luyện được tâm cung kính người khác.

 

Ðặc điểm thứ bảy là hai bên Văn Thù có vô số Bồ tát hết lòng hợp tác với Ngài trong mọi Phaät sự. Ðiều này cho thấy hạnh Bồ tát khác hẳn Thanh văn. Tu hạnh Thanh văn, chỉ lo phần mình, không lo cho người, tất nhiên khó làm được việc.

 

Văn Thù Bồ tát đã giáo dưỡng đệ tử thành Phật, những người được Ngài cưu mang tế độ sẵn sàng đến hợp tác khi Ngài cần họ. Văn Thù hành Bồ tát đạo, "nhứt hô bá ứng", toàn người giỏi,tốt, đầy quyền uy kính nể, hợp lực với Ngài, việc khó nào mà không thành. Còn ta có một mình, hay chỉ có ngươøi ăn hại theo, đành phải thua.

 

Chẳng những người trí thức, dòng dõi cao quý, trời rồng phủ phục dưới chân Văn Thù, mà còn có chư Thiên đến cúng dường, nhân vương kính trọng. Bồ tát được việc là vậy. Chư Thiên cúng dường nên kho báu của Ngài không bao giờ cùng tận. Vua phải kính trọng vì Ngài giải quyết được việc cho chúng sinh.

 

Và đặc điểm thứ mười của Văn Thù Bồ tát là được chư Phật trong mười phương luôn phóng quang gia bị và công nhận Văn Thù là thầy của các Ngài, thì còn ai dám xem thường Bồ tát này.

 

10 đặc điểm nêu trên của Bồ tát Văn Thù có thể tóm gọn thành 3 việc chính : hiểu biết siêu tuyệt, việc làm lợi ích cho đời và sức tập họp quần chúng. Ðó là ba điều mà người tu phải học và thể hiện trong cuộc sống theo Phật giáo Ðại thừa.

 

Xá Lợi Phất thấy thực chất của Văn Thù Bồ tát qua 10 điểm nổi bật vừa nêu trên, Ngài khai ngộ cho 500 Thánh đệ tử, họ mới chịu ra mắt đảnh lễ Bồ tát.

 

Ðến đây đưa ra hình ảnh chư Tăng đảnh lễ Văn Thù Bồ tát để cầu học, nhằm chuyển mạch tinh thần Tiểu thừa sang Ðại thừa, nhắc nhở hàng xuất gia không nên tự ái, nếu sợ xấu hổ, không dám học với cư sĩ, thì không giỏi được.

 

Ðại chúng được Xá Lợi Phất hướng dẫn đến gặp Văn Thù ngầm chỉ rằng trong cuộc sống cần phải có trí tuệ chỉ đạo. Hàng đệ tử Phật tuy đông, nhưng ở đây chỉ nêu 6.000 Tỳ kheo do Xaù Lợi Phất giáo hóa. Trong lịch sử không thấy điều này, chỉ ghi rằng Xá Lợi Phất có 100 đồ chúng.

 

Cần hiểu rằng 6.000 Tỳ kheo không phải là người thật, nhưng nhằm nói lên dụng ý từ Tiểu thừa chuyển sang Ðại thừa. Theo kinh Pháp Hoa, khi lục căn thanh tịnh, hành giả sẽ có được 6.000 công đức, cũng muốn chỉ Tỳ kheo thanh tịnh lấy trí tuệ làm sự nghiệp mới theo Xá Lợi Phất đi tìm trí tuệ hay tìm Văn Thù Sư Lợi.

 

Nói về trí tuệ, trong hàng Thanh văn, Xá Lợi Phất là người bậc nhất và trong chúng Bồ tát, Văn Thù là nhất. Nói cách khác, nhìn con người ở hai mặt : thế gian và xuất thế gian. Xá Lợi Phất, người bậc nhất của thế gian đi tìm Văn Thù, người bậc nhất của xuất thế.

 

Hiểu biết của cuộc đời dù có giỏi đến đâu cũng có giới hạn, trong khi ngũ trí của Văn Thù là hiểu biết trọn vẹn. Vì vậy, theo Phật, không tự mãn, phải đi lên, không bằng lòng với hiểu biết thế gian vaø đi tìm cái cao hơn là hiểu biết xuất thế. Ðiển hình như Ðức Phật, 16 tuổi, văn võ toàn tài, không ai có khả năng dạy. Ngài phải tìm cái trên thế gian, gọi là xuất gia học đạo.

 

Xá Lợi Phất có trí tuệ bậc nhất thế gian, không ai bằng Ngài. Ngài dìu dắt được đại chúng rồi mới dẫn dắt họ tiến xa hơn, theo pháp xuất thế. Rõ ràng kinh này muốn đưa ra mẫu người tu lý tưởng tiêu biểu cho vị đạo sư khả kính không phải là người tu ăn bám.

 

6000 Tỳ kheo đến thăm Bồ tát Văn Thù được Ngài dạy điều quan trọng nhất là phát tâm bồ đề. Bồ đề tức trí giác để thấy được chân thật pháp, thấy được công hạnh của các Ðức Phật và việc làm của Bồ tát; từ đó tự xét việc của mình để từng bước làm giống Phật và Bồ tát.

 

Văn Thù cho biết kinh nghiệm bản thân Ngài trong vô lượng kiếp theo Phật tu hành, chỉ làm một việc duy nhất là phát tâm bồ đề. Và nhờ thành tựu trí tuệ, Ngài tạo được muôn ngàn công đức. Tu học Phật theo tinh thần Ðại thừa, phải nỗ lực phát huy trí tuệ, vì có trí tuệ là có tất cả.

 

Trên nền tảng quan trọng của trí tuệ, theo Trí Giả đại sư, người có trí mới có thiền định, có đạo đức. Không trí tuệ, mà có lòng tốt, thì lòng tốt ấy sẽ tác hại cho ta và người, giống như khỉ thương con, ôm con lội qua sông làm cho con chết ngộp.

 

Ngoài việc phát triển trí tuệ, Văn Thù Sư Lợi khuyên đại chúng phải có sức kham nhẫn, không nên mệt mỏi, buồn phiền, dù Thầy có hành hạ. Giống như Ðức Phật trong kiếp quá khứ đã từng khổ cực mà vẫn quyết tâm theo học với Ðề Bà Ðạt Ða.

 

Tôi cũng có kinh nghiệm về việc học đạo. Khi chúng ta đến học, trước nhất Thầy phải thử xem chúng ta có thông minh không, có sức chịu đựng và có lòng tốt thực sự hay không. Phải vượt qua thử thách về trí tuệ, về nghị lực, chứng tỏ chúng ta tốt, hết lòng cầu đạo, thầy mới truyền pháp. Người chỉ muốn được đề cao, ăn ngon, hưởng thụ, chỉ là hạng giá áo túi cơm, không thể dùng được, chẳng ai muốn dạy cho uổng công.

 

Hành Bồ tát đạo phải liên tục, không ngừng nghỉ mới thành Phật được. Chư Phật phát tâm bồ đề dũng mãnh tinh tấn từ đời này sang đời khác. Có thể nói tăng thượng duyên rất quan trọng, dừng lại thì về sau tu rất khó.

 

Ngoài ra, Văn Thù còn dạy rằng trải qua vô lượng kiếp tu hành, tích lũy công đức, Ngài mới được thành quả như ngày nay. Ngài dạy Thiện Tài phải quan sát tập họp công đức của chư Phật, vì Phật kết tinh bằng phước đức. Chúng sinh trong địa ngục kết tinh bằng tội lỗi, trần lao nghiệp chướng.

 

Trên bước đường tu, hơn nhau ở việc tích lũy công đức. Chúng ta thấy rõ quá trình hành đạo của Phật chứa nhóm toàn là phước đức. Ðối với việc lành nhỏ bằng cây kim, Ngài không hề từ bỏ và việc ác dù nhỏ như hạt cát, Ngài cũng không làm.

 

Trong sinh hoạt thực tế, tôi thấy những thầy đồng tu biết tích lũy phước đức, đều thành tựu nhiều Phật sự. Những thầy bước đầu có điều kiện vật chất hơn người, nhưng hưởng thụ thì cuộc đời họ dần dần đi xuống; vì phước cạn, đòi hỏi tăng, không đáp ứng được, tất nhiên phải bị suy sụp. Số bạn của tôi không ít người vấp phải sai lầm này, tiêu hết công đức, nhưng tạo thêm nhiều tội ác, khó tiến tu. Thực tế chúng ta thường thấy nhiều thầy tri sự cực khổ lo cho chư Tăng; dù họ không giỏi, nhưng nhờ tích lũy được công đức, sau cũng làm trụ trì, cũng được kính mến. Còn giỏi mà không làm lợi ích gì, chỉ hưởng thụ thì cuộc đời cũng mai một.

 

Dứt khoát rằng muốn hành Bồ tát đạo phải tích lũy công đức. Phước đức không có không thể nào cứu giúp người. Thật vậy, chúng sinh nhiều vô cùng và đòi hỏi của họ thì vô tận. Ðiển hình sơ sơ một việc trước mắt như chúng ta đến vùng nghèo khổ, tất yếu phải đem tiền của đến giúp đỡ, xây dựng. Có như vậy mới dễ cảm hóa họ.

 

Kinh nghiệm bản thân tôi không làm được việc lớn vì phước có giới hạn, nên việc làm cũng giới hạn. Chư Phật thì phước đức vô hạn, vì thế những việc của Ngài thành tựu siêu tuyệt vô tận. Ý thức như vậy, đòi hỏi chúng ta nỗ lực tu tạo nhiều phước đức để sau này dùng phước đức trang nghiêm thân, còn toàn nghiệp chướng thì không tự cứu nổi mình, nói chi đến độ người.

 

Riêng đối với Văn Thù, công đức lớn nhất của Ngài là kính trọng người, không bao giờ ngã mạn, xem thường người, cũng giống như hạnh của Thường Bất Khinh Bồ tát. Có ý niệm hơn người, sẽ bị tổn đức, dù hơn thật, huống chi là không hơn.

 

Hạnh Bồ tát là gieo trồng thiện căn, tích lũy công đức bằng cách làm cho đời càng nhiều càng tốt. Tu Thanh văn mệt mỏi, chán nản thì nghỉ ngơi. Hành Bồ tát đạo không được quyền nghỉ, tất cả công việc bao vây, chúng sinh đòi hỏi. Ra làm việc mới thấy điều này, việc đang chờ mà bỏ hay bịnh là hư việc liền.

 

Công đức phải tích lũy sẵn, cần tiền chúng ta đáp ứng ngay, cần công sức, chúng ta cũng giúp được. Tu một mình thì khác, nhưng vì đại chúng thì khác, không lo cho họ không được. Bản thân ta không thối chuyển là việc dễ, làm cho người không thối chuyển không đơn giản. Vì vậy, dìu dắt họ nên người là tạo được công đức lớn.

 

Xá Lợi Phất cảm nhận được công ơn giáo hóa của Phật khiến cho Ngài đắc quả La hán thật lớn lao vô cùng, nên bạch Phật rằng dù đầu đội, vai mang trải vô số kiếp, Ngài cũng không đáp đền được ân đức ấy.

 

Ngày nay, chúng ta chỉ nhìn thành quả của Phật, cho rằng Ngài nói đơn giản vài lời là độ được người. Còn công lao nuôi dưỡng người trải qua nhiều đời của Phật cực lắm, chúng ta đâu thấy. Thử nghĩ một việc nhỏ đối với chúng ta như có một thị giả theo đã phát sinh vấn đề cho ta, có hai thị giả thì vấn đề lại khác nữa.

 

Kế tiếp, Bồ tát hết lòng thờ kính chư Phật, gần gũi cầu học với Phật để thành người hữu dụng, hiểu biết rộng. Văn Thù Sư Lợi đáng lẽ thành Phật từ lâu, nhưng vì ý thức cầu học mà Ngài làm Bồ tát. Ngài cầu pháp không bao giờ mệt mỏi, không thấy đủ. Vì theo Ngài, hiểu biết thật không cùng tận, mỗi ngày có phát minh mới, cần phải cập nhật hóa cho kịp văn minh thời đại.

 

Văn Thù siêng tu 6 pháp ba la mật, việc nào cũng nỗ lực đạt đến thành quả cùng tột. Nhưng trên thực tế, mỗi ngày đều có cái mới, không thể làm cho cùng toät được. Vì vậy, Văn Thù chưa trọn vẹn 6 pháp ba la mật, nên chưa thành Phật. Ý này nhằm nhắc nhở việc làm của chúng ta còn giới hạn, còn nhiều mặt khiếm khuyết, cần trau giồi để thăng hoa, không tự mãn.

 

Khi hành Bồ taùt đạo, tu 6 pháp ba la mật, Văn Thù nhập Bồ tát tam ma địa. Nghĩa là Bồ tát nhập định trong công việc, làm việc nào trụ tâm trong việc đó. Trong khi Thanh văn nhập định phải ngồi yên nơi thanh vắng.

 

Bồ tát định trong công việc, nên càng làm, thì trí Bồ tát càng sáng thêm, tâm càng yên ổn. Bồ tát đi, đứng, thuyết pháp, ăn..., nói chung mọi sinh hoạt đều luôn ở trong định. Ðịnh của Bồ tát là làm cho trí tuệ sáng suốt liên tục. Thanh văn định thì kéo dài trong khoảng thời gian nhất định nào đó, nên có nhập định, trụ định, xuất định.

 

Bồ tát nhờ luôn trụ định, nắm vững cả ba thời kỳ quá khứ, hiện tại, vị lai. Ðối với Bồ tát, quá khứ không quên, tương lai vẫn thấy để tiến tới tốt đẹp và hiện tại vẫn làm được mọi việc. Một niệm tâm của Bồ tát thông cả quá khứ, hiện tại, vị lai. Thanh văn thì không được vậy, hễ hướng đến tương lai là quên thực tế hiện tại và nhớ đến quá khứ thì bị nó chi phối, cũng không làm được việc trước mắt.

 

Bồ tát giáo hóa độ sinh, thâm nhập được tâm chúng sinh và làm cho họ thanh tịnh. Tâm chúng sinh thanh tịnh là tịnh độ của Bồ tát hay Bồ tát nghiêm tịnh Phật độ bằng việc làm cứu giúp người.

 

Sau khi khuyên các Tỳ kheo, Văn Thù Sư Lợi từ giã Ta La song thọ, đi đến phía Ðông Phước Thành, nghĩa là có đầy đủ trí tuệ rồi thì những gì tạo được sau đó, do trí tuệ chỉ đạo, mới thật laø phước đức vĩnh viễn của chúng ta. Chưa có trí tuệ mà có phước báo rất nguy hiểm. Vì vậy các Tỳ kheo không được giữ của báu, vì sống rày đây mai đó, không nhà cửa sẽ bị kẻ cướp chiếm đoạt, giết chết.

 

Từ Ta La song thọ đến Phước Thành tìm Thiện Tài đồng tử, hay tìm người gánh vác tương lai đạo pháp sau Phật Niết bàn. Tất nhiên muốn phú chúc sự nghiệp phải tìm người trẻ khoẻ, giỏi. Ðạo Phật tồn tại mạnh hay không là tùy ở thành phần thượng tầng kiến trúc nhiều hay ít. Nếu chỉ toàn người già yếu, nghèo khổ, dốt nát theo thì chẳng ai hại, đạo Phật cũng tự chết.

 

Khi Văn Thù đến Phước Thành, có 500 Ưu bà tắc, 500 Ưu bà di, 500 đồng tử đứng đầu là Thiện Tài. Khi ông sinh ra, tiền của đầy nhà, vàng bạc châu báu từ đất trồi lên nên đặt tên ông là Thiện Tài. Ðến đây chúng ta bắt đầu nhìn về mặt vô hình của con người có phước báo. Chính vì vậy mà Văn Thù Sư Lợi đang thuyết pháp giáo hóa 500 Tỳ kheo ở rừng Thệ Ða, Ngài lại bỏ đi để đến thăm cậu bé Thiện Tài vừa chào đời. Kinh Hoa Nghiêm muốn diễn tả Thiện Tài tiêu biểu cho Phật ra đời có phước đức trí tuệ đầy đủ, có sức tập trung caùc Bồ tát lớn, như Văn Thù Sư Lợi trong pháp hội này là đệ tử của Phật Thích Ca. Nhưng ở trường hợp khác, Văn Thù Sư Lợi là Thầy của ba đời mười phương Phật. Ðó là tinh thần phóng khoáng của kinh Hoa Nghiêm, Văn Thù vừa là Thầy của Phật, vừa là người trợ giúp cho Phật. Kinh Pháp Hoa gọi đó là Bồ tát thị hiện, tức các Bồ tát lớn đã thành Phật, tái sinh lại trợ hóa cho Phật.

 

Thiện Tài sinh ra ở Phước Thành là thành được xây dựng trên căn bản phước đức, nên hoàn cảnh tự thay đổi tốt đẹp, sung túc. Nhìn thực tế cuộc sống, chúng ta cũng thấy được điều này. Người có phước đức sinh hoạt ở đâu thì nơi đó trở thành tốt, của cải và may mắn tự đến với họ. Các vị cao Tăng không sở hữu tài sản gì, nhưng có sức tập trung, thuyết phục, đàn việt mang đến cúng dường tạo được chùa lớn. Còn người tham vọng đến chiếm đoạt, nhưng không phước đức thì đến ở, cơ sở bị xuống cấp, không phát triển nổi. Như vậy kết quả lên hay xuống tùy ở phước báo quyết định, không phải do khôn ngoan, thủ đoạn mà được.

 

Ðức Phật Thích Ca ra đời, dân chúng sống sung túc, mùa màng phát đạt. Ðó là nhờ phước Phật quaù lớn, được kinh Hoa Nghiêm diễn tả dưới dạng Thiện Tài sinh ra thì bảy báu đầy nhà. Thiện Tài đồng tử xuất hiện là thế giới lý tưởng và đem lý tưởng này đặt vào hiện thực cuộc sống của Ðức Phật, theo tôi, hai sự kiện này là một.

 

Phước thành, nơi sinh của Thiện Tài gợi cho chúng ta ý thức rằng hành Bồ tát đạo cần phải có phước. Tu Thanh văn đạo không cần phước đức, nhưng cần giải thoát. Vì Thanh văn tu hạnh viễn ly, phải xả ly tất cả giàu sang vật chất, mặc áo phấn tảo, tạo phước sẽ thành nghiệp.

 

Hành Bồ tát đạo đòi hỏi phải có phước, thiếu phước không thể làm đạo. Phước lớn nhất của người tu là tâm. Người xuất gia lấy tâm làm chính, nên phaùt tâm Ðại thừa. Nghĩa là phải mở rộng tấm lòng dung được mọi người, dung được tất cả căn tánh hành nghiệp của chúng sinh Bồ tát chấp nhận được, thương được, dung được mới có thể độ sinh. Tấm lòng hẹp là tiểu thừa, chỉ tu một mình.

 

Có thể nói tiếp Tăng độ chúng không bao dung không được, vì ta muốn thì những cái muốn đó không bao giờ theo ý ta. Riêng tôi, biết rằng muốn không được, nên thường lấy ý người làm ý mình, lấy nghiệp người làm nghiệp mình, thì dung được.

 

Ngoài ra, hạnh phúc nhất của người tu là có được tâm hoan hỷ, trong sáng, không phiền não. Dù tu Thanh văn hay Bồ tát đạo đều cần phải có tâm hoan hỷ, người dễ chấp nhận, thân thiện với ta.

 

Có tấm lòng cũng chưa đủ, cần có sức khỏe tốt và ngoại hình dễ coi. Không khỏe không làm việc được. Nhiều sức khỏe, đi nhiều nơi, giải quyết nhiều việc rắc rối cho cuộc đời và có hảo tướng dễ thành công.

 

Phước báo kế tiếp là cần có quyến thuộc nhiều đời, không phải một đời. Từ quyến thuộc thấp kém, nghèo khó, ta xây dựng cho họ thành giỏi, khá, có nếp sống dư dả không phải là việc đơn giản. Vì hành Bồ tát đạo, tập họp được người thông minh, giàu có, khỏe mạnh thì dễ làm nhiều việc lớn. Nhưng thành phần tốt như vậy cũng không dễ nghe theo ta, trừ khi ta đã từng cưu mang, cứu giúp họ ở nhiều đời trước, đời này họ mới chấp nhận ta là ân nhân, bằng lòng hợp tác. Muốn như vậy, tất nhiên ta phải giỏi, giàu, tốt hơn họ.

 

Và sau cùng là có đủ phương tiện trong tay, thực tế là tiền bạc. Muốn xây dựng chùa, bố thí, cúng dường hay bất cứ hoạt động nào tất yeáu cũng cần có tiền.

 

Tu Ðại thừa, có đủ các phước vừa kể thì dễ dàng hành đạo. Giỏi là điều cần thiết, nhưng tôi thấy phước quyết định thành bại, không phải tài quyết định. Phước cho chúng ta nhiều may mắn trên đường hành đạo, còn tài thì dễ bị người đố kỵ và thường kèm theo tai họa. Nhiều thầy không giỏi, nhưng làm được nhờ có phước; nhiều người giỏi, nhưng "tài và tai một vần".

 

Văn Thù Sư Lợi dắt đại chúng đến Phước Thành quan sát Thiện Tài là người có đủ phước rồi mới hành Bồ tát đạo. Chữ thành (Phước thành) chỉ cho ngũ uẩn thân, chỗ ở của linh hồn. Ngũ uẩn thì giống nhau, nhưng khác nhau ở điểm cấu tạo bằng phước đức hay bằng trần lao nghiệp chướng. Hành Bồ tát đạo, ta phải từng bước thay đổi cấu trúc bên trong, từ nhà ngũ uẩn trần lao nghiệp chướng biến đổi thành nhà phước đức hay vô lậu ngũ uẩn. Ðể chọn người truyền trao chánh pháp, Văn Thù tìm Thiện Tài có đầy đủ phước đức, tâm hồn phóng khoáng, dễ thương, sức khỏe tốt, ông đến đâu thì của báu tự trồi lên.

 

Phát xuất từ Phước Thành hay người có phước mới lên được. Với bản chất thông minh và phước đức của Thiện Tài, Văn Thù dạy rằng trên bước đường cầu Vô thượng bồ đề, đừng bao giờ tự mãn, thấy đủ, học cùng kiếp cho đến khi không có gì không biết, tức thành Phật mới thôi.

 

Văn Thù cũng nhắc nhở Thiện Tài cầu học với thiện tri thức, đừng vội vã đánh giá họ hay việc làm của họ. Vì họ hơn ta một cái đầu, ta không thể hiểu nổi phương tiện thiện xảo của các thiện tri thức. Thật vậy, kinh nghiệm tôi thuở bé đã từng đi mua rượu thịt cho ông thầy dạy học, tôi không hề khi dễ ông và học được với ông rất nhiều điều hay. Con đường tu của tôi thăng hoa cũng nhờ đi theo hướng mà ông chỉ dạy.

 

Các Hòa thượng cũng thường nhắc ta rằng vì viên ngọc quý, đừng chấp caùi đảy da là y pháp bất y nhơn. Ta giận trụ trì, ghét pháp sư mà không tiến thân được, là tự hại mình. Tôi thấm thía điều này. Mình nhỏ mà thấy những cử chỉ không hay của người lớn, rồi xem thường họ là tự chuốc họa vào thân, vì họ đuổi ta được, hại ta được dễ dàng. Ta chỉ học điều hay của họ thôi. Còn điều dở xấu nhưng họ chưa bị quả báo, thì ta nên suy nghĩ. Họ thọ quả báo, thì ta học và tránh được điều này. Nếu bất mãn, vận động gaây uy thế để lật đổ người, rồi cuối cùng phải xách gói ra đi. Theo tôi, thất bại hay thành công của người đều là kinh nghiệm cho ta học, đó là thái độ đúng đắn của người học Phật. Trên bước đường tu, có lúc tôi bỏ đi, nhưng thầy nhìn nhận rằng nhờ ra đi mà tôi được thành quả tốt, vẫn lưu lại cảm tình với thầy.

 

Chúng ta nên cân nhắc cách xử trí của thiện tri thức, nghĩa là học khôn của người, không phải học chữ nghĩa. Học được tất cả hay dở của thiện tri thức dùng làm kinh nghiệm cho ta và trả ơn rồi thì tạ từ mà đi, đừng ở lâu, mọc gốc rễ. Chùa cao Phật lớn đi không đành là đọa. Văn Thù Sư Lợi nhắc dù khó mấy cũng gắng học cho xong, dù sướng mấy cũng bỏ đi, tất cả đều nhằm tiến đến mục tiêu.

 

Thiện Tài sinh ra đời, việc đầu tiên là phải gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ tát trước. Thế giới Hoa Nghiêm gợi cho chúng ta rõ điểm này. Chúng ta tu được nhờ nhân duyên căn laønh, sinh nơi nào có Bồ tát lớn hiện thân giúp đỡ. Trên bước đường tu, mở đầu không gặp thiện tri thức chỉ dạy, rất khó tu. Thực tế thường thấy có người muốn tu không được vì luôn gặp hoàn cảnh xấu, gặp người xấu dẫn dụ họ theo đường tà.

 

Nhờ gieo trồng căn lành sâu dày, Thiện Tài được Văn Thù tự tìm đến khai ngộ và khuyên nên đến Ðức Vân Tỳ kheo để tu học. Thiện Tài vâng lời, sau khi học đạo với Ðức Vân, Thiện Tài tiếp tục xả thân cầu đạo khắp nơi, học hỏi với 53 vị thiện tri thức. Ðiều này cho thấy trong quá trình tu, được khai ngộ, cũng chưa đủ, mà còn đòi hỏi chúng ta phải hạ thủ công phu. Không ngại gian lao để tầm sư học đạo và chịu cực khoå rèn luyện đức tánh tốt, trau giồi trí năng mới trở thành mẫu người có khả năng giữ gìn giềng mối đạo pháp.

 

1- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Ðức Vân Tỳ Kheo.

 

Thiện Tài đồng tử là Bồ tát tái sinh nên căn lành saâu dày, rộng lớn vô cùng, mới được Ngài Văn Thù tìm đến khai ngộ, dạy cho đồng tử đạo bồ đề để nhận thức được khổ đau sinh tử trầm luân mà tránh được nhiễm ô trần thế. Trên bước đường tu, gặp được minh sư hướng dẫn là điều vô cùng quan trọng. Vì trong thực tế cuộc sống, chúng ta thấy nhiều người tuy có căn lành, nhưng không được phước duyên gặp Bồ tát chỉ dạy, thì sẽ bị người đời nhồi nặn một lúc, họ cũng trôi lăn theo dòng sông meâ bể khổ.

 

Thiện Tài thì khác hẵn, nhờ Bồ tát Văn Thù khai tâm, liền nhớ ngay cõi này là chốn giả tạm, khổ đau, không phải là chốn quê nhà vĩnh hằng của ông. Nhận thức sâu sắc như vậy, Thiện Tài một lòng cầu thỉnh Boà tát Văn Thù chỉ dạy phương cách thoát ly trần ai khổ lụy.

 

Văn Thù Sư Lợi khẳng định chỉ có một cách duy nhất là tầm sư học đạo. Thật vậy, khi đã ý thức rõ cuộc đời huyễn ảo, xấu xa, chúng ta phải hướng tâm đi tìm cái chân thực, tốt đẹp vĩnh hằng. Thiện Tài có cả gia nghiệp đầy đủ của báu, không thiếu gì, nhưng Ngài thấy nó chỉ tạo thêm ràng buộc, nên sẵn sàng từ bỏ để dấn thân tìm đạo. Ðức Phật Thích Ca xuất gia cũng với ý thức hoàn toàn buông bỏ dục lạc mới đạt được quả Vô thượng đẳng giác. Còn chúng ta không có gì mà còn muốn tạo thêm, nhiều tham muốn quá, chắc chắn cách đạo còn xa, khó lòng đi trọn con đường giác ngộ.

 

Tuy nhiên, việc tầm sư học đạo không đơn giản. Riêng tôi, từ lúc mới 12 tuổi đầu, mang chí xuất gia cũng khổ vô cùng với vấn đề tìm chùa để tu, tìm Thầy để theo học đúng chánh pháp. Vì vậy, có người tu một lúc rồi cũng quay trở về. Ði moät đoạn đường tu tương đối còn nhiều người, nhưng đi cho trọn Phật đạo thì thật là hiếm.Nếu may mắn gặp Văn Thù trên đường tìm đạo thì còn gì hạnh phúc hơn. Thuở nhỏ, tôi được nhiều người giúp đỡ. Ðặc biệt có một Hoà thượng rất giỏi về thuốc Bắc và uyên thâm Hán học. Bất chợt, Ngài gặp tôi ở Ðức Hoà và bảo tôi nên về chùa Huê Nghiêm ở Thủ Ðức tu với Hoà thượng Trí Ðức, là cố Viện chủ Tổ đình Huê Nghiêm. Nghe lời chỉ dạy đó, tôi lội bộ từ Củ Chi đến Ðức Hoà, rồi đi ngược trở về Thủ Ðức, không có một đồng xu lận lưng. Với duyên may ấy đã đưa tôi đến nương với Hoà thượng Huê Nghiêm, tiến tu đến ngày nay.

 

Thiện Tài được khai ngộ và phát tâm bồ đề rồi, Văn Thù cho biết việc của ông đến đây là xong và khuyên từ đây về sau Thiện Tài nên hành Bồ tát đạo, dấn thân vào đời để tìm chơn thiện tri thức, không phải ngụy thiện tri thức.

 

Văn Thù chỉ dạy Thiện Tài nên đi về phương Nam, trên đỉnh núi Diệu Phong học đạo với Tỳ kheo Ðức Vân đang tu Bồ tát hạnh. Muốn hành Bồ tát đạo mà lại tìm Thanh Văn để học là chuyện trái ngược, nhưng Thiện Tài vâng lời dạy không chút nghi ngờ, rồi hướng về hư không lạy, đền ơn tri ngộ.

 

Tìm Tỳ kheo trên đỉnh núi cao, nghĩa là người cầu đạo phát tâm bồ đề phải hướng ý chí đến quả vị cao nhất là Phật. Tìm đạo với Tỳ kheo vì đó là đệ tử Phật đang tiến trên lộ trình cầu thành Phật quả. Thật là Tỳ kheo thì phải thể hiện 5 đức tánh tiêu biểu. Trước nhất, Tỳ kheo có hình tướng giải thoát khiến người từ xa trông thấy đã phát tâm. Khi đến gần, nhận thấy lời nói, dáng đi, cử chỉ cuûa Tỳ kheo đều đáng cho ta kính trọng. Và càng tiếp xúc, gần gũi nhiều năm với Tỳ kheo, ta chỉ thấy những điều tốt của họ và cuộc sống thánh thiện ấy tác động cho ta hưởng hương vị giải thoát. Tâm hoàn toàn thanh thoát, hướng thượng, gần gũi và học với người cao thượng là con đường mà Văn Thù dạy chúng ta phải trải qua trên bước đường tu, đi tắt vào đời không được. Tỳ kheo Ðức Vân ở trên núi nhiều năm cũng làm bao nhiêu việc bình thường, nhưng hơn người thế tục ở 5 đức tánh thánh thiện trên.

 

Nghe lời Văn Thù, Thiện Tài khao khát đến núi Diệu Phong tìm Ðức Vân Tỳ kheo, nhưng tìm hoài không gặp. Sau khi đi vòng quanh núi 7 ngày, mới thấy một vị sư đang chậm rãi đi kinh hành ở đỉnh núi toát ra đức hạnh cao cả như ngọn núi cao mà Ngài đang sống.

 

Phải mất một tuần mới tìm được Ðức Vân, hay nói khác, chúng ta tu hành luôn luôn có giai đoạn thử thách. Trong một tuần cầu đạo, lòng chúng ta thường quyết tâm đến độ cao, dù tan thân mất mạng cũng cam chịu. Khi nghĩ lên núi tu tưởng là đơn giản, dễ dàng, nhưng thực tế không như ta mơ tưởng. Chẳng hạn như từ chân núi Thị Vải leo lên, mệt thở không ra hơi, chẳng thấy bồng lai tiên cảnh hay bóng dáng tiên nào cả, chỉ có nắng chang chang, toàn là đá với đá, khiến ta bắt đầu nản chí tang bồng. Suốt một tuần tìm đạo, người không có căn lành cảm thấy buồn thiu, chán ngắt và bắt đầu nhớ gia đình. Trái lại, với người có căn lành sâu dày nơi Phật đạo, cảnh u tịch núi rừng tác động cho tâm hồn họ trở nên nhẹ nhàng, trong sáng. Từ một ngày đến bảy ngày, họ quên hết thế sự, kể cả gia đình. Lúc đó, chỉ một lòng thiết tha cầu đạo mới gặp được Ðức Vân.

 

Thiện Tài trong một tuần quyết tâm tìm thì Ðức Vân xuất hiện. Và với căn lành có sẵn, khi thấy Ngài đạo hạnh sáng ngời, chỉ trong khoảnh khắc, thân tâm Thiện Tài liền thanh tịnh. Người có căn lành tu dễ dàng, chỉ nhìn thấy là đắc đạo liền, vì đời trước đã từng tu, đã thực hiện các pháp lành của Phật, nên nay thấy quen thuộc. Giữa thầy và họ liền hợp nhau, thông nhau và baèng quyết tâm cầu giải thoát, chỉ trong chớp mắt tiếp nhận được sở đắc của thầy.

 

Văn Thù bảo Thiện Tài tìm Ðức Vân, nhằm nhắc nhở chúng ta sơ tâm học đạo cần phải tìm một danh Tăng, một người đức hạnh để nương theo. Ðoù là ý thức đầu tiên cần có, vì trên đường tu người sơ tâm mà gặp người phiền não thì nghiệp chướng trần lao phát sinh.

 

Ðức hạnh là việc quan trọng chính, trước nhất xuất gia phải nương tựa với người phước đức, ví như cây tùng không bị phong ba bão táp quật ngã. Bước đầu tu không giữ đức hạnh thì càng về sau, cuộc đời tu của chúng ta càng khó khăn vì bị người bươi móc tội lỗi.

 

Riêng tôi may mắn được cầu pháp với Hoà thượng Huê Nghiêm. Niềm tin của Hòa thượng đối với Phật rất cao và tấm lòng của Hòa thượng đối với đạo cũng hiếm người có được. Cách hành đạo của Hòa thượng tôi thấy rõ là Ngài không đòi hỏi bất cứ quyền lợi nào, chỉ mong được đền trả ơn Phật. Ngài sợ thời gian trôi qua mà đạo quả chưa thành nên lúc đại chúng ngủ, Hoà thượng vẫn tiếp tục lạy Phật, trì chú, khiến tôi sinh tâm kính trọng và cũng bắt chước nỗ lực công phu tu tập như Ngài. Nghĩa là tôi đã nương được với đức hạnh của Hoà thượng. Ngược lại, chúng ta theo vị thầy chỉ lo tham đắm thế gian thì rõ ràng đang tiến bước trên đường ác.

 

Ðể thâm nhập pháp giới, kinh Hoa Nghiêm đảo ngược thứ tự, theo đó thứ nhất tu chùa, thứ nhì tu chợ, thứ ba mới tu nhà. Nói khác, vào chùa học đạo vô thượng của Như Lai xong, mới đem Phật pháp vào xã hội và sau cùng trở về hướng dẫn gia đình.

 

Bước đầu tìm cao Tăng học đạo, tìm người đức hạnh sánh bằng trời cao, tiêu biểu bằng hình ảnh Ðức Vân Tỳ kheo, để rèn luyện mình thành người đạo đức. Từ đây, phải làm theo tất cả phương tiện mà vị thiện tri thức dạy.

 

Ở giai đoạn này, phần lớn thiện tri thức dạy chúng ta tích tụ công đức, nên thay mọi người làm việc nặng nhọc không biết nhàm chán, mới là cầu đạo thật. Như Huệ Năng bửa củi, gánh nước, giã gạo, sau thành Tổ, thể hiện rõ nét gương sáng nhập pháp giới. Trái lại, chúng ta thấy phần lớn những người lánh nặng tìm nhẹ, thích làm việc nổi cho nhiều người biết, thì cuối cùng cuộc đời của họ cũng chẳng ra sao.

 

Tôi sớm ý thức sự quan trọng của việc tích lũy công đức trên bước đường tu, từ thuở ấu thơ mới vào đạo, đã siêng năng làm những việc nặng nhọc mà người khác thường chê bỏ, trốn tránh. Nhờ cực khổ công quả cho Phật lâu ngày, tích tụ thành công đức, giúp tôi thăng hoa cuộc sống đạo hạnh đến ngày nay.

 

Biết nương theo người đạo đức để tự sửa mình cho trong sạch, mới dễ tiến xa. Tôi thấy trên thực tế, có nhiều chùa vắng người ở, nhưng có Thầy lại kiếm không được chùa để ở. Chúng ta phải tự xem tại sao người không dung chứa mình. Theo ý tôi, rõ ràng là tại ta không đức hạnh, xuất gia tu học không đúng pháp mới ra nông nổi ấy.

 

Thiết nghĩ lo tu bồi cội đức thì sau này có điều kiện tốt cho ta phát triển khả năng. Những người thiếu đức hạnh, dù giỏi cũng không dùng được. Việc tu hành trước tiên phải lo rèn luyện đức hạnh tốt khả dĩ thay Phật giáo hoá độ sinh.

 

Luyện mình thành người đức hạnh, tức ba nghiệp thuần hòa, chỉ quyết tâm làm đạo, việc bình thường khác không nghĩ đến và không làm. Một người có đức hạnh thật, chắc chắn người khác nhìn thấy phải có cảm tình ngay. Không đức hạnh, ăn nói bừa bãi, hiện tướng hung dữ, thì có năn nỉ, người ta cũng không cho mình ở, dù chùa còn phòng rộng thênh thang.

 

Thuở nhỏ, tôi may mắn gặp quý Thầy thường nhắc nhở, dạy tôi phải làm những việc gì để thành người đức hạnh. Tôi vâng lời làm đúng vậy, đến đâu cũng được thương mến. Chỉ nhìn những gì tốt, hay, phải mà bắt chước theo. Tôi thấy những thầy khác thường phạm sai lầm vì chỉ biết những việc xấu của người, còn việc đáng làm, nên biết thì lại ở ngoài tai, không đụng đến. Nghe lời Thầy, tôi không maøng quan tâm đến việc lặt vặt của người khác, nỗ lực học kinh điển và sống hoà với đại chúng. Tôi công quả, làm được việc thì người mới cho ở và thương được. Tôi làm hương đăng thì trang hoàng bông trái đẹp đẽ, quét dọn sạch sẽ. Làm vệ sinh nhà cầu thì cũng siêng năng làm sạch không ai bằng. Thiết nghĩ chúng ta hiện hữu nơi nào đều cần thiết, lợi ích cho người; nói cách khác, có tài và đức tánh tốt, đó là đức hạnh.

 

2- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Hải Vân Tỳ Kheo

 

Khởi đầu bước đường tu học, Văn Thù Bồ tát khuyên Thiện Tài lên núi cao tìm Ðức Vân Tỳ kheo để học giới đức, tu tạo đức hạnh. Lên núi cao hay nói khác là nâng đức hạnh ta cho cao, tức thành tựu việc làm lợi tha và ý niệm tốt nhờ nương tựa với người đức hạnh. Vì muốn xuất trần, phải tìm thượng sĩ. Không rèn luyện đạo đức, chúng ta cũng y như người đời. Thực tế, không ít giáo sư giảng hay, nhưng không ai theo vì họ thiếu đức hạnh, thiếu tư chất của người tu. Học đạo, tìm người đức độ thân cận, nhất định một thời gian sau, ta cũng trở thành người đạo hạnh.

 

Tìm được thầy có đạo đức để học hỏi rồi, khi vị này không có gì để dạy bảo nữa, thì nếu họ thương đạo, chắc chắn cũng khuyên ta nên tiếp tục con đường phát triển tri thức với một vị thầy khác. Sau đó, tiếp tục con đường tu bằng cách vào Phật học đường tìm tri thức, nhưng lúc naøo trong lòng ta cũng ghi đậm hình ảnh vị chân sư khả kính đã un đúc cho ta đức hạnh ở bước đường tu tập ban đầu. Nhờ vậy, hành động, lời nói, ý tưởng của ta vẫn thể hiện đạo đức đã học được với Thầy. Song song với việc mở mang kiến thức, chúng ta vẫn giữ được tinh thần giải thoát và đạo hạnh trong cuộc sống thường nhật.

 

Theo tôi, những Tăng Ni vào trường học mà không có mẫu Thầy lý tưởng để tôn thờ, để nương tựa tâm linh, thì dù có tri thức, cũng khó tiến tu được. Tôi thấy nhiều người học rất giỏi, nhưng thiếu đức, thường sử dụng thủ đoạn, cuối cùng kết thúc cuộc đời thật bi thảm.

 

Thiện Tài học với Ðức Vân, rèn luyện thành tựu đức hạnh và đến đâu cũng thể hiện được việc tốt, thì Ðức Vân cho biết sở đắc của ông chỉ có chừng nấy, còn pháp Bồ tát thì vô lượng, Thiện Tài nên tiếp tục tham phương học đạo với vị Tỳ kheo Hải Vân.

 

Thiện Tài đảnh lễ Ðức Vân taï từ ra đi về phương Nam đến nước Hải Môn tìm Hải Vân để biết thế nào là đạo Bồ tát và hành đạo Bồ tát như thế nào.

 

Giai đoạn hai, học với Hải Vân là học trí tuệ, sau khi đã hoàn tất việc học đạo đức ở giai đoạn đầu. Kinh ghi rằng Hải Vân tu bằng cách quán sát biển cả.

 

Quán sát biển rộng bao la và sâu thăm thẳm, tâm của Hải Vân cũng trở thành rộng sâu, dung chứa được muôn loài. Từ loài nhỏ nhất đến lớn nhất, hình dáng, sinh hoạt của chúng đều hoàn toàn khác nhau, nhưng đều dung hoà, sống yên ổn trong lòng Hải Vân.

 

Chúng ta sinh hoạt trong pháp hội đạo tràng ở nhân gian có người thiện, kẻ ác, đầu tiên chúng ta chỉ dung được người tốt, không thể thương người xấu. Bước theo gót chân của Thiện Tài đến học đạo với Hải Vân, chúng ta cũng tập nhìn biển cả để mở rộng lòng mình. Khi có những trận mưa to, nước nguồn khắp nơi đổ về, mà biển không đầy thêm; lúc không mưa, biển cũng không vơi đi. Từ đó, chúng ta luyện tâm bình đẳng, nhìn mọi loài, mọi người bằng ánh mắt dung thông và nỗ lực giúp đỡ những gì nằm trong tầm tay ta.

 

Ngoài ra, quán sát biển cả, thấy nhiều của báu nằm trong lòng biển. Phật dạy trong tâm người cũng có của báu, nếu biết khai thác thì sẽ đạt Thánh quả. Quan sát biển mênh mông, tâm chúng ta rộng theo, biển chứa nhiều của quý, tâm chúng ta dung chứa được nhiều người.

 

Ðó là pháp thứ hai của Bồ tát lần đi vào pháp giới. Hai vị thiện tri thức đầu tiên tiêu biểu bằng hình ảnh hai Tỳ kheo. Tỳ kheo là một trong 4 chúng đệ tử của Phật. Phật đã diệt độ, chúng ta không gặp Ngài thì trước tiên phải tìm vị Tăng cao thượng, có đức độ, có tâm hồn bao la dung chứa được muôn loài hữu tình.

 

Hải Vân cho biết Ngài đứng ở bờ sinh tử thấy cuộc sống nhân sinh ở dạng như vậy, nhưng hành đạo phải vào cuộc đời để trắc nghiệm pháp đã học, thì Thiện Tài nên tìm Thiện Trụ Tỳ kheo. Giai đoạn hai học kinh luật với Hải Vân để phát triển tri thức và giai đoạn ba học với Thiện Trụ để ứng dụng trong cuộc sống tu hành.

 

3- Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo Với Thiện Trụ Tỳ Kheo

 

Nhờ học với Hải Vân là người thâm nhập Phật huệ, trí sâu như biển cả, Thiện Tài quán sát được mọi loài, phát tâm từ rộng lớn với tất cả chúng sinh. Từ đó, Như Lai xuất hiện, thọ học được với Như Lai, thành tựu được công đức hải, Thiện Tài đi về phương Nam, gặp Thiện Trụ Tỳ kheo đang đi kinh hành trong hư không.

 

Ði kinh hành trong hư không hay an trú pháp Không, lòng Thiện Trụ hoàn toàn thanh thản, không cố chấp, vướng mắc bất cứ điều gì. Vì khéo an trú trong Phật pháp như vậy, mới có danh xưng là Thiện Trụ. Ðối với người lòng không chấp trước thì sống ngay trong ngũ trược mà chẳng khác Niết bàn.

 

Với quá trình đã vượt qua hai chặng đường trước, sống với bát ngát của biển cả, lòng rộng như trời cao, đức hạnh bao trùm như mây phủ bầu trời. Từ đó, Thiện Tài mới nhẹ nhàng bỏ lại phía sau những tầm thường, nhơ bẩn của thế gian, thâm nhập Thiền quán, an trụ pháp Không, phiền não trần lao không làm hoen ố được. Ðiều này nhắc nhở chúng ta nếu chưa đạt được trí tuệ và thành tựu đức hạnh mà vào Thiền định thì chỉ là giả danh Thiền sư.

 

Tu tập Thiền quán tức vận dụng trí tuệ, hiểu biết của ta, nung nấu đến tâm thành trống không, đắc được pháp Không mà kinh diễn tả là Thiện Tài đến núi Lăng Già gặp Thiện Trụ. Kinh Lăng Già nói về pháp Tổng trì, tức đại định, tâm Không.

 

Với tâm Không, hoàn toàn an định, Thiện Tài mới diện kiến được Thiện Trụ đang kinh hành trong hư không và hiểu được pháp hành của vị thiện tri thức này. Ngược lại, nếu tâm còn kẹt những kiến thức bình thường bên ngoài, thì không theå nào gặp được Thiện Trụ.

 

Trước khi vào Thiền định, đã có phước đức, trí tuệ, vào định khỏi phải bận tâm lo việc ăn mặc chỗ ở hay các thứ lặt vặt khác. Trong Thiền định, chúng ta mới có thời gian quán sát lại Phật pháp đã học được. Chưa học mà tu, chỉ là tu mù, vì vào định lấy gì để suy tư, nếu chỉ suy tư việc thế gian là rơi vào tà định. Còn định để không biết gì là than nguội, cũi mục. Theo Trí Giả đại sư, phải chuẩn bị 25 phương tiện trươùc khi vào định và pháp thứ 26 là những gì ta học được với Hải Vân, nhờ đó không rơi vào cảnh giới ma.

 

Vào Thiền định rồi, cuộc sống không liên hệ với con người bình thường, sống hoàn toàn với nội tâm. Người ngoài không thể thấy được sinh hoạt nội giới ấy, nhưng việc đó mới thực sự quan trọng đối với người tu. Từ đó, đi lần vào thế giới tâm thức, Thiện Trụ dạy Thiện Tài tham quan thế giới chư Phật mười phương.

 

Tỳ kheo vào định, tập trung tư tưởng tạo thành linh giác đi khắp pháp giới, thấy được chư Phật hiện tiền và nghe được pháp âm Phật. Nhưng người ngoài thấy họ ngồi bất động, không đi, không tu, nhưng đó mới thật là đi, thật là tu. Thiện Trụ cho biết Ngài thấy rõ thế giới Phật. Mỗi một lần vào định là một lần tham quan pháp giới, nhưng tham quan bằng tâm thức, nên thực tại vẫn ngồi yên. Sau khi thâm nhập thế giới Phật, trở lại tham quan 6 đường chúng sinh xem chúng suy nghĩ và hành động như thế nào. Từ đó, thấy chúng sinh không theo hình tướng bên ngoài, nhưng thấy rõ căn tánh, hành nghiệp của chúng từ địa ngục A Tỳ đến Trời Hữu Ðảnh, mà chúng không hề hay biết có người gần gũi, sống cạnh chúng.

 

Ðó là việc làm của Thiện Trụ tuy ngồi một chỗ, sống trong đại định, nhưng tác động tỏa ra ảnh hưởng lợi lạc cho mọi loài. Tất cả hàm linh đều nhận được sự giáo hóa của Ngài. Chư Thiên, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, Long vương ... và các loài vô hình đều đến cúng dường Ngài.

 

Sau khi học thành tựu trí tuệ vô lậu với Hải Vân rồi, mới nhìn thấy pháp hành thực sự của Thiện Trụ Tỳ kheo. Nếu không có trí, nhìn chung chung sẽ thấy Thiện Trụ cũng giống như các Tỳ kheo khác. Quan sát bằng mắt huệ thì thấy không ai giống nhau, thấy Thiện Trụ chẳng làm gì, chỉ nhiếp tâm tu mà chư Thiên cung kính cúng dường, là đạo Bồ tát mà Hải Vân dạy Thiện Tài đến Thiện Trụ học cho được.

 

Chư Thiên vô hình, chúng ta không thấy, trừ khi phát huệ như Thiện Tài mới thấy. Tuy nhiên, chúng ta có thể hiểu trên thực tế, chư Thiên tiêu biểu cho phước đức, được người giàu có nhất trong vùng thường đến cúng dường, không cần đi xin. Dạ Xoa, La Sát hung dữ , kỳ khôi nhất cũng trở thành hiền lành, hộ đạo đối với Thiện Trụ.

 

Trên tinh thần ấy, học đạo Bồ tát là phải học cho được pháp hành vô hành của Thiện Trụ, không cử thân động niệm, nhưng mọi việc đều thành tựu, sống nhẹ nhàng, thanh thản, giáo hoá chúng sinh mà không hề bị chúng mê hoặc hay làm trở ngại việc hành Bồ tát đạo.

 

Thiện Tài gặp Ðức Vân, Hải Vân và Thiện Trụ Tỳ kheo tiêu biểu cho ba việc làm kiểu mẫu của người xuất gia, thành tựu đạo đức, tri thức và pháp vô vi nhơn phục. Rèn luyện được ba mẫu này rồi, mới có đủ tư cách dấn thân vào đời độ sinh, đến học với vị thieän tri thức thứ tư là Di Già.

 

4- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Di Già

 

Trên lộ trình cầu đạo, Thiện Tài đồng tử gặp Tỳ kheo Ðức Vân, Hải Vân và Thiện Trụ, hay đó là 3 giai đoạn tu cần thiết cho bất cứ ai muốn hành Bồ tát đạo.

 

Có thể hiểu ở giai đoạn thứ nhất, chúng ta gặp người đức hạnh quá lớn nên cảm đức mà nghiệp trần lao của ta tự mất, phát tâm tu và tự rèn luyện đức hạnh đến khi thành tựu, ở thêm cũng không lợi ích.

 

Chúng ta cầu phát huy trí tuệ ở giai đoạn hai, gặp được Hải Vân Tỳ kheo, tiêu biểu cho hiểu biết rộng như biển cả, giải được tất cả thắc mắc cho ta. Và bước thứ ba, chúng ta học nhiều, nhưng không giao động, là nhờ gặp Thiện Trụ Tỳ kheo an tâm.

 

Tâm Thiện Tài ổn định rồi, Thiện Trụ mới khuyên đi về phương Nam, đến tụ lạc là chợ trời, tìm gặp ông Di Già để biết rõ đạo hạnh của Bồ tát.

 

Di Già buôn bán ở chợ, nơi đó người buôn bán hơn thua, có đủ loại ngôn ngữ. Trên bước đường tu, nếu không học Thiện Trụ thì những thứ xấu ác này sẽ làm ta phát sinh phiền não và thối tâm bồ đề.

 

Ý này rất quan trọng. Gặp Thiện Trụ xây dựng cho ta tâm kiên cố, từ đó bước chân vào cuộc đời dù gặp nhiều cám dỗ, chúng ta vẫn không bị ô nhiễm. Trí chưa sâu, tâm chưa an định, đức hạnh không có mà vào đời độ sinh thì chưa độ được ai, đã tan thân mất mạng. Vì tâm chưa ổn, gặp việc cuống cuồng, sân si; không đức hạnh thì bị người xem thường, đánh chết; không trí khôn thì bị người lường gạt.

 

Ở chùa, trang bị được tâm an định, trí tuệ cao và đức hạnh lớn. Ðầy đủ ba tư cách này mới dấn thân vào đời, đi vào chợ, gặp ngay Di Già là Bồ tát hành đạo ở chợ với tâm hoàn toàn thanh thoát.

 

Ta ẩn tu ở núi, chưa thực sự giải thoát. Ðức Phật dạy giải thoát thực sự là giải thoát ngay trong cuộc đời. Ðức Phật không dạy chúng ta thành người gỗ đá, nhưng luyện chúng ta thành người cứu đời, làm lợi ích cho người.

 

Thiện Tài quan sát thấy Di Già buôn bán ở chợ nhưng không giống bất cứ người buôn bán nào ở trần thế. Ðó là điều quan trọng khi chúng ta tìm bạn, tìm được người ở trong đời nhưng có hành động, ngôn ngữ, cuộc sống khác đời, cao quý hơn đời. Người buôn bán tốt, có đạo tâm khác với người đời buôn bán chụp giựt.

 

Thiện Tài vào học đạo với Di Già, quan sát thấy ông buôn bán giao dịch đã lâu mà phẩm chất Phật tử vẫn còn. Ông nhận thấy nơi Di Già cái gì cũng hay. Bên ngoài ông buôn bán bình thường, nhưng nội tâm hoàn toàn thanh tịnh. Trước ở chùa thanh tịnh là điều bình thươøng. Nay tiếp xúc với đời, tâm vẫn bình thản, khác với người ở chùa mà tâm ở chợ.

 

Bồ tát ở chùa thì tâm cũng ở chùa, vào chợ tâm vẫn ở chùa. Tâm hoàn toàn không thay đổi, lắng yên và hành sử không phạm sai lầm. Ðó là điều khó trên đường tu chuyển từ Thanh văn sang Bồ tát. Thật vậy, ta sống trên đời nhưng giữ tâm trụ lại thường dễ bị khờ, không nghĩ gì đến đời thì không biết đời. Tuy nhiên, Di Già dạy đồng tử Thiện Tài trụ tâm một chỗ, không kẹt pháp, nhưng vẫn thấy pháp một cách chính xác.

 

Từ đó, Thiện Tài bước vào chợ nhằm mục tiêu hướng thiện cho người. Ông làm hạt nhân tốt ảnh hưởng cho người tốt theo. Người buôn bán với ông dần dần trở thành ngay thẳng, lương thiện.

 

Thiện Tài không biết Di Già làm cách nào mà được như vậy. Di Già cho biết nhờ vào chợ mới đạt được Ðà la ni, có sự phản ảnh tốt xấu, động tịnh trong chợ giúp ông phát hiện được pháp aáy. Nghĩa là ông nhìn cuộc đời, hiểu được người, biết được họ muốn gì và biết cả cách hành xử của họ. Ý này nhắc chúng ta vào đời cần phải biết rõ về người là điều quan trọng nhất. Vì biết được tánh và phản ứng của người, chúng ta mới cảm hoá được họ, chuyển họ thành người tốt.

 

Giai đoạn ở chợ chạm với thực tế, là chỗ tranh giành, dối trá, lường gạt, gây gỗ... Tất cả xấu ác này đập vô mắt, vô tâm, Di Già lấy đó làm đối tươïng hành Bồ tát đạo. Gặp người ương ngạnh, ông dùng lời êm dịu; ở chợ đầy tham sân phiền não thì ông luyện được tâm thuần từ nhất; đụng chạm với cuộc đời quá khắc nghiệt mà ông thành tựu được pháp ái ngữ. Chỉ có Di Già giải quyết được việc nhờ trí sáng suốt, lời nói êm tai mát lòng phát xuất từ tâm thương người, độ người, không phải lời nói ngọt trên đầu môi chót lưỡi. Luyện tánh này đến điểm cao nhất, chứng được Ðà la ni, ai trông thấy ông đều hoan hỷ, đều vâng theo lời chỉ dạy, dù người hung hăng mấy cũng trở nên hiền lành với ông.

 

Tu ở chùa gặp việc tốt, bình ổn là điều bình thường, nhưng đi vào chợ thì hoàn toàn khác hẳn. Di Già ở chợ buôn bán, không phải để kiếm ăn nhưng vì đạo là việc chính yếu của Bồ tát. Nghĩa là đối với Bồ tát, chơn đế và tục đế đều dung thông. Ở tục đế thì đời muôn mặt, nhưng người hành đạo phải hoàn toàn thanh thản, không vươùng bận gì. Trên tinh thần ấy, đối với người tu tiểu thừa, Phật dạy người tu không được liên hệ đến chính trị, buôn bán. Nhưng với người theo Ðại thừa, hành Bồ tát đạo, Phật cho phép làm tất cả, nhưng phải giữ được tâm hồn giải thoát.

 

Tiếp xúc cuộc đời, chúng ta biết tất cả mánh khoé của đời, không ai lừa được. Nhờ giai đoạn trước đã học, tu có trí tuệ, chúng ta thấy được cạm bẫy và dạy cho người tránh khỏi. Ðó là mẫu Di Già mà kinh Hoa Nghiêm đưa ra cho những ai muốn dấn thân vào đời hành đạo.

 

Di Già thấy Thiện Tài đến vội vàng đảnh lễ Thiện Tài 3 lạy và mang những kinh nghiệm sở đắc nói cho Thiện Tài. Ðiều này cho thấy khi chúng ta tu hạnh Thanh Văn, tự rèn luyện thành người cao cả, trí tuệ rộng lớn, không nhiễm trước. Sau đó, bước vào đời chẳng những không bị hại mà còn gặp người đối xử tốt hơn. Di Già lấy hải ngạn chiên đàn dâng cúng Thiện Tài, cũng có nghĩa là nhập được pháp giới, tất cả đều biến thành Phật quốc.

 

5- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Trưởng Giả Giải Thoát

 

Di Già dạy Thiện Tài nên học thêm nhiều lãnh vực sống khác, như ở phương Nam có tụ lạc Trúc Lâm, nơi đó Trưởng giả Giải Thoát sinh sống. Oâng có một sự nghiệp rất lớn, giàu có nhưng không hề quan tâm đến mà tài sản vẫn không bị mất mát.

 

Chúng ta thường thấy có 3 hạng người giàu có ở thế gian. Hạng thứ nhất do lừa đảo mà giàu, thì ngày trước sống sang trọng như ông hoàng, ngày sau vô nhà đá. Trong thoáng chốc, sự nghiệp tan như mây khói. Phật tử không nên làm giàu theo kiểu ấy. Việc tạo của cải, phước báo theo Phật đòi hỏi chúng ta phải có đức tánh chân thật, mới có thể tiến xa lâu dài được. Người xưa thường nói chỉ có thể lừa được một người, không lừa được tất cả, lừa được một lần, nhưng không lừa được suốt đời. Tôi có một người bạn giỏi, khôn, nhưng không lừa được ai nữa vì tướng lừa đảo đã hiện rõ. Hạng thứ hai giàu có là do sức lao động tay chân và trí óc của họ. Tuy nhiên, ráng sức tạo được sự nghiệp thì mệt hết hơi, mắt mờ, tóc rụng. Nhìn thấy cách làm giàu theo kiểu suốt đời làm tôi mọi cho vật chất, chúng ta cũng khiếp sợ. Kinh Dược sư nhắc những người đã chết, bỏn xẻn lo giữ của cải, phải sám hối những lỗi lầm ấy để nhẹ nhàng đi đầu thai.

 

Loại người kiểu mẫu giàu có mà Phật đưa ra cho các Bồ tát là trưởng giả Giải Thoát. Theo Phật, tu được phước, tạo được đức thì phước đức đó quyết định cuộc sống nghèo giàu của chúng ta. Và chỉ có phước đức mới gắn liền với linh hoàn chúng ta, chúng ta đi đến đâu thì phước đức đi theo đó.

 

Ðức Phật chia ra 5 loại phước mà chúng ta nên tạo. Phước thứ nhất, sống trên cuộc đời không gì tốt hơn là tâm được an vui. Các Tỳ kheo không có tiền của nhưng là người hạnh phúc nhất vì tâm giải thoát an vui, chẳng khởi tham muốn gì.

 

Phước thứ nhất, tâm chúng ta luôn thanh thản, không phải tính lo gì. Tuy nhiên, người không biết lo, không biết tính, chẳng có sự nghiệp gì, đó không phaûi là mẫu trưởng giả của Phật dạy cho Bồ tát. Trưởng giả theo Phật, tâm không lo, nhưng nắm trong tay cả một cơ nghiệp lớn lao, tốt đẹp.

 

Từ khởi điểm phước báo là tâm thanh thản, có được phước thứ hai là thân khoẻ mạnh. Tâm thanh thản và thân khoẻ là nội tài hay hạt nhân đưa ta đến chân hạnh phúc Niết bàn.

 

Ðược hai phước này, chúng ta vào đời sẽ có bạn tốt. Tôi thấy rõ điều này, người khó tánh thì ít ai dám kết bạn. Người hiền lành, rộng lượng mới có nhiều bạn tốt, làm được nhiều việc. Hoặc tuy nghèo nhưng có được bạn tốt cũng làm được việc. Phước kế tiếp là có được của cải và nhận thức không sai lầm.

 

Trưởng giả Giải Thoát giàu có không phải do lừa dối, chụp giựt. Ông là người có phước, đầy đủ 5 điều : tâm an, thân khoẻ, bạn đối xử tốt, tiền của dùng không hết và quyết định đúng đắn. Từ đó, của cải tự tìm đến ông.

 

Nhưng nếu hết phước, 5 thứ này tự ra đi, ta thường nói hoạ lai thành ám. Hoạ đến thì trí không còn thông minh, quyết định sai lầm, thường được kinh diễn tả là hoa trên đầu chư thiên bị héo tàn. Vì quyết đoán sai, tài sản bị mất thì người cộng tác cũng sa vào nghèo đói, bất mãn chống đối, ta phải đối phó, sinh tâm buồn bực, đau khổ đến ngã bịnh và chết.

 

Cuộc đời tốt đẹp, đi lên cũng từ 5 phước trên và xuống dốc, mất đi cũng theo hướng đó. Chúng ta nhìn cuộc đời mình và người như vậy mà rút ra kinh nghiệm sống. Thiện Tài nhìn thấy cách sống của trưởng giả Giải Thoát làm giàu nhờ phước báo, mọi việc của trưởng giả đều có người lo liệu, làm thay tất cả. Oâng thật an nhàn, không phải làm gì mà vẫn thành công.

 

Dưới mắt của người thường thấy trưởng giả Giải Thoát không làm gì. Nhưng Thiện Tài nhờ Di Già khai ngộ thấy trưởng giả không làm bên ngoài, nhưng thật làm bên trong. Việc làm trong nội tâm mới quan trọng hơn. Thiện Tài thấy trưởng giả Giải Thoát dưới 3 dạng : trí tuệ, phước đức và lòng tốt. Ông làm việc bằng 3 nội tài ấy, không giống người đời, mới là Bồ tát. Ðiều này gợi cho chúng ta nên nhìn người qua phước đức, trí tuệ, tấm lòng của họ, nếu mất những thứ này sẽ mất tất cả.

 

Phước nhiều đời mà ta đã khổ công tạo nên, đời này ta mới có đủ 5 phước thì phải gìn giữ. Giữ phước dưới dạng tu hành. Kinh nói rằng trong nội tâm, Trưởng giả Giải Thoát thường suy nghĩ về thế giới Phật. Ông nuôi phước đức, trí tuệ bằng cách nay thấy thế giới Phật, mai nghe Phật thuyết pháp, ngày nọ thấy Ðức Phật khác.

 

Có thể hiểu rằng trưởng giả tu hành, đọc tụng kinh điển, hình dung được thế giới Phật, nhận chân được chân lý Phật dạy thì trí tuệ sinh, bắt đầu có cái nhìn gần giống Phật. Trí sinh nên nhận thức cuộc đời không còn lỗi lầm sai trái, làm sao sự nghiệp sụp đổ được. Nhờ tiếp cận chư Phật, luôn nghe pháp Phật nên hiểu biết tăng; trở lại cuộc đời thì ông là Phật, không ai hơn được ông. Từ đó, trưởng giả Giải Thoát không phải đối phó, nhưng không ai dám tranh chấp với ông. Vì bằng trí tuệ nhìn thấy căn tánh của người, chỉ một khởi niệm thay đổi trong lòng họ là ông đã nhận ra và ngăn chận được hành động xấu. Học Phật, nghe pháp để nhìn cuộc đời thấy chính xác, càng chính xác càng quý, giúp chúng ta bảo vệ được tất cả.

 

Giải Thoát trưởng giả cho Thiện Tài biết sở dĩ người thấy ông không làm vì những chuyện không đáng làm, ông chẳng làm. Việc đáng làm là tiếp cận chư Phật mười phương để học trí tuệ Phật và dùng trí tuệ đó lãnh đạo việc thế gian thì ông đã hoàn thành. Lãnh đạo theo Phật khác với thế gian; tuy sống nhàn hạ, nhưng hành động đạt được kết quả chính xác, không ai có thể che dấu, lường gạt được là mẫu hành đạo của trưởng giả Giải Thoát.

 

Trưởng giả nhờ Phật hộ niệm, quyết định sáng suốt, thành công mọi mặt mà vẫn coi như không, xem là huyễn hoá, không để tâm tham chấp sự vật, người đời tưởng ông không làm. Trên bước đường tu, nhìn gương trưởng giả, chúng ta tu sao để được Phật hộ niệm, mới có được quyết đoán đúng đắn, dần dần thành công, tạo thêm những phước báo khác. Phước đức có thì sinh ở đâu, của cải tự tìm đến với ta.

 

Hình ảnh Giải Thoát trưởng giả là mẫu người lãnh đạo ung dung tự tại theo kinh Hoa Nghiêm ngầm chỉ cho nhân vật sống thật là ông Cấp Cô Ðộc, một vị trưởng giả nổi tiếng hộ đạo thời Phật tại thế. Bề ngoài thấy Cấp Cô Ðộc không quan tâm đeán công việc, chỉ dành thì giờ nghe Phật thuyết pháp, dốc cả tài sản để cúng dường mà phước báo vẫn tăng trưởng, của cải không bị cạn kiệt. Giải Thoát trưởng giả không làm giống như Cấp Cô Ðộc nhưng kết quả hành sử thì giống nhau.

 

Thật vậy, Giải Thoát trưởng giả sống trong thiền định, không để ý đến bên ngoài, nhưng ông thấy được thế giới Phật mười phương, thấy tâm niệm của người làm việc cho ông, không ai qua mắt ông được. Ông không tiếp xúc, ràng buộc người, tâm thanh tịnh của ông tác động cho người tự phát tâm đến làm. Ông chỉ ở trong thiền thất, không quản lý, cũng không có người quản lý dùm, vậy mà công việc vẫn thành tựu tốt đẹp.

 

Người Nhật chịu ảnh hưởng kinh Hoa Nghiêm, các xí nghiệp thường áp dụng cách sinh hoạt như vậy. Họ đúc tượng Phật bằng đồng lớn nhất thế giới cũng mang tinh thần này. Nghĩa là người lãnh đạo ung dung, nhưng có lực chi phối vô hình. Bên ngoài không tiếp xúc mà thực sự tâm yên tĩnh của họ đến với tất cả người quen biết. Ðó là lãnh đạo ở dạng tinh thần, tâm rất linh hoạt, đồng một lúc chi phối được tất cả người liên hệ, trong khi hành sử theo vọng động thì chỉ chi phối được một người, không thể ảnh hưởng hai người đồng một lúc. Trong thiền định, một niệm tâm có sức linh hoạt truyền đến tất cả người, như Ðức Phật nói trong yên lặng với vô số người, chẳng những trong hiện tại mà cả quá khứ và trong tương lai. Chính điều kỳ diệu của vô tác diệu lực là pháp Phật muốn dạy Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm.

 

Thiện Tài đồng tử thấy được đời sống tâm linh của trưởng giả Giải Thoát, vì đồng tử cũng có đời sống tâm linh như vậy và cũng nhờ Thiện Tài học đạo với các vị chân tu, qua kinh nghiệm của Di Già dạy nhìn về chiều sâu của linh giác. Nhờ vậy, Thiện Tài và trưởng giả Giải Thoát hiểu nhau qua tâm linh. Trưởng giả không nói gì, nhưng Thiện Tài nhận được tiếng nói truyền thông qua tâm, cho biết trưởng giả đang tham quan học đạo với mười phương Phật và đem về áp dụng cho người liên hệ. Ðó là cách lãnh đạo theo tinh thaàn Ðại thừa, không tổ chức mà thật là tổ chức tốt, vì việc đâu vào đó một cách nhẹ nhàng, không ép buộc hay mua chuộc người.

 

Thiện Tài học được pháp lãnh đạo của Giải Thoát trưởng giả trong Thiền định xong, ông khuyên Thiện Tài nên đến cầu học với Hải Tràng Tỳ kheo, vì Thiện Tài thông minh có thể tiến xa hơn. Ðiều này rất quan trọng đối với Ðại thừa Phật giáo, dạy người để giúp họ đi lên, không phải để bắt họ lệ thuộc ta. Học Phật, cần nhớ tinh thần ấy. Ðừng nghĩ chúng ta giúp người thì ta và họ gắn bó nhau, không được tách rời. Không dạy người để nô lệ hoá họ, bắt họ kế nghiệp ta. Phật dạy khác, giúp được người theo yêu cầu của họ rôài, chúng ta không bận tâm nữa. Họ tiếp tục con đường của họ, việc của họ, đừng bắt buộc người theo ta.

 

Thật vậy, các vị Thầy của Thiện Tài từ bước khởi đầu là Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cho đến Hải Vân, Ðức Vân, Thiện Trụ, Di Già, Giải Thoát trưởng giả và các vị kế tiếp sau nữa, không có người nào muốn giữ chân Thiện Tài và đều bảo Thiện Tài tiếp tục con đường riêng, đừng làm việc của họ.

 

6-Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Hải Tràng Tỳ Kheo

 

Sau khi thọ học với trưởng giả Giải Thoát, Thiện Tài nghe lời chỉ dạy của trưởng giả tiếp tục đến cầu đạo với Hải Tràng Tỳ kheo tiêu biểu cho mẫu Tỳ kheo Bồ tát vào đời độ sinh, giải thoát ngay trong trần thế.Thiện Tài đến đúng lúc Hải Tràng đang nhập thiền định. Thiện Tài kiên trì đứng chờ từ một ngày đến 7 ngày, chờ ông xả định để hỏi đạo. Nhưng Thiện Tài càng chờ thì ông càng nhập Thiền lâu hơn. Thiện Tài quan sát, theo dõi, chịu đựng đến 6 tháng vụt bừng ngộ.6 tháng thử thách mà Thiện Tài cố công mài dũa là phương cách để Hải Tràng luyện tập cho Thiện Tài tu thiền định, khác với tu Thiền theo hình thức, chỉ dạy ngồi suông, Thiền Ðại thừa nhắm vào việc quan trọng là tiếp tâm. Hải Tràng nhập thiền toả ra lực thu hút Thiện Tài chú mục vào, nhiếp tâm theo dõi đến độ tâm vụt bừng sáng.

 

Cách truyền đăng tiếp tâm này cũng được Ðạt Ma Tổ sư thể hiện qua 9 năm ngồi xay mặt vô vách, tạo thành sức thu hút Huệ Khả cao đến mức ông đứng ngoài trời băng giá mà không biết lạnh, tuyết ngập đến đầu gối mà không hay biết.

 

Với cách giáo dưỡng bằng tâm, không dùng lời nói, tác động cho Thiện Tài sáng tâm. Và đắc đạo rồi, Thiện Tài thấy được cái vô hình, không chỉ đơn giản thấy Hải Tràng ngồi như cũi mục. Nhưng từ bên ngoài tiến sâu vô thế giới nội tâm, thấy được chân linh của Hải Tràng và học với chân linh, mới là người thật tâm cầu đạo.

 

Nhìn bằng mắt, Thiện Tài thấy Tỳ kheo Hải Tràng không làm gì; tuy nhiên, nhìn bằng tâm thấy vị Tỳ kheo này học được với mười phương Phật. Vì vậy, Hải Tràng im lặng mà Thiện Tài thấy được đạo. Ðạo này là gì ?

 

Trước tiên, kinh ghi rằng Thiện Tài thấy dưới hai bàn chân của Hải Tràng có vô số trưởng giả và cư sĩ . Nếu chúng ta nghĩ từ chân của Hải Tràng có nhiều trưởng giả cư sĩ vọt lên, thì thật là mê tín. Theo tôi, điều này cần nhìn ở dạng vô hình, thấy được lực vô hình của Hải Tràng Tỳ kheo tác động đến vô số trưởng giả, cư sĩ khiến họ phát tâm làm tay chân, quyến thuộc của ông. Ðó là cách nhìn để chúng ta đi sâu vào đạo. Trên bước đường tu, thâm nhập yếu nghĩa Hoa Nghiêm, chúng ta mới hiểu tại sao có những vị Hoà thượng hiền lành, không làm gì mà Phật tử cung kính, tôn trọng, sẵn lòng tận tụy với họ.

 

Trưởng giả là người giàu có, hằng tâm hằng sản đóng góp tích cực cho đạo; cư sĩ là người sống trong sạch, làm tất cả việc thế gian, nhưng tâm vẫn chí đạo. Hai thành phần này hết lòng gánh vác Phật sự thì việc khó cũng hoaøn thành. Thiện Tài đầu tiên bắt gặp được chân linh của Tỳ kheo Hải Tràng, nghĩa là nhận ra được người thân tín của Hải Tràng toàn là cư sĩ, trưởng giả, nên ông ngồi yên, mọi việc có đệ tử giỏi, giàu có, đạo đức đảm trách toàn bộ. Thực tế, chúng ta cũng thấy vị Tỳ kheo nào được thành phần tốt, giỏi theo thì họ thành công nhiều việc. Trái lại, thành phần xấu, ăn hại theo thì một lúc chùa sập, thầy cũng thành thân tàn ma dại.

 

Sau đó, Thiện Tài thấy từ đầu gối của Hải Tràng xuất hiện trăm ngàn ức Sát đế lợi, Bà la môn. Bà la môn thuộc giới trí thức vì tự cho rằng họ sinh trên đầu Phạm Thiên. Sát đế lợi được xếp vào hàng quý tộc, từ trên trời xuống. Chúng ta không nên hiểu là từ đầu gối Hải Tràng có trí thức và quý tộc chui ra.

 

Ý này nhằm diễn tả người trí thức và quý tộc kính phục hiểu biết của Hải Tràng đến độ quỳ gối chắp tay, cúi đầu, công nhận ông là bậc thầy. Chúng ta thấy trong sinh hoạt đời thường, việc ảnh hưởng cho giới trí thức và quý tộc kính trọng là điều không đơn giản vì hai giới này rất kiêu ngạo. Hải Tràng không nói gì mà họ kính nể, đó là mẫu ngươøi tiêu biểu làm nên đạo nghiệp. Vì vậy, tôi thấy rõ nếu người đời còn khinh thường người tu thì chúng ta khó hành đạo.

 

Khi được 4 giới : trưởng giả, cư sĩ, trí thức, quyền quý quy phục, tất nhiên dễ dàng làm được việc lơùn. Các Tổ sư lập giáo khai tông cũng vậy, đến nơi nào lập chùa đều được chính quyền địa phương kính trọng. Ðiển hình như ở Tổ đình Giác Lâm, Tổ Viên Quang về ở trên đồi, tu trong am tranh nhỏ, văn nhân, thi sĩ, giới trí thưùc kính phục, tìm đến thỉnh ông chỉ giáo, khiến cho Tổng trấn Trịnh Hoài Ðức cũng phải kính nể.

 

Ngoài ra, Thiện Tài nhìn thấy hai bên vai của Hải Tràng Tỳ kheo có vô số A tu la vương và Dược Xoa vương xuất hiện. Ðó là hai thế lực mạnh làm hiệp sĩ bảo hộ. Trên bước đường tu, chúng ta hiền, nhưng phải có người mạnh bảo vệ, thường được gọi là Hộ pháp long thiên. Trên vai có thần A tu la theo hộ vệ thì tà ma quỷ quái không thể tác hại được.

 

Thiện Tài nhìn thấy sức bảo hộ đối với Hải Tràng Tỳ kheo rất lớn. Ðó là thế lực vô hình của A tu la hỗ trợ và sức mạnh hữu hình của người trên cuộc đời bảo vệ. Nhờ đó, ông ngồi yên mà thế lực ác không dám quấy raày, chọc phá. Ðạo pháp cần người giỏi, mạnh, nhanh, xả thân gánh vác Phật sự được tiêu biểu bằng hình ảnh thần La sát, Dược Xoa ở trên hai vai Hải Tràng.

 

Trên mặt của Hải Tràng, Thiện Tài thấy vô số Trời Ðế Thích, Phaïm Thiên xuất hiện. Từ chân là cư sĩ, nay đổi thành Ðế Thích và từ Bà la môn đổi thành Phạm Thiên. Theo Ấn Ðộ giáo, Phạm Thiên là cha đẻ của muôn loài, Ðế Thích là Thượng đế. Cả hai cùng cung kính hướng về Hải Tràng Tỳ kheo.

 

Từ hai mắt của Hải Tràng xuất hiện Nhựt luân vương chiếu khắp mười phương thế giới, tiêu biểu cho ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi. Nói cách khác, tầm nhìn của Tỳ kheo thấu suốt mọi việc của chúng sinh. Trên đỉnh đầu của Hải Tràng xuất hiện vô số Bồ Tát, Như Lai.

 

Nói chung, Hải Tràng thiền định, không nói, không làm, nhưng mọi việc đều thành tựu tốt đẹp vì đã được ông thực hiện trong thiền định, tạo thành tác động trong yên lặng, mới là điều quan trọng. Trên tinh thần ấy, kinh diễn tả từ đầu xuống chân của Thiện Tài có đủ thành phần tốt xuất hiện, nhằm nói lên ý nghĩa từ chân là địa ngục A Tỳ cho đến đầu là trí tuệ Như Lai tuyệt vời, hay từ chỗ thấp nhất trần gian đến cao nhất trong thiền định, chỗ nào cũng có lực của Hải Tràng Tỳ kheo chi phối đến. Dưới mắt người ngoài chỉ thấy Hải Tràng ngồi yên và Thiện Tài đứng trơ ra, nhưng thực sự đối với Thiện Tài thì trong yên lặng thấy được Hải Tràng đang chi phối cả vũ trụ pháp giới. Ðó là ý mà kinh Hoa Nghiêm ngầm chỉ. Học đạo phải học cho được thực chất của đạo ở dạng này và tầm sư cần tìm cho được vị đắc pháp như vậy.

 

Thiện Tài không học ngữ ngôn văn tự, nhưng đã học được tác động sâu xa của thiền định với Trưởng giả Giải Thoát và ứng dụng pháp này để học tuệ giác với Hải Tràng Tỳ kheo. Truyền pháp môn Bát Nhã ba la mật cho Thiện Tài xong, Hải Tràng khuyên đồng tử nên tiếp tục đi về phương Nam để học Bồ tát đạo với Ưu bà di Hưu Xã ở khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm của nước Hải Triều.

 

7- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Hưu Xã Ưu Bà Di

 

Trên bước đường cầu đạo, ngoài các vị Tỳ kheo phạm hạnh, sáng suốt như Ðức Vân, Hải Vân, Thiện Trụ, Hải Tràng, Thiện Tài còn tu học với hàng cư sĩ như Di Già và Trưởng giả Giải Thoát là mẫu người buôn bán, giàu có, nhưng ung dung tự tại, sống đức hạnh, mang lợi ích cho người. Những nhân vật kiểu mẫu trên mà kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhằm nói lên tinh thần Phật giáo chẳng những không tiêu cực, yếm thế mà trái lại, luôn mang lợi lạc cho đời.

 

Tiến xa hơn nữa để vượt khỏi cố chấp về giới tính, kinh đề ra nhân vật kế tiếp được Thiện Tài tìm đến học là Hưu Xã Ưu bà di. Phải nói đây là một thay đổi lớn được Ðức Phật đề xướng.

 

Thật vậy, xã hội Ấn Ðộ thời baáy giờ trọng nam khinh nữ, không bao giờ đàn ông lại lóng tai nghe đàn bà dạy. Nhiệm vụ của người phụ nữ chỉ là cái máy đẻ. Nhưng Ðức Phật đã hướng mọi người về một tầm nhìn chính xác hơn, theo đó, có người đàn bà không nên gần, nhưng cũng có người đáng kính trọng, không thể nói chung đàn bà là xấu. Nếu theo Hồi giáo hay Ấn Ðộ giáo coi thường đàn bà, thì Tây phương kính trọng hoàn toàn đàn bà, cả hai đều không đúng.

 

Ðể nói lên điều quan trọng ấy, phải mượn Hải Tràng Tỳ kheo là một vị toàn năng, có uy tín, có sức thuyết phục mới có thể khuyên Thiện Tài tìm học với Hưu Xã Ưu bà di, cho đến học với Tiên nhân Tỳ Mục Cù Sa và Thắng Nhiệt Bà la môn.

 

Ðó là hình ảnh các vị thầy hướng dẫn, hoàn toàn trái với tinh thần Phật giáo nguyên thủy, nhưng kinh Hoa Nghiêm lại coi như tiêu biểu. Ðiều này không có nghĩa khẳng định rằng Bà la môn, ngoại đạo hay tiên nhân hoàn toàn tốt. Nhưng phải hiểu con người là quyết định. Ai giỏi, tốt, chúng ta học. Ðừng đóng khuôn, mang thành kiến, tự ái, không học sẽ dốt suốt đời.

 

Dẹp bỏ ý thức ngoại đạo, điều nào hay, tốt, chúng ta học. Ðó là tinh thần caàu tiến của kinh Hoa Nghiêm đưa ra. Tâm đắc tư tưởng này, trong đời tôi, ngoài bạn tu đồng màu áo, tôi còn có bạn tu khác tôn giáo và học được những nét thiện mỹ của họ.

 

Thiện Tài tin, học, tôn thờ thiện tri thức không mệt mỏi, tin Hải Tràng không bao giờ dối gạt, vì đạo Bồ tát thì người thường không thể hiểu được, quan trọng là tư cách của người hướng dẫn. Hiểu biết, tu hành và quyến thuộc của Tỳ kheo Hải Tràng có những điều ưu vieät, nên Thiện Tài tin tưởng hoàn toàn ở chỉ giáo của Hải Tràng, xóa tan tâm do dự để đến học đạo với nữ cư sĩ Hưu Xã, học những gì chưa biết, chưa đắc.

 

Học được với Hải Tràng Tỳ kheo pháp tam muội giải thoát thì ông laïi chỉ cho Thiện Tài đi tìm học pháp khác cao hơn. Học đạo theo nhị nguyên luận, phân biệt tốt xấu, thiện ác, không thể vào tri kiến Như Lai. Ðạo Bồ tát không phải nhị nguyên, nhưng dùng phương tiện để dần dần đưa đến đồng nhất thể.

 

Bước đầu Thiện Tài gặp Tỳ kheo Ðức Vân tu giải thoát, không dính líu cuộc đời. Nay gặp Hải Tràng là người tu xuất thế nhưng ảnh hưởng quan trọng đến cuộc đời, làm gạch nối giữa chúng sinh và Phật. Từ trên đỉnh cao của mẫu Tỳ kheo Bồ tát giới là Hải Tràng, hạ xuống thấp nhất, học với nữ cư sĩ Hưu Xã.

 

Trong kinh Pháp Hoa, Xá Lợi Phất nói người nữ có 5 điều chướng ngại, không thể thành Phật. Ðức Phật xoá bỏ hoàn toàn cố chấp ấy bằng cách đưa ra hình ảnh Long Nữ thành Phật tức khắc, không cần qua quá trình tu học như Xá Lợi Phất.

 

Ðến đây thấy rõ mối liên hệ quan trọng giữa Pháp Hoa và Hoa Nghiêm. Kinh Pháp Hoa nhờ kinh Hoa Nghiêm giải thích laøm sáng hơn. Hưu Xã cho biết ai nhìn thấy bà thì dù đau khổ thế nào, phiền não cũng tan biến và trở thành quyến thuộc của bà, từ đó đến thành Phật, họ không bao giờ thối thất tâm bồ đề.

 

Thiện Tài hỏi Hưu Xã làm gì mà có được công năng lớn mạnh và hiểu biết vượt hơn Hải Tràng như vậy. Hưu Xã cho biết rằng thấy được lực của bà là điều không đơn giản. Nhưng Thiện Tài đã thấy được lực của Hưu Xã là đã phát tâm bồ đề rồi.

 

Theo Hưu Xã, muốn thấy được bà thì phải phát tâm Vô thượng bồ đề và phải có Phật gia bị. Nhưng muốn phát tâm bồ đề cần có trực tâm, tức tâm tánh ngay thẳng, diệu hoà. Còn nhìn thấy nhị nguyên đối đãi nam nữ, già trẻ, giàu nghèo, giỏi dở thì không thể nào thấy Hưu Xã.

 

Kế tiếp phải hướng toàn tâm cầu đạo vô thượng, không tiếc thân mạng và mang hạnh nguyện độ tận chúng sinh. Có như vậy, ta và Hưu Xã đồng hạnh, đồng nguyện, mới thấy nhau và trở thành pháp lữ của Hưu Xã, thấy được 84000 Bồ tát đồng hạnh với Ngài. Ta là quyến thuộc của Bồ tát và Bồ tát thành quyến thuộc với ta, nghĩa là hỗ tương bất nhị. Một người một hạnh, nhơn lên thành 84000 hạnh lành, nên tất cả việc làm thế gian thực sự do bạn lữ của Hưu Xã làm. Và ngược lại, trong thế giới quan khác, tưởng rằng 84000 Bồ tát làm, nhưng sự thực là Hưu Xã làm.

 

Hưu Xã nói rằng trong kiếp quá khứ, từ thời Phật Nhiên Ðăng, Ngài đã phát tâm bồ đề, xuất gia làm Tỳ kheo, làm tất cả việc công đức trong pháp giới. Ý này được Phổ Hiền Bồ tát nhắc trong kinh Pháp Hoa rằng trồng căn lành với các Ðức Phật và được Phật hộ niệm.

 

Kinh Hoa Nghiêm thì dạy rằng phải phát bồ đề tâm và được Phật hộ niệm. Vì vậy, thấy việc làm của Hưu Xã là hiểu được ý nghĩa Long Nữ thành Phật, không phải tự nhiên thành, mà đã trải qua quá trình thân cận, cúng dường, thọ trì vô lượng pháp Phật. Trên nền tảng xứng tánh thành Phật như vậy, Hưu Xã vượt hơn Hải Tràng Tỳ kheo.

 

Hưu Xã dạy rằng từ khi phát tâm bồ đề, trải qua vô lượng kiếp quá khứ, Ngài đã thờ kính, cúng dường, tịnh tu phạm hạnh, thọ trì pháp với 36 ức hằng ha sa Phật. Nghĩa là Ngài đã thành tựu viên mãn hạnh Bồ tát, đạt quả vị Vô thượng đẳng giác rồi. Vì thế, tuy bên ngoài mang thân người nữø bên trong đã thành tựu Phật thân. Tinh thần Hoa Nghiêm dạy rằng không có hiện hữu nào của chúng sinh không phải là Phật.

 

Hưu Xã còn cho biết trong quá trình tu vô lượng đạo pháp với 36 ức hằng hà sa Phật, chư Phật phương Ðông thường đến trụ xứ của Ngài mà thuyết pháp và chư Phật chín phương khác cũng vậy. Không lúc nào Ngài không thấy Phật, không nghe pháp.

 

Nhân hạnh Bồ tát mà Hưu Xã gieo trồng với 36 ức hằng hà sa Phật trong vô lượng kiếp và quả vị Phật mà Long Nữ thành tựu trong chớp mắt, tuy hai mà một, tuy một với nhiều không khác, thể hiện lý viên dung vô ngại của pháp giới Hoa Nghiêm.

 

Từ thế giới giải thoát của Hải Tràng đi ngược về cuộc đời để quan sát, thấy được những cái trước ta cho là tầm thường, nhưng nay biết đạo, thấy quý. Ví như chưa có tri thức, không thể biết của báu phục tàng trong đất. Chưa ngộ đạo, chưa vào pháp giới thì tất cả vật đối với ta đều chướng ngại. Tuy nhiên, ngộ đạo rồi, cũng cùng một vật đó mà ta thấy đổi khác. Và thấy đổi khác được là biết chính ta đã thay đổi. Thật vậy, ngày trước còn là phàm phu, thì người nữ nguy hiểm. Nhưng ngộ đạo thì Hưu Xã dẫn ta thâm nhập pháp giới. Hưu Xã trở thaønh thiện tri thức, không phải là người nữ tầm thường của trần thế.

 

Thể hiện tinh thần cầu học, Thiện Tài tìm đến Hưu Xã Ưu bà di. Nơi Ngài ở là khu vườn tên Phổ Trang Nghiêm. Ðúng với tên gọi, vườn ấy trang nghiêm, nhẹ nhàng, thanh thản, tươi mát.

 

Trên đường hành đạo, đến nơi nào tôi thường lưu tâm đến phong cảnh. Nếu cảnh sắc hữu tình, làm chúng ta thấy vui, thanh thoát thì nên lui tới. Ở chùa có bậc chân tu hiền lành thì cảnh cũng deã thương theo. Cảnh tùy thuộc người, nhìn cảnh của một quốc gia, một thành phố, một ngôi nhà, chúng ta biết được người chủ như thế nào. Ðiều này dễ hiểu. Ví dụ đến một quốc gia mà rác xả đầy đường là biết ngay rằng nươùc đó lạc hậu. Hoặc đến một quốc gia như Pháp có nhiều hoa viên, cho đến cột đèn, bao lơn các nhà lầu, chỗ nào cũng nở hoa hoặc đến thành phố Nhật Bản rất sạch sẽ, ai mà không cảm tình.

 

Nhìn thấy cảnh vườn nhà của Hưu Xã đẹp đẽ, thanh tịnh như vậy thì đoán được Ngài là người như thế nào. Cảnh đẹp có được là nhờ tâm hồn người chủ sống nơi đó chi phối và cảnh đẹp cũng tác động lại cho khách tham quan. Học đạo, chúng ta nên tìm đến những nơi như vậy để lòng lắng yên.

 

Tâm hồn Hưu Xã Ưu bà di cao quý, thanh thản, không rắc rối như các bà khác ở thế gian, nên Thiện Tài đến được. Ðàn bà bình thường thì tham lam, ghét ganh, nhưng Hưu Xã, nghĩa là bỏ hết. Tâm bà không vướng mắc buồn phiền, âm mưu, thủ đoạn, mới có tên như vậy và có đủ tư cách làm Ưu bà di.

 

Ưu bà di, tức nữ cận sự Tam Bảo, tuy chưa xuất gia, nhưng gần kề với đức tánh tốt của Tam Bảo là sáng suốt, bình đaúng, hoà hợp. Khi người đàn bà không sáng suốt thì hay nghĩ bậy, tin bậy, nói bậy, gần họ chắc chắn bị khổ lây. Trái lại, họ đã gần với Tam Bảo, tức gần với Phật nên sáng suốt, gần pháp nên nhìn đúng sự thật và gần Tăng nên hoà hợp. Ðó là mẫu người tốt, mới tạo được cảnh đẹp thanh tịnh ở nhân gian, có thể thân cận.

 

Thiện Tài thấy cảnh trang nghiêm và người sống với nhau đầy an vui, thể hiện hình ảnh Phật vào nhân gian. Cảnh nhân gian hạnh phúc, giải thoát thì biến thành chùa, nhưng chùa mà tranh chấp thì đó là địa ngục của trần gian.

 

Ðiều này khiến tôi nhớ đến Hoà thượng Trí Tịnh nhắc cho tôi nghe lời nói của cụ Mai Thọ Truyền rằng ở ngoài đời cụ thấy người ít nóng nẩy hơn các thầy ở chùa. Các thầy ngồi lần chuổi trông hiền lành vậy mà đụng chuyện dữ không ai bằng. Ðó là điều quan trọng chúng ta phải thấy.

 

Các sư nổi cơn giận hay liều mạng hơn người đời vì họ không bị ràng buộc bởi của cải, gia đình, nên xem nhẹ sống chết, dễ bực tức, nổi nóng. Tôi có kinh nghiệm về việc ấy. Ở chùa quanh năm nghe tiếng bảng báo hiệu giờ tụng kinh, giờ ăn, giờ ngủ, không ai chọc phá chuùng ta; nhưng ra ngoài, gặp việc không như ý, phiền não cuồn cuộn nổi dậy ngay.

 

Trong khi đó, người đời thường tiếp xúc với phiền não, họ trở thành quen hoặc chai lì, không phản ứng, hay vì có kinh nghiệm nên họ biết cách khắc phục. Còn người tu không kinh nghiệm, bước đến thì bị kẹt chân, đưa tay thì bị kẹt tay.

 

Theo Ðại thừa, chỉ cho chúng ta nhận rõ ở chùa hay ở ngoài đời đều có người hiền, người dữ, người tốt, người xấu. Biết rõ để không bị mắc lừa kẻ xấu và học được với người tốt.

 

Trên tinh thần ấy, bước chân vào đời hành đạo, Thiện Tài thấy được yên lành và tốt đẹp của Hưu Xã Ưu bà di thì học cái ấy. Hưu Xã dạy Thiện Tài tùy duyên làm đạo, không tham vọng. Người đời phải tính toán lo nghĩ để tồn tại, nhưng Hưu Xã lại bảo Thiện Tài bỏ cho việc tự nhiên.

 

Theo kinh nghiệm của Hưu Xã, việc xảy đến hay rời bỏ, chúng ta ghi nhận nó như vậy, không ham muốn, mong cầu. Hãy để cho sự vật tự nhiên, con người dễ thương nhờ tự nhiên, cảnh vật đẹp cũng nhờ tự nhiên.

 

Hưu Xã tức bỏ đi ý niệm gò ép, gò ép người, gò ép cảnh đều bất lợi. Vì tư tưởng gò ép, bị buộc lại sẽ nảy sinh tư tưởng bung ra, phản ứng lại. Như người mẹ có ý ép buộc con thì nó sinh phiền muộn và người mẹ cũng không vui được, mẹ con lại có vấn đề.

 

Hưu Xã có nếp sống cao quý và người xung quanh tự bắt chước, tự theo, không bảo, không ép buộc. Thiện Tài nhận thấy người đến với Hưu Xã được sống thoải mái, an lành, tạo thành một tập thể hoà hợp, thanh tịnh, thể hiện đúng nghĩa một tổ chức Phật giáo không tổ chức, không có kỹ luật ràng buộc maø mọi việc tự ổn. Tôi đã từng sống trong những tu viện mà mỗi người ý thức được việc của mình, tự vào khuôn khổ, không ai rầy, không ai thắc mắc, giận buồn.

 

Nhờ Hưu Xã không có ý thức khống chế người, không cố chấp, khó khăn, buồn phiền, người tự nguyện đến học. Tâm hồn Hưu Xã yên vui như vậy tạo thành cảnh sắc sống đẹp tự nhiên. Nhìn cảnh mà Thiện Tài cảm nhận được an vui đó.

 

Hưu Xã cho biết bà chỉ được một pháp duy nhất "Ly ưu an ổn tràng", nghĩa là không tham vọng khống chế người, chỉ thanh thản sống theo nhân duyên. Ai nhìn thấy bà thì không thối chuyển đạo Vô thượng bồ đề, phiền muộn không thể sinh khởi và an trụ giải thoát.

 

Bà khuyên Thiện Tài nên tiếp tục tham vấn vị tiên nhân tên Tỳ Mục Cù Sa. Giai đoạn trước, Thiện Tài học với Hưu Xã Ưu bà di, tức tín đồ cùng đạo và nay sang học với tiên nhân ngoại đạo.

 

8 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Tiên Nhơn Ty Ở Mục Cù Sa

 

Sau khi dạy cho Thiện Tài tu được pháp giải thoát này, Hưu Xã Ưu bà di chỉ Thiện Tài đi về phương Nam, đến tìm học Bồ tát hạnh với tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa.

 

Ðến đây khởi đầu cho giai đoạn đi vào ngoại đạo, tiếp cận với người có tư tưởng khác. Trước khi nhập đạo, tâm còn phân biệt giữa ta theo đạo này và người theo đạo khác, hiểu lầm ngoại đạo nên bị họ chống trái. Nay thâm nhập Hoa Nghiêm, có cái nhìn cởi mở, Thiện Tài được cung kính đón tiếp.

 

Tỳ Mục Cù Sa ca ngợi Thiện Tài đã phát tâm Vô thượng chánh giác, có chí lớn, vì Thiện Tài đến với tư cách đi tìm thiện tri thức, khao khát chân lý. Nhân cách tốt đẹp này đã tác động đến tiên nhơn, ông mới thương kính và trao truyền sở đắc bằng cách xoa đảnh và nắm tay Thiện Tài.

 

Ðồng tử được tiên nhơn Tỳ mục Cù Sa xoa đầu và nắm tay thì thấy hoàn toàn đổi khác, thấy các thế giới Phật hiện ra và nghe được pháp aâm chư Phật. Tác động này khiến cho Thiện Tài nhận ra tiên nhơn Tỳ Mục là người đắc đạo. Nếu chỉ nhìn bề ngoài theo mắt thường, không thấy được người đắc đạo. Nhưng dưới mắt Thiện Tài, thấy được Tỳ Mục tham quan lễ bái mười phương Phật, thấy Tỳ Mục đi mà không đi và hơn thế nữa ngồi yên tại chỗ mà có khả năng đưa Thiện Tài đi tham quan tất cả pháp giới trong chớp mắt.

 

Tỳ Mục nắm tay và xoa đầu tạo sự an lành và tri thức cho Thiện Tài ngay trong khoảnh khắc và buông tay ra thì cũng trả ngay Thiện Tài trở về thế giới bình thường.Thiện Tài vào đời tìm được thiện tri thức có đủ trong tất cả thành phần xã hội, không nghĩ thành phần này tốt, thành phần khác xấu. Thiện Tài nhận biết chân thực và kết hợp thành thế giới tốt, không bị óc bè phái làm sai lệch tri kiến, không phủ nhận việc tốt của người, không binh vực người cùng môn phái.

 

Thiện Tài vào rừng thấy tiên nhơn cùng đại chúng sống đơn giản, không nhà ở, họ mặc áo vỏ cây hay áo da nai. Ðó là quan sát theo bề ngoài thấy ngoại đạo như vậy. Nhưng nhìn vào chiều sâu cũng tìm thấy cái hay của họ, thấy được người nào cũng có quyến thuộc. Người xấu có quyến thuộc xấu, giỏi có quyến thuôäc giỏi. Quyến thuộc là nhân duyên của họ.

 

Dưới mắt tiểu thừa, người tu ở rừng, mặc áo lá cây, hình thù kỳ quái là ngoại đạo. Nhưng nhìn theo Ðại thừa như Thiện Tài, thấy tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa là Bồ tát hiện thân lại, khác với ngoại đạo thật sự. Vì ngoại đạo tu, luyện bùa chú để dẫn người vào đường tà; trong khi Bồ tát bằng lòng sống với ngoại đạo để dìu dắt họ lần ra khỏi đường mê.

 

Bồ tát với lòng đại bi, thương xót ngoại đạo, mới hiện thân vào sống với họ, thì phải sinh hoạt y hệt như họ, cũng mặc áo vỏ cây, cũng mang hình thù kỳ dị, ở núi rừng, để họ chấp nhận Bồ tát, dần dần chịu nghe theo. Bồ tát thấy rõ những người ngoại đạo tu chọn nếp sống khổ hạnh cũng là người tốt. Nếu không hướng dẫn, bỏ mặc họ cho người khác lợi dụng, sẽ dẫn họ đi vào đường ác. Tiên nhơn hay Bồ tát khởi tâm cưùu giúp, dạy dỗ họ từng bước hướng đến đời sống cao đẹp.

 

Ý thức này rất quan trọng mà chúng ta cần nhận chân theo tinh thần Ðại thừa. Nếu sống theo tiểu thừa, phải theo y khuôn hình thức ăn, mặc như thế nào mới được chaáp nhận là người tu. Ðối với Ðại thừa, theo tinh thần mở rộng, muốn hướng dẫn người, phải sống gần gũi và làm giống họ,ï gọi là đồng sự nhiếp, họ mới nghe và dần dần ta mới khai ngộ cho họ được. Ðiển hình như Long Thọ Bồ tát hiện thân tu theo ngoại đạo. Ngài rất thông thái, làm giáo chủ Bà la môn và trở về với Phật đạo, biên soạn nhiều bộ luận nổi tiếng, ngày nay vẫn còn giá trị.

 

Hưu Xã Ưu bà di nhận biết được tiên nhơn Tỳ Mục beân ngoài mặc áo tiên, bên trong ẩn hạnh Bồ tát, mới dạy Thiện Tài tìm đến học đạo. Và Thiện Tài cũng nhận ra vị tiên này tu Bồ tát đạo, dù bên ngoài bình thường là ngoại đạo.

 

Nội tâm tiên nhơn truyền thông với tâm Thiện Tài, Thiện Tài học được với ông pháp Bồ tát vô thắng tràng giải thoát, hay tự tại giải thoát trong mọi tình huống. Tuy sinh hoạt với ngoại đạo, nhưng Thiện Tài sử dụng được Phật đạo, nên tốt hơn ngoại đạo thật.

 

Theo tinh thần Ðại thừa, thể hiện lời Phật dạy rằng ở trong tầng lớp nào, chúng ta cũng phải tốt hơn người, giỏi hơn người. Tiên nhơn Cù Mục hiện thân sống với lớp người ngoại đạo, làm thầy họ, hướng dẫn họ cách tu tieân, nhưng cũng nhằm mục tiêu thuần hoá họ thành tốt cho đến thành Phật. Không giới hạn tu Phật mới thành Phật, ở đây tu tiên cũng thành Phật.

 

Tôi thấy các cao Tăng truyền bá đạo Phật thường sử dụng hình thức này. Vì người Việt Nam tin 5 bà, nên chùa cũng phương tiện đặt miểu thờ 5 bà để dân chúng có sẵn niềm tin ấy tìm đến lễ lạy, nhân đó Hoà thượng nói pháp hướng dẫn họ dần trở về chánh đạo.

 

Như vậy từ cốt lõi Phật đạo, mượn hình thức ngoại đạo để từng bước chuyển tâm họ theo Phật đạo, điều này cũng tốt. Nhưng, ngược lại, chúng ta đem ngoại đạo vào Phật đạo để mê tín hóa người, đưa người vào con đường sống với tà pháp là hoàn toàn sai, khoâng được phép làm.

 

Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa sống với ngoại đạo, nổi bật hơn họ về đạo đức và tri thức, dùng vốn quý giá ấy dạy dỗ người tu về với Phật đạo. Thiện Tài tìm Bồ tát hiện thân ngoại đạo để học, không phải theo ngoại đạo thật.

 

Tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa cho biết ông sống với ngoại đạo mà không đánh mất tâm Phật, đồng thời hiểu rõ ngoại đạo hơn để dẫn họ quy về Phật đạo. Việc làm của tiên nhơn chỉ có vậy, Thiện Tài nên tiếp tục học Bồ tát hạnh với Thắng Nhiệt Bà la môn ở tụ lạc Y Sa Na.

 

9- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Đạo Với Thăng Nhiệt Bà La Môn.

 

Thiện Tài học với tiên nhơn Tỳ Mục Cù Sa pháp tu chuyển được tâm của ngoại đạo về với Phật đạo, kế đó vị này chỉ Thiện Tài đến tìm học với ngoại đạo khác là Thắng Nhiệt Bà la môn, vì trong hàng Bà la môn cũng có Bồ tát thị hiện. Vì vậy chỉ tìm học với Thắng Nhiệt, không phải học với tất cả Bà la môn.

 

Thiện Tài thấy Thắng Nhiệt đang tu khổ hạnh, bốn phía đốt lửa, ngọn cao như núi lớn, ở giữa có núi đao cao nhọn và thấy Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào lửa. Ðiều này khiến ta hình dung ra mỗi người có pháp tu riêng mang ý nghĩa của nó, nếu ta chỉ bắt chước làm theo, không được chơn truyền thì thân tâm sẽ bị hại hơn là thành công.

 

Thắng Nhiệt bảo Thiện Tài leo lên núi đao, nhảy vào lửa để Bồ tát hạnh thanh tịnh. Thiện Tài chùn bước vì nghĩ rằng đức Phật từng dạy thân người khó được, phải chăng đây là ma giả Bồ tát để phá hoại sự tu hành của ông.

 

Trong lúc đang phân vân, suy nghĩ thì Thiện Tài nghe tiếng của Trời Phạm Thiên bảo rằng : "Thiện nam tử, chớ nghĩ như vậy. Ðức Thánh đây đã được Kim cang diệm tam muội quang minh, phát đại tinh tấn độ chúng sinh, tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển tham ái, muốn thiêu tất cả củi phiền não... Ta là Phạm Thiên, tự cho mình là đấng làm ra tất cả, là tối thắng trong thế gian. Khi thấy Bà la môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, lòng ta không còn ưa thích cung điện của mình, diệt trừ tất cả kiêu mạn, phát bồ đề tâm, thường thấy chư Phật, hằng nghe diệu pháp..."

 

Thiện Tài cũng nghe Tự Tại Thiên vương, Hoá Lạc Thiên vương, Ðâu Suất Thiên vương, Ðao Lợi Thiên vương, Long vương, Dạ Xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la ... và quyến thuộc của họ đều nói rằng họ thấy năm lửa đốt thân thì rời bỏ dục lạc, phát tâm cầu Vô thượng bồ đề.

 

Ðiều này có nghĩa là nhờ căn lành đời trước nên khi gặp việc khó, ta thường nghe được tiếng nhắc nhở từ trong lòng, sách tấn ta tinh tấn hơn. Mỗi lần được sách tấn, chúng ta lại có thay đổi tốt đẹp thêm. Nếu không có sự đánh thức của tự tâm, ta dễ bỏ cuộc lúc gặp chướng nạn.

 

Ý này cũng gợi chúng ta liên tưởng đến việc Thái Tử Tất Ðạt Ða định xuất gia thì cảnh vợ đẹp con ngoan hiện ra, nhưng Ngài cũng nghe được Trời Ðế Thích trổi nhạc nhắc nhở rằng nay tuổi đã lớn, sao không sớm quyết định đi tìm đường giải thoát.

 

Trên bước đường tu, có lúc ta mệt mỏi, không muốn tiếp tục Thánh đạo, nhưng may mắn gặp bạn tốt khuyên nhủ, ta thay đổi được ý định xấu ấy. Nếu không có căn lành, đang chán nản mà gặp bạn ác thúc đẩy thì ta dễ bỏ đạo.

 

Sự thức tĩnh bên trong và sự trợ lực bên ngoài được kinh diễn tả bằng tiếng nói trong hư không của Trời Phạm Thiên, Ðế Thích, Ðao lợi, Long vương, Dạ Xoa, A Tu La... Có sự tĩnh giác của tự thân và được trợ lực của thiện tri thức, chúng ta mới vững niềm tin, tiến tu được.

 

Thiện Tài liền xin sám hối thiện tri thức và trèo ngay lên núi đao, nhảy vào hầm lửa thì liền đắc đạo, chứng được Bồ tát thiện trụ tam muội và Bồ tát tịch tịnh lạc thần thông tam muội.

 

Ở đây, không phải núi đao, hầm lửa thật mà các phù thủy luyện tập sử dụng. Leo lên núi đao và nhảy vào hầm lửa tiêu biểu cho hành trình đi vào pháp giới hay sự tu chứng của tự tâm.

 

Núi đao mà chúng ta phải vượt qua trên con đường dấn thân vào tự tâm, được diễn tả trong kinh tạng Pali rằng : Chúng ta hãy mạnh tiến trên đường phạm hạnh, thẳng tiến vào đường giáo mác, gươm đao. Nghĩa là trên đường hành đạo, chắc chắn gặp vô vàn khó khăn chào đón chúng ta, làm ta bị tan thân, mất mạng dễ dàng. Nhưng chúng ta vẫn quyết chí vượt qua khó khăn, bất chấp gian nguy thử thách để thực hành lý tưởng cao cả mà chúng ta đã lựa chọn. Tâm không bao giờ khiếp sợ trước những châm chọc, chống phá việc làm của ta.

 

Một bên là sức mạnh chống phá, một bên là sức cám dỗ của ngũ dục tượng trưng bằng năm thứ lửa. Lửa ngũ dục hay năm điều ham muốn luôn chi phối, đốt cháy con người. Thắng Nhiệt Bà la môn vượt khỏi mọi phiền toái, bức bách của cuộc đời, không bị lửa dục thiêu đốt.

 

Thắng Nhiệt thành tựu pháp ấy và chỉ dạy Thiện Tài cũng luyện như vậy. Trước Thiện Tài đã gặp thử thách, nhưng đến đây thử thách lớn hơn, cụ thể hoá bằng núi đao và hầm lửa. Thiện Tài vốn có căn lành, từ bỏ những thứ của báu ở đời để xuất gia, nay gặp khó khăn cũng gợn lên trong lòng; Thiện Tài liền nhớ lại chí nguyện hướng thượng. Của cải quý báu của oâng trước khi xuất gia so với tạng báu Như Lai hiện nay thì thấm vào đâu mà ham thích. Nhớ lại được như vậy dễ vững tâm tiến bước hành đạo Bồ tát.Hình ảnh Thắng Nhiệt và Thiện Tài an nhiên ra khỏi núi đao lại gặp hầm lưûa nhằm nhắc nhở chúng ta trên bước đường tu, vượt qua khó khăn và thành công rồi, chúng ta lại bị mua chuộc. Nhưng mua chuộc mà ta không sa ngã, gặp chống phá mà không khiếp sợ thì người không thể não hại, ta mới tiến tu đạo nghiệp được.

 

Theo lời Phật dạy, Thiện Tài từ bỏ lợi danh, tình ái. Nhưng nay đến với Thắng Nhiệt Bà la môn thấy ông này đang sống với lợi danh tình ái. Rõ ràng lợi danh tình ái là những thứ gây đau khổ, chết chóc cho người. Vậy mà Thắng Nhiệt luyện tập để những thứ này không lôi cuốn, sát hại được ông.

 

Bà la môn khác sống với lợi danh tình ái để hưởng thụ rồi sa đoạ. Nhưng Thắng Nhiệt thì trái lại, ông không bị lửa tình ái, tham dục thiêu đốt, không bị núi đao danh lợi cắt đứt thân mạng, tức sống giữa bọn gươm giáo ác độc mà chúng không hại được, mới thực sự an lành giải thoát.

 

Võ Thiếu Lâm của Thiền phái Ðạt Ma thể hiện tinh thần này. Vì cuộc đời sử dụng toàn đao kiếm, muốn cứu đời phải mạnh hơn họ, giỏi hơn họ. Từ đó, luyện tập võ Thiếu Lâm để đủ sức chống đỡ tất cả đao kiếm và nhất là có khả năng ngăn chặn tất cả ác hại, nhằm bảo toàn thân mạng mình và cứu người giúp người.

 

Thiện Tài học được với Thắng Nhiệt hay cũng nhằm gợi ý cho ta tu tập thế nào để lửa tình ái, tham dục không thiêu đốt, gươm danh lợi không chém chết được. Những cái đáng ham muốn, bực tức, buồn phiền mà ta không ham muốn, bực tức, buồn phiền. Dấn thân vào đời tiếp xúc với mọi thành phần, nhưng ta vẫn là ta, không phạm sai lầm nào cho đến khi đầy đủ Bồ tát hạnh, mang công đức ấy trở về diện kiến đưùc Tỳ Lô Giá Na.

 

10 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Từ Hạnh Ðồng Nữ

 

Theo tinh thần Ðại thừa, không giới hạn việc học giáo lý Phật với hàng chư Tăng, nhưng học tất cả kinh nghiệm sống trên cuộc đời của đủ thành phần xã hội mới hiểu trọn vẹn giáo lý; vì pháp Phật dạy không riêng rẽ, thiên lệch.

 

Người cố chấp không thấy khách quan, chỉ thấy một phía thì chỉ đạt đến quả vị A la hán, tức mẫu người đạo đức, hiền lành ở thế gian. Họ không thể thành Phật vì Phật là đấng Chánh biến tri, biết tất cả và là bậc Minh hạnh túc, làm được tất cả.

 

Kinh diễn tả Thiện Tài cầu pháp với mọi thành phần tu học ở thế gian. Ðầu tiên học với Ðức Vân, rồi vào chợ học với Di Già, với ngoại đạo Thắng Nhiệt Bà la môn. Thắng Nhiệt Bà la môn dạy Thiện Tài trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa mà không chết, nghĩa là vào đời, không bị núi đao danh lợi đâm thủng, không bị lửa tham duïc, tình ái đốt cháy.Sống trong hồng trần mà không tham muốn nên hoàn toàn tự tại, được thể hiện qua gương sáng của vua Trần Thái Tôn xem ngai vàng như chiếc giày rách, muốn bỏ lúc nào cũng được. Danh là ngôi vua, lợi laø cung vàng, chẳng cần cả hai; nhưng ở lại ngôi vị vì yêu cầu của số đông, không bị hại vì danh lợi.

 

Thắng Nhiệt dạy Thiện Tài sống với danh lợi, không bỏ; nhưng sống cho hợp tình, không bị chúng tác động, mới thực sự giải thoát. Thắng Nhiệt cho biết ông chỉ được một pháp đó và khuyên Thiện Tài nên tìm người tài khác để học. Học hết với những người thông thái và tổng hợp tri thức cho mình rồi mới có vị trí đứng trên cuộc đời.

 

Thắng Nhiệt chỉ Thiện Tài ở phía Nam có thành Sư Tử Phấn Tấn, nên đến đó tìm đồng nữ Từ Hạnh để học Bồ tát hạnh, vì Bồ tát đa hạnh, mỗi người chỉ biết một việc, làm một việc.

 

Ngoài ra, tuy có thể đồng hạnh, nhưng hoàn cảnh mỗi người khác nhau, cấu trúc cơ thể cũng khác và hướng đi vào đời cũng khác, từ đó mỗi người chỉ sử dụng được một khía cạnh của cuộc đời. Ví dụ như tôi xuất thân từ giới nông dân, tu hành trở thành pháp sư, thì tôi biết rõ phương cách làm thế nào phá bỏ kiếp nông dân để chuyển đổi thành pháp sư. Hiểu biết ấy khác với hiểu biết của hàng công tử phá bỏ cuộc sống họ để thành pháp sư. Hoặc có là nữ giới mới biết được khó khăn và thuận lợi của phái nữ như thế nào để từ đó vươn lên.

 

Thắng Nhiệt thuộc nam giới, vượt chướng ngại, lên núi đao vào hầm lửa, tức những việc làm của tính khí đàn ông. Phái nữ có cái hay riêng của họ, ở vị trí này giỏi, vị trí khác dở. Tuy nhiên, theo tinh thần Hoa Nghiêm, tất cả người giàu nghèo, khôn dại đều lần lượt tiến đến Vô thượng đẳng giác.

 

Thắng Nhiệt thể hiện trọn vẹn tính khí người nam đắc đạo, nhưng người nữ cũng đắc đạo được. Tôi không là người nữ, nên các cư sĩ nữ có thể tự kinh nghiệm biết được mình.

 

Trong kinh này, người nữ học được gì ? Ở thế gian, thường gọi người nữ là phái yếu. Tuy nhiên, Phật dạy chúng ta biết mình yếu thì cũng có thể trở thành mạnh; trái lại, người mạnh mà không biết sử dụng cái mạnh của mình cũng thành yếu. Trong đạo chúng ta thường xếp mạnh nhất là trẻ con, mạnh thứ nhì là người nữ và mạnh thứ ba là Sa môn; còn lại tất cả đều là phái yếu. Ba hạng người này có thế mạnh riêng nếu biết sử dụng.

 

Chúng ta đã học được cách tìm mạnh trong thế mạnh với Thắng Nhiệt Bà la môn và bây giờ Ðức Phật muốn dạy chúng ta tìm mạnh trong thế yếu với Từ Hạnh đồng nữ.Ðồng nữ chỉ cho người đồng chơn, từ nhỏ đã sống thuần với đạo, không bị cuộc đời làm ô nhiễm, họ không nói, không nghĩ những chuyện tầm thường của thế gian.

 

Ở đây đưa ra hình ảnh cô bé Từ Hạnh trong sạch hoàn toàn từ thể xác đến tinh thần, nâng đến đỉnh cao là nhập pháp giới được kinh diễn tả là đồng nữ này ở cung điện Tỳ Lô Giá Na.

 

Tỳ Lô Giá Na nghĩa là chơn tâm hoàn toàn sáng suốt. Từ chơn tâm thanh tịnh phát xuất tình thương tất cả chúng sinh, mới có tên Từ Hạnh, đó là thế mạnh của nữ giới. Không biết sử dụng lòng từ này để sống với người, mà sử dụng tham lam, ghét ganh thì người nữ trở thành yếu thêm. Nếu chúng ta đến, người an vui, nghe tên mình, người vui, tất nhiên chúng ta phải mạnh, vì người cần có ta họ mới được vui, họ phải bảo vệ ta. Vì vậy, biết tổng hợp sức mạnh của thế nhân, chúng ta trở thành mạnh; không làm được như vậy, anh hùng cũng chết thảm thương, không phải họ hết mạnh, nhưng vì mất lòng tin yêu của quần chúng.

 

Phái yếu có điểm hay là thuận với việc phát tâm từ bi. Thực tế chúng ta cũng thấy từ bi tâm dễ có nơi người nữ. Theo tinh thần ấy, Bồ tát Quan Âm hành sử tâm đại bi luôn cứu khổ, tâm đại từ luôn mang vui làm pháp chính yếu. Sống ở đâu cũng nhằm cứu khổ, ban vui, nghe tên Ngài, nhìn thấy Ngài liền hết khổ, an vui thì Ngài là biểu tượng mạnh nhất.

 

Thiện Tài được giới thiệu đến gặp đồng nữ Từ Hạnh là công chúa, con gái của vua Sư Tử Tràng có 500 đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ Lô Giá Na Tạng, ngồi trên toà Long Thắng Chiên đàn mà thuyết diệu pháp. Nghe qua thân thế và y báo của thầy như vậy là Thiện Tài biết mình sắp gặp thử thách khác lớn hơn nữa.

 

Ở đây nói rõ đồng nữ thuyết diệu pháp. Kinh của Phật có hai phần : Diệu pháp và Liên Hoa. Phần diệu pháp không nói được, nhưng thật là pháp. Liên hoa hay pháp diễn tả bằng ngôn ngữ, văn tự thì tùy chỗ, tùy thời, tùy người mà diễn nói không đồng. Vì vậy đó là phương tiện nhằm giải quyết vấn đề nào đó, với một đối tượng nào đó.

 

Chính vì giá trị nhứt thời của pháp phương tiện, Ðức Phật khẳng định rằng trong suốt 49 năm thuyết pháp, Ngài chưa từng nói một lời. Ðiều này nhắc nhở ta đừng chấp đó là thật pháp. Tất cả những gì Phật nói đều là phương tiện để giúp chúng ta chứng diệu pháp. Ngài dùng vô số ngôn từ, thí dụ, hình ảnh để chúng ta xa rời lòng chấp, có ý niệm về pháp và tự thân chứng được pháp của mình, kinh gọi là nhập Phật tri kiến. Và khi đã thâm nhập Phật huệ, sử dụng được Phật tri kiến, chúng ta cũng nói vô số pháp như Phật.

 

Diệu pháp của Từ Hạnh thuyết trong điện Tỳ Lô Giá Na. Thiện Tài đã nhập vào pháp giới, thấy tánh của vật, mới thấy được điện Tỳ Lô Giá Na và nghe Từ Hạnh thuyết pháp. Học với Từ Hạnh ở Tỳ Lô Giá Na tạng thì trở vào đời lần thứ hai, Thiện Tài có thêm pháp mới, vì Tỳ Lô Giá Na nghĩa là phổ quang minh trí, tức Như Lai huệ thấy vật ở dạng thể, thấy rốt ráo, chính xác.

 

Diệu pháp này không nói được, nhưng nắm được diệu pháp thì biến nó thành phương tiện làm đạo. Diệu pháp hay pháp vô ngôn mà Thiện Tài chứng được ở điện Tỳ Lô Giá Na với Từ Hạnh, khi mang sử dụng trên cuộc đời để độ sinh gọi là khai phương tiện môn, nên cũng thay đổi tùy nơi, tùy người.

 

Trên tinh thần khai phương tiện, tất cả pháp Phật nói không đồng nhau để ứng với căn tánh hành nghiệp chúng sinh, nhưng chứng được pháp chân thật thì đồng nhau. Từ Hạnh học pháp sai biệt mà chứng pháp vô sai biệt, nhập Tỳ Lô Giá Na tâm và những người đến nghe đồng nữ thuyết pháp cũng chứng pháp giống nhau.

 

Thiện Tài đến cửa thành gặp nhiều người đi nghe Từ Hạnh thuyết pháp. Chắc chắn Từ Hạnh không giảng kinh suông bằng ngôn ngữ, quan trọng là diệu pháp tiềm ẩn bên trong. Từ đó, thể hiện ra thân tướng của Ngài tác động cho mọi người an vui. Mặc dù người đến chưa học được gì mà cảm nhận giải thoát an vui là cứu nhân độ thế theo tinh thần Ðại thừa. Ngược lại, nghe giải thích đủ thứ nhưng đầy ắp phiền não là phi pháp. Pháp Ðại thừa tuy không sử dụng ngôn ngữ văn tự, nhưng ảnh hưởng cho người tiếp thu được an lành, thể hiện bằng pháp hành của Từ Hạnh đồng nữ.

 

Ðồng nữ dắt Thiện Tài vào nhà mình, là vào Như Lai tạng tâm. Thiện Tài thấy 36 ức hằng hà sa Phật trong nhà đồng nữ, thấy rõ mỗi Phật có 8 tướng thành đạo và thấy suốt cuộc đời của các Ngài thuyết pháp.

 

36 ức hằng hà sa Phật đều xuất hiện trong điện Tỳ Lô Giá Na là điều đặc biệt vì đồng có mặt nhưng không chướng ngại nhau. Mỗi vị có một quá trình hành đạo khác nhau, nhưng hình ảnh không trùng lấp lên nhau và thuyết pháp cũng không đồng nhau.

 

Thông thường các kinh ghi chư Phật nói pháp đồng nhau, chân lý chỉ có một. Nhưng ở đây, thuyết pháp không giống nhau mà tác động cho đồng nữ chứng được Bát Nhã môn. Bát Nhã môn nghĩa là trí tuệ đồng nhất, quan sát được tất cả, nhưng thu lại chỉ có một, nên ngoài Như Lai tạng tâm không thể có được.

 

Ðồng nữ dạy Bồ tát hạnh cho Thiện Tài bằng một câu nói đơn giản : Hãy quán sát cung điện trang nghiêm của ta, nghĩa là chỉ cần nhìn đồng nữ, nhìn cột, đèn, vách tường... trong cung điện của Từ Hạnh thì đó là Bồ tát đạo. Ðiều này nhằm chỉ Bồ tát đạo là tích lũy công đức nhiều đời.

 

Từ Hạnh tuy là cô bé nhưng được người trong thành kính trọng nhất vì đã tích lũy phước đức, trí tuệ từ bao đời. Học đạo là nhìn thấy được điều ấy, đừng nhìn những thứ khác. Như có người muốn biết tôi làm gì để thành pháp sư, phải nhìn quá trình tôi tu học từ nhỏ đến nay.

 

Nhìn thành quả của người biết được họ thiện hay ác, phước hay tội, đó là bài học thật. Có người dại khờ khuyên người khác làm đủ thứ, nhưng tự xét thân phận mình có làm được hay không. Thiết nghĩ lời khuyên thiết thực, đúng nhất là chúng ta tự làm và có kết quả tốt.

 

Bài thuyết pháp của Từ Hạnh chính là cuộc sống của đồng nữ được người quý trọng và vật sở hữu được trang nghiêm bằng báu vật, bằng công đức. Lòng từ bi của đồng nữ ẩn chứa trong tâm, thể hiện thành hảo tướng bên ngoài cùng đền đài cung điện và người đến được an vui. Con người như vậy thì sự nghiệp vaø quyến thuộc phải như vậy, đó là chân lý, nhìn vô biết liền, khỏi cần nói dài dòng. Pháp này trong Thiền gọi là vô ngôn. Chúng ta quán sát thấy được như vậy, từ đó tự xây dựng cho mình một thế giới.

 

Từ Hạnh và Thiện Tài, cả hai người còn nguyên bản chất tốt đẹp thanh tịnh, chưa bị nhiễm ô. Vì vậy chỉ duy nhất có Thiện Tài tham quan được pháp giới và bước vào cung điện Tỳ Lô Giá Na, thấy được những điều bất tư nghì, tức thế giới quan đặc biệt khác với thế giới suy nghĩ biết được theo căn trần thức.

 

Những gì Từ Hạnh chứng đắc thì Thiện Tài cũng ghi được đầy đủ trong tâm, mở ra có đủ pháp giới của 36 ức hằng hà sa Phật diễn thuyết, nhưng thu lại chỉ có một điểm tâm, thể hiện tinh thần Hoa Nghiêm : Một là tất cả, tất cả ở trong một.

 

Thiện Tài hỏi Từ Hạnh còn pháp gì khác không. Ðồng nữ trả lời rằng Ngài trải qua 36 ức hằng hà sa Phật mới chứng được một pháp ấy. Còn Thiện Tài mới tham quan đã được, thật đáng phục và chỉ Thiện Tài nên tiếp tục đi tham học nơi khác.

 

Theo tinh thần Hoa Nghiêm, thầy gặp học trò giỏi, dễ thương, thì truyền hết sở học, không dấu nghề; nhưng dạy xong không kìm giữ ở lại với mình, chỉ họ tiếp tục con đường tiến thân. Về phần học trò tìm được nơi sang trọng, sung sướng thì không khởi tâm tham đắm. Nghĩ chùa đẹp, ở lại là đọa. Quán sát biết được ai là chủ, nhìn thấy được thực chất của ta đang cầu đạo, thì phải tiếp tục đi tham học.

 

11- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Thiện Kiến Tỳ Kheo.

 

Sau khi học được pháp quán sát thấy đúng như thật với Từ Hạnh, Thiện Tài được đồng nữ chỉ đến phương Nam tìm thầy khả kính để theo tu học, đó là Tỳ kheo Thiện Kiến. Tuy còn trẻ, vị này đã thâm nhập Phật pháp rất sâu.

 

Ý này gợi chúng ta suy nghĩ trên thực tế, người ta thường tìm thầy lớn tuổi để học kinh nghiệm của họ. Nhưng theo tinh thần Ðại thừa, rất sợ kinh nghiệm. Thật ra, kinh nghiệm hiểu biết của các vị lớn tuổi cũng cần cho chúng ta ở giai đoạn đầu.

 

Tuy nhiên, kinh nghiệm thường làm chúng ta e dè, nghi ngại, không khám phá được chân lý. Vì sẵn có kinh nghiệm, thường theo đó mà giải quyết. Và khi giải vấn đề thực tế theo kinh nghiệm của người xưa, thì không thể đúng vì hoàn cảnh khác, người khác, thời gian khác, không còn thích hợp.

 

Tôi để ý thấy ngườiù nhiều kinh nghiệm thường ít dám làm, nên không khám phá ra điều mới lạ, không thành Thiền sư được vì Thiền đòi hỏi chúng ta hành sử bằng trực giác gọi là hốt nhiên đại ngộ, không phải rơi vào khung kinh nghiệm thuộc về thức.

 

Trên bước đường tu, tôi suy nghĩ nhiều càng nặng đầu mà không giải quyết được vấn đề. Nhưng không suy nghĩ, bất giác giải đáp tự xuất hiện, tôi nhận ra Bát Nhã ba la mật đa đến lúc nào thì đáp án tự bung ra, cho chúng ta hiểu biết vượt hơn suy nghĩ bình thường. Chúng ta học đạo với Thiền sư là học điều đó.

 

Ở đây, Thiện Tài tìm thầy Tỳ kheo trẻ để học trực giác bung ra từ chơn tánh. Thiện Kiến Tỳ kheo tuy sống ở núi rừng, tướng hảo quang minh không mất; sống khổ hạnh nhưng không giống những người khổ hạnh khác.

 

Kinh diễn tả Tỳ kheo trẻ Thiện Kiến, ngầm chỉ Ðức Phật Thích Ca. Từ khi còn là vị Sa môn trẻ, Ngài đã khuyên vua Ba Tư Nặc không nên giết súc vật để tế thần. Lời dạy của Ngài phát xuất từ thể đại bi, từ chơn tâm đã tác động khiến vua thức tỉnh và khẩn khoản xin Ngài đắc đạo thì nhớ trở lại độ ông.

 

Từ Hạnh giới thiệu Thiện Tài đến học đạo với Tỳ kheo trẻ đầy đủ tướng hảo. Tướng hảo là kết tinh công đức tu hành từ bao đời, không phải mới tu mà được. Nhìn thấy Tỳ kheo Thiện Kiến dung mạo xinh đẹp, mắt sáng, có vô kiến đảnh tướng, bạch hào tướng và ngưïc có chữ Vạn. Ðó là ba phước tướng của bậc đại nhân, từ địa vị Chuyển luân thánh vương trở lên mới có.

 

Tướng chữ Vạn hay kiết tường tướng tiêu biểu cho tâm từ bi trọn vẹn, chỉ dùng đức cảm hoá người khiến họ phục tuøng. Bạch hào tướng là trí tuệ vượt trội hơn người, mới có thể lãnh đạo, người không dám trái ý. Vô kiến đảnh tướng tiêu biểu cho đức tướng, tuy giỏi hơn người nhưng vẫn khiêm cung với tất cả, người cảm phục mới theo.

 

Học Ðại thừa, chúng ta không căn cứ trên tuổi tác, tu lâu hay mới tu; nhưng căn cứ vào đức hạnh, hiểu biết, lòng từ bi của họ để theo học. Vì cầu học là cầu ba điều ấy, nên phải tìm người có ba tướng phước đó.

 

Ðức Phật dạy có 3 cách định vị trí cao thấp của con người như sau : Cách thứ nhất tính theo thời gian, lấy tuổi tác và thời gian để định thứ vị, ai lớn tuổi hoặc tu lâu là đàn anh, nhỏ tuổi hoặc tu sau thuộc hàng con cháu. Tính như thế thì Ngài Kiều Trần Như đứng đầu.

 

Nhưng cách tính như vậy không ổn vì có người thắc mắc hỏi Phật rằng mặc dù lớn tuổi hay tu lâu nhưng tánh tình, hành động của họ không có gì đáng làm gương thì sao. Ðức Phật cho biết cách định vị như vậy chỉ nhằm thuận theo thế gian mà thôi.

 

Tiến bộ hơn là cách tính thứ hai, cũng lấy thời gian tu và tuổi tác để định vị, nhưng phải xét thêm về hiểu biết và đạo đức của người ấy. Tu lâu nhưng căn tánh ám độn, không có đạo đức thì cũng phải đứng sau. Với cách tính này thì Xá Lợi Phất đứng đầu vì Ngài là trí tuệ bậc nhất. Trí tuệ chỉ đạo cho hành động và hành động có kết quả lợi ích, nên người đứng kế tiếp là Mục Kiền Liên. Như vậy, ai thông minh và đạo đức là người lớn, không có hai đặc tánh này là nhỏ.

 

Ðến cách tính thứ ba dựa trên tộc tánh, tức dòng họ. Nếu xuất thân từ vua chúa, dù họ mới vào đạo, cũng có được vị trí Thươïng tọa. Ðiều này dễ hiểu vì ở ngoài đời họ có địa vị quan trọng, vào chùa tu bắt quét lá đa thì ai chịu tu.

 

Trường hợp một, tính đủ tuổi đời, tuổi đạo thì làm Thượng tọa. Trường hợp hai, xét căn tánh thông minh và đạo hạnh tốt, làm được việc thì dù tuổi còn trẻ cũng được phong Thượng tọa.

 

Thực tế cho thấy cách xét trên năng lực làm việc và sức thuyết phục hơn người, thì xưa kia tông Trúc Lâm của Phật giáo Việt Nam đã từng sử dụng. Vua Trần Nhân Tông trước khi viên tịch mời Trần Anh Tông đến và trao y bát cho Pháp Loa, mới 24 tuổi. Ðây là trường hợp thuộc về ngộ tánh Thượng tọa, nghĩa là mặc dù tuổi nhỏ, nhưng đã đắc đạo, tánh sáng bên trong đã hiển lộ.

 

Chúng ta cầu đạo, phải tìm học với những người ngộ tánh, hoặc người có trí tuệ, đạo hạnh, không phải học với tuổi tác hay số năm tu thâm niên của họ. Vì họ ngộ đạo, hay có trí tuệ, giải thoát, đạo đức, chúng ta thân cận, tu học dễ cảm nhận an lành kỳ diệu. Trái lại, họ dạy nhiều, nhưng không xoá được phiền não cho ta thì chẳng ích lợi gì.

 

Thiện Tài đến gặp Thiện Kiến Tỳ kheo đang đi kinh hành trong rừng. Nhờ sở đắc tu chứng được từ khi học đạo với Từ Hạnh ở giai đoạn trước, nên thấy Thiện Kiến khác hẳn các thầy tu khác.

 

Ðã vào Tỳ Lô Giá Na lâu các thì Thiện Tài có đôi mắt sáng, thấy Thiện Kiến là vị chân tu thạc đức, có đầy đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, tay chân đều có kim cang luân... Vì theo tinh thần Hoa Nghiêm, thâm nhập Tỳ Lô Giá Na rồi, thấy vật ở dạng thể và muôn vật đều đồng một thể, nên tất cả đều là Phật, không có gì không phải là Phật mơùi là Phật.

 

Thiện Kiến mang danh xưng như vậy vì Ngài thấy 36 ức hằng hà sa Phật rõ hơn Thiện Tài thấy. Trong một niệm tâm của Ngài chứa đủ tất cả, tất cả đều hiện tiền trong một niệm. Mỗi niệm có đủ 36 ức hằng sa Phật, mỗi Phật giáo hóa bao nhiêu chúng sinh Ngài đều thấy rõ. Trong khi Thiện Tài chỉ thấy Phật, không dám thấy chúng sinh, vì thấy chúng sinh thì phiền não.

 

Thiện Kiến thấy Phật và chúng sinh với tất cả căn tánh hành nghiệp sai biệt một cách chính xác, không sai lầm. Thấy có chúng sinh thì mới đặt vấn đề giáo hóa chúng sinh.

 

12 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Tự Tại Chủ Ðồng Tử

 

Theo tinh thần Ðại thừa, không căn cứ vào một đời hieän tại, phải xét đến 3 đời hay nhiều đời trước để nhận xét con người. Việc phân chia người lớn hay nhỏ trong một đời không đúng hẳn. Có thể đời này họ nhỏ vì mới tái sinh lại, nhưng thực chất đã có quá trình tu hành từ nhiều đời, nên tuy tuổi nhỏ mà đạo lực và trí tuệ họ lớn. Ðại thừa căn cứ vào phước đức, trí tuệ để định vị lớn nhỏ.

 

Theo tinh thần ấy, Thiện Tài cầu đạo, tìm học với người giỏi, có đức hạnh, không phân biệt tuổi tác. Thiện Tài đến học đạo với cô bé Từ Hạnh về khả năng giáo hóa và học với Tỳ kheo Thiện Kiến, tuy trẻ nhưng hiểu biết vượt hơn mọi người. Thiện Kiến lại chỉ ông đến Tự Tại Chủ đồng tử là cậu bé còn bốc cát chơi, nhưng có hiểu biết mà Thiện Kiến chưa đạt được.

 

Tự Tại Chủ đồng tử đang chơi cát với các trẻ khác, nhưng dưới mắt Bồ tát cầu đạo thấy đây là Bồ tát lớn. Người thường chơi cát thì không đáng kể, trong khi Bồ tát cũng làm như vậy lại thành quan trọng.

 

Tự Tại Chủ đồng tử nhờ học toán pháp với Văn Thù Sư Lợi, tức pháp toán của Bồ tát, tính biết được pháp giới, biết trên trời có bao nhiêu vì sao, trong biển sinh tử này có bao nhiêu chúng sinh và tánh thiện ác của họ, bao nhiêu người đau khổ mà ông cứu độ được. Từ Tỳ Lô Giá Na tâm mà lần ra ngoài, Tự Tại đồng tử biết được tất cả. Tu trong Như Lai tạng tâm nhưng biết được ngoài trần thế, hành sưû tốt đẹp trên cuộc đời, đó là việc làm của Bồ tát.

 

Từ sở đắc toán pháp của Bồ tát Văn Thù và ngộ nhập nhất thiết công xảo thần thông trí pháp môn, Tự Tại Chủ đồng tử hiện thân hành đạo biết tất cả, giải đáp dễ dàng những bài toán khó của con người. Tự Tại Chủ đồng tử cũng khéo kinh doanh, tính toán không sai lầm, biết rõ khả năng từng người hợp tác nên phân bổ việc làm chính xác.

 

Ngoài ra, đồng tử cũng tính toán được caáu tạo hệ thần kinh từng người, theo đó người nào đáng dùng pháp Thanh văn hay Duyên giác thừa hoặc đáng nhập nhất thiết trí địa. Vì biết rõ nguyên nhân gây bệnh nên chế thuốc cho mọi người sử dụng đều lành mạnh. Tóm laïi, từ toán pháp của Bồ tát mà đồng tử Tự Tại hình thành ra vũ trụ quan.Tự Tại Chủ đồng tử còn nhỏ nhưng biết nhiều. Tri thức này không do học, không do suy nghĩ, cũng không do kinh nghiệm có được. Cái biết do kinh nghiệm là của thế gian. Theo Phật dạy, chúng ta chỉ tạm dùng nó, vì cái biết ấy thuộc phiền não, không giúp chúng ta giải thoát. Biết do suy nghĩ là biết của nhận thức, khi đúng khi sai vì còn bị tình cảm và tham vọng chi phối.

 

Nhận thức thế gian hay hiểu biết của người khôn bằng kinh nghiệm và suy luận không bảo đảm đúng. Chúng ta bình tâm thấy rõ trên thực tế, có người chúng ta đánh giá họ dở hoặc còn nhỏ sẽ không được việc, nhưng kết quả họ lại thành công.

 

Nhận thức chúng ta cần có trên bước đường tu là trực giác, tiêu biểu bằng hình ảnh Tự Tại Chủ đồng tử còn bốc cát chơi, không biết gì. Không biết nghĩa là không biết bằng thức, nhưng biết bằng tâm. Ðức Phật mượn Tự Tại Chủ đồng tử để nhắc nhở chúng ta dẹp bỏ suy luận, trở về chơn tâm, mới gặp chân lý.

 

Trên bước đường tu, tôi nhận ra ý này. Có lúc lắng lòng, trở về trạng thái không suy nghĩ thì bất chợt lóe lên được tia sáng đúng. Nhiều khi suy nghĩ thì lại thấy khác và làm theo kinh nghiệm, thường sai hơn là đúng. Tuy nhiên, quý vị đừng lầm rằng làm không suy nghĩ với làm càn. Tĩnh tâm, quên tất cả và làm theo điều gì loùe lên trong lòng ta, tức theo trực giác thường đúng nhiều hơn.

 

Qua pháp Phật dạy cho Tự Tại Chủ đồng tử, chúng ta không dùng thủ đoạn, không mong cầu. Cái gì đến tự đến, quả chín tự chín, chúng ta ép nó phải như thế này hay như thế khác sẽ bị phản ứng. Cần trở về với chính mình, sống với tâm hồn bình ổn nhất, bằng trực giác thấy được chuyển biến mà hành động.

 

13 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Cụ Túc Ưu Bà Di.

 

Tự Tại Chủ đồng tử nói ông chỉ biết như vậy, nếu muốn tiếp tục học thì nên đến với Cụ Túc Ưu bà di. Ưu bà di này sống trong thành Thiện Trụ mới có tâm bất động. Thiện trụ tức khéo tìm pháp để chúng ta an trụ.

 

Ðức Phật khuyên chúng ta trên bước đường tu, muốn có kết quả tốt phải nương pháp Phật. Chọn pháp mà chúng ta ưa thích để hành trì thì tâm mới yên tịnh được, vì rời xa pháp vào cuộc đời, chắc chắn sẽ bị đời làm ô nhiễm.

 

Ðức Phật có hai pháp : pháp phương tiện và pháp chân thật. Người mới phát tâm tu, nên an trụ pháp phương tiện, tức tùy duyên, ở đâu tùy thuận chỗ đó thì cũng có thể trở thành vô động, đòi hỏi khác thì chắc chắn gặp phiền toái không nhỏ.

 

Riêng tôi, sang Pháp giảng kinh, luôn ghi nhớ ý này. Ý thức rằng mình đang làm đạo ở chùa Trúc Lâm Paris, không phải là chùa Aán Quang hay Xá Lợi thì phải trụ pháp phương tiện và tùy duyên làm đạo. Từ đó, tôi quán sát xem yêu cầu của chư Tăng và tín đồ Phật tử nơi đây như thế nào, rồi theo đó mà hành xử. Không nương theo phương tiện, khó lòng được giải thoát.

 

Thiện Tài vào nhà Cụ Túc, thấy Ưu bà di này oai đức quang minh, trừ Phật và đại Bồ tát, không ai bằng được. Thiện Tài quan sát thấy nhà của Ngài hoàn toàn trống không, tất cả đồ vật cần dùng trong cuộc sống đều không có, trong khi tôn xưng của Ngài lại là Cụ Túc, tức đầy đủ.

 

Cụ Túc ngồi treân toà báu, tuổi lớn, nhưng xinh đẹp đoan trang. Trước mặt Ngài chỉ có một cái bát nhỏ. Lại có 10.000 đồng nữ xinh đẹp đoan chánh như thiên nữ vây quanh. Các đồng nữ này đồng hạnh với Ngài, thường thân cận, cúi đầu khom mình chờ Ngài sai khiến. Nơi thân các đồng nữ toả ra mùi hương, ai ngửi thấy đều được bất thối chuyển, hết giận, hết buồn. Người thấy thân họ đều lìa tham nhiễm, nghe tiếng họ thì đều vui mừng.

 

Cụ Túc không sở hữu tài saûn gì, chỉ có một cái bát nhỏ, nhưng từ nơi bát ấy, Ngài có thể ban phát cho chúng sinh tất cả thứ mà họ ưa thích. Vô số người tu hạnh Thanh văn trong vi trần số thế giới, nếu dùng thức ăn trong bát của Ngài thì đều chứng quả A la hán, người tu Duyên giác thì chứng Bích Chi Phật và người tu Bồ tát hạnh thì thành Ðẳng Chánh giác.

 

Quan sát dưới dạng bản tâm thanh tịnh mới thấy được hành đạo bất khả tư nghì của Cụ Túc và quyến thuộc của Ngài. Ðiều này gợi nhắc chúng ta muốn hiểu được người như thế nào, cần quan sát cuộc sống của họ và của người xung quanh liên hệ đến họ. Có người nói đủ thứ, nhưng chúng ta thấy cuộc sống họ không ra chi, quyến thuộc hoï lụn bại, khổ đau thì không nên nghe theo.

 

Trên bước đường tu, tất cả những gì dễ thương, phước báo hiện ra trên thân tướng, trong cuộc sống của người. Phải biết đó là kết quả của tâm lượng bên trong mà hiện thành bên ngoài là phước tướng, cuộc sống và quyến thuộc tốt lành.

 

Chánh báo, y báo của Cụ Túc Ưu bà di tạo thành một thế giới quan đặc thù như vậy khiến cho Thiện Tài thắc mắc. Cụ Túc cho biết Ngài được giải thoát Bồ tát vô tận công đức tạng mới có khả năng hành đạo, đáp ứng yêu cầu của chúng sinh một cách tự tại như vậy, tức phải trải qua quá trình tu. Ai cũng tốt, nhưng vì ta chưa tốt đối với họ, nên thường chiêu cảm quả báo xấu.

 

Trước tiên, ta phải tự tịnh hoá nội tâm, mới có cái nhìn chính xác. Lắng sâu tâm hồn để kiểm tra hành vi tạo tác của ta, cố ý làm khổ người thì không có, nhưng làm sao ta tránh khỏi vô tình làm mất lòng người.

 

Trên bước đường tu, phải học với Từ Hạnh đồng nữ, phát tâm từ đi vào đời, luôn tâm niệm hiện hữu của ta chỉ nhằm làm vui lòng người. Khi chưa làm được như vậy là ta đã có lỗi, lòng ta không trong sạch nên hiện thân nghiệp chươùng khiến người trông thấy phải buồn bực. Ý thức sâu sắc điều ấy, ta nỗ lực tu để xoá dư nghiệp.

 

Cụ Túc Ưu bà di cũng khởi tu từ chỗ này, sửa đổi ba nghiệp trải qua 36 ức hằng hà sa Phật. Mỗi một đời theo Phật, làm được một số việc tốt cho một số người. Và cứ như thế, trong khắp pháp giới, không có chỗ nào Ngài không xả thân hành đạo. Từ đó mới kết thành quả báo hiện đời, chỉ trong một cái bát nhỏ mà có đủ sức cung cấp cho tất cả chúng sinh, bằng từ tâm thông được mọi loài. Ai có nhân duyên căn lành thì tự tìm đến, tập họp được vô số quyến thuộc đồng hạnh đồng nguyện với Ngài.

 

Khi Cụ Túc nghĩ mời 10.000 thiên nữ đến, họ liền có mặt và khi nghĩ có vô số chúng sinh đến thọ thực, họ cũng đến đủ, hình dạng của họ không giống nhau nhưng sở cầu đều mãn nguyện.

 

Trong nhà Cụ Túc chỉ có một bình bát, nhưng cần thì biến thành đầy đủ vật cho mọi loại khác nhau. Ý này giống như có tính cách phù phép ma thuật, dễ gây hiểu lầm là mê tín dị đoan. Ðối với vấn đề pháp thuật, thường được gọi là thần thông, chúng ta đều biết Ðức Phật luôn cấm kỵ. Mặc dù Ðức Phật sở đắc vô số thaàn thông, nhưng Ngài không bao giờ dạy đệ tử sử dụng nó, vì tà thuật dễ luyện, nhưng không phải là chánh đạo. Ðức Phật e ngại chúng ta còn đầy tham sân phiền não, dễ rớt vào con đường tội lỗi, nên Ngài ngăn cấm tập luyện ma thuật.

 

Ðức Phật dạy chúng ta việc chính yếu là rèn luyện nhân cách trở thành cao thượng trong loài người. Trước nhất, cần phải phát huy lòng từ bi, gánh vác khổ đau và mang niềm vui cho người.

 

Ngoài ra, chúng ta phải phát triển trí tuệ, tức sự hiểu biết càng rộng càng tốt, mới có thể cải thiện đời sống cho người. Việc thứ ba là trang bi dũng lực, gặp việc đáng làm dù khó khăn nguy hiểm đến bản thân, ta cũng không từ chối. Ðoù là 3 đức tính mà hàng đệ tử Phật phải trang nghiêm thân tâm, còn ma thuật thần thông không có giá trị bền chắc và càng tu luyện nó, chúng ta càng rời xa chánh đạo.

 

Khả năng đáp ứng yêu cầu của chúng sinh do Cụ Túc Ưu bà di thi thố không phải thuộc về tà thuật. Trái lại, đó là một pháp Phật dạy mang ý nghĩa sâu xa mà Phật phải dùng thí dụ nhân duyên để diễn tả cho chúng ta hiểu. Cụ Túc có thần biến và khả năng làm được như vậy vì đã trải qua nhiều đời trồng căn lành, tu cội phúc, mới kết thành quả báo bất tư nghì.

 

Thật vậy, công đức của Cụ Túc quá rộng lớn, đầy đủ, nên tuy không chứa nhóm của cải mà tài sản có đầy trong pháp giới. Trải vô lượng kiếp, Ngài đã dùng toán pháp của Bồ tát để giáo hóa chúng sinh, mang đến cho họ tri thức và của cải vật chất.

 

Ân đức giáo hoá của Ngài gieo rắc tình cảm tốt đẹp trong lòng họ, tác động họ trở thành pháp lưõ đồng hạnh. Họ luôn mong mỏi được Ngài giao việc để họ trả ơn giáo dưỡng, thì tất nhiên phương tiện cần có để giáo hoá dù lớn bao nhiêu cũng đủ sức cung ứng vậy.

 

Ðiều này hiểu theo thời đại ngày nay, chúng ta thấy có nhiều nhà từ thiện trên thế giới không có tiền riêng. Tiền của họ gởi cho chúng sinh trong khắp mười phương là do công đức đã tu Bồ tát đạo, hành 6 pháp ba la mật nhiều đời.

 

Khởi đầu của tu lục độ là trồng căn lành ở các Ðức Phật, nghĩa là làm lợi ích cho chúng sinh. Trải qua vô số kiếp, họ đã giáo dưỡng cho người phát tâm bồ đề, trở thành người tốt, có phước đức, trí tuệ, đào tạo được những nhà trí thức, trưởng giả, quốc vương khắp thế giới. Vì vậy, tuy không nắm giữ tiền, nhưng tiền của họ ở khắp mười phương. Những người giàu có, quyền thế, nói chung không biết bao nhiêu người trên thế gian được họ cứu vớt, giúp đỡ, nghe thấy nhà từ thiện định làm việc gì thì hết lòng tùy hỷ, đóng góp. Nhờ vậy, họ sử dụng được số tiền nhiều không tưởng nổi, sự nghiệp của họ không ai bằng, dù thực sự họ không có tiền.

 

Cụ Túc Ưu bà di có một vạn quyến thuộc đồng hạnh, gợi chúng ta thấy điều này ít có trên thực tế. Phần nhiều người quản lý hay buộc người khác làm theo, nên họ buồn phiền và ít hợp tác lâu dài. Nhất là trong giới phụ nữ, hiếm khi thương yêu tin tưởng nhau thực sự.

 

Ưu bà di chỉ có một bình bát thôi, nhưng được coi là Cụ Túc, tức đầy đủ tất cả. Ðó là điều chúng ta cần học, thực tế thường cho thấy nhiều người có tài sản lớn, nhưng phải khổ sở vì giữ của.

 

Cụ Túc thì chỉ cần một bình bát mà dư đủ, vì những gì làm được trong hạnh Bồ tát, Ngài gom lại để trong một bình bát. Người nào có nhân duyên căn lành với Ngài, đến học đạo, không đòi hỏi, không mong cầu, nên tranh chấp không xảy ra, tìm thấy an lành trong cuộc sống, tri thức tự thăng hoa, cứ như vậy mà họ đi lên, thoả mãn được mọi yêu cầu . Trái lại, người có tham vọng tìm đến, không lấy được một xu, vì chỉ có bình bát, có thấy gì đâu mà cướp được. Ý này diễn tả bằng hình ảnh Cụ Túc lấy trong bình bát đưa cho người những gì đều đúng mong muốn của họ.

 

14 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Cư Sĩ Minh Trí.

 

Thiện Tài học đạo Bồ tát với Cụ Túc Ưu bà di là vị đắc được môn giải thoát Bồ tát vô tận tạng công đức, tài sản không có gì ngoài một bình bát nhỏ, nhưng từ bát này mà đáp ứng đầy đủ yêu cầu của chúng sinh trong khắp mười phương.

 

Cụ Túc dạy Thiện Tài nên tiếp tục đi về phương Nam, đến tìm học với cư sĩ Minh Trí. Vô lượng chúng sinh trong mười phương tập trung đến cầu xin ông, cư sĩ chỉ ngửa mặt lên hư không, đọc thần chú thì mọi thứ cần dùng của đại chúng đều từ trên trời rơi xuống.Cụ Túc chỉ có một bình bát mà đựng đồ cho hoài không hết và Minh Trí chỉ ngửa mặt lên trời xin là của cải rớt xuống. Hai việc ấy chúng ta có tin được không và phải hiểu như thế nào ?

 

Ðọc kinh Hoa Nghiêm, nếu không hiểu nghĩa lý sâu xa trong kinh, chúng ta dễ rơi vào mê tín. Vì chúng ta chưa thâm nhập thế giới Phật, chưa biết rõ thần thông tự tại của Phật, nên khó hiểu, khó thấy được. Vì vậy, Ðức Phật khuyên chúng ta nỗ lực tu, phát triển 6 pháp ba la mật sẽ biết được những điều bất tư nghì.

 

Hiện tại, chúng ta chưa qua được cánh cửa thứ nhất của phàm phu thì khó suy lường được ý chân thật diễn tả trong kinh. Tuy nhiên, có thể kéo về thực tế để chúng ta học được phần nào ẩn ý trong phẩm này và ứng dụng trong cuộc sống sẽ nhận được lợi ích.Khi diễn tả danh xưng của cư sĩ Minh Trí, Ðức Phật dụng ý nhắc chúng ta rằng nếu đạt trí tuệ sáng suốt thì sẽ làm được tất cả. Bồ tát thường dùng haïnh để đặt tên, vì thế có thể hiểu Minh Trí cầu trên trời ban xuống, nghĩa là ông phát triển được trí tuệ ở độ cao nên thấy và khai thác được tất cả kho tàng trong thiên nhiên mà cung ứng cho mọi loài đầy đủ.

 

Theo tôi, hiểu như vậy hợp lý hơn ở thời đại chúng ta. Thực tế cho thấy ta có thể dùng trí tuệ hướng dẫn cho người sống hạnh phúc, có đủ vật chất của cải.

 

Minh Trí sử dụng trí tuệ, biết giúp người nào mà họ phấn đấu đi lên mới giúp; không giúp để người lợi dụng, thủ tiêu sức phấn đấu và trở thành người ăn hại.

 

15 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Đạo Với Trưởng Giả Pháp Bửu Kế.

 

Học xong với Minh Trí, Thiện Tài tìm đến trưởng giả Pháp Bửu Kế. Trưởng giả là người làm ăn đàng hoàng, đã áp dụng lời Phật dạy trong đời sống và trở thành người giàu có.Ông dắt Thiện Tài vào nhà ông làm bằng thất bảo, có 10 tầng. Ở vào thời xa xưa, chưa văn minh mà hình dung căn nhà 10 tầng hơi khó. Thiết nghĩ, kinh này ứng dụng ở thời đại chúng ta dễ nhận ra hơn. Nhà trưởng giả có 10 tầng gợi chúng ta liên tưởng đến các đại siêu thị ngày nay.

 

Nhà Pháp Bửu Kế trưởng giả được thiết kế 10 tầng, tức 10 địa vị tu chứng của Bồ tát thập địa. Tầng thứ nhất bố thí thực phẩm, ai cần gì đều được cấp cho no đủ. Hạnh này ứng với sơ địa Bồ tát tu hành bố thí là chính, giải quyết được đời sống con người.

 

Tầng thứ hai bố thí những bửu y. Bửu y hay áo giới luật, áo pháp bảo vệ cho người thật an toàn. Thật vậy, nương pháp lực của Bồ tát, cuộc sống của chúng ta nhẹ nhàng đổi khác, thăng hoa. Tùy trình độ tới đâu thì thọ lãnh được pháp lực của Bồ tát đến đó.

 

Tầng thứ hai là giới pháp tương ưng với Bồ tát nhị địa trì giới, dùng giới pháp hay pháp y để che chở giới thân huệ mạng. Ðó là vật trang sức đẹp nhất. Về giới luật của Phật, tùy thân, tùy phaän mà giữ gìn, tệ nhất giữ được một trong 5 giới cấm cũng đã tốt, vì chỉ giữ một giới không gian tham trộm cắp đã được người tin tưởng, kính trọng.

 

Từ một giới cũng tốt cho đến trang nghiêm trọn vẹn 3000 oai nghi. Áo giới luật là áo Như Lai có trong toà nhà của trưởng giả Pháp Bửu Kế. Kiểu áo nào của Như Lai cũng đẹp hay có thể hiểu rằng đức hạnh của con người toàn thiện toàn mỹ thì ở khía cạnh nào cũng có tướng hảo.

 

Tầng thứ 3 và thứ 4, Bồ tát tu hạnh tinh tấn và nhẫn nhục. Vào đó, chúng ta thấy mọi người sống hài hoà với nhau, thể hiện pháp Phật dạy là đồng sự. Tất cả người đồng nhất qua hạnh của trưởng giả Pháp Bửu Kế, mỗi người tùy thời, tùy phận mà tự tìm việc để làm. Sống ở đó ai cũng như ai, không hề có ý niệm nhân ngã bỉ thử, tốt xấu, sang hèn.

 

4 tầng này nằm trong tứ sinh lục đạo, là 4 tầng thấp mà Pháp Bửu Kế nhắm vô dạy con người. Lên tầng thứ 5, mọi người đều sống trong Thiền định, đồng ngồi một chỗ, nhưng ảnh hưởng qua lục đạo tứ sinh. Bồ tát đệ ngũ địa đắc định mới qua được tầng này.

 

Ðến tầng thứ sáu, Bồ tát sống với trí tuệ, kinh ghi Bồ tát lục địa tu Bát nhã ba la mật, mỗi người biết được một pháp. Tất cả tập họp trong nhà Pháp Bửu Kế cùng chung luận bàn. Ði lần đến thập địa, thì thấy mười phương chư Phật thường nhóm họp.

 

Trên bước đường tu, tùy trình độ của ta đến mức nào thì tự động vào tầng đó tham quan. Khi ta còn cần thức ăn, áo mặc thì không tài nào lên tầng thứ năm của nhà Pháp Bửu Kế được.

 

Pháp Bửu Kế cho biết ông thành tựu như vậy vì vô lượng kiếp quá khứ, có Phật Vô biên Quang minh Pháp giới Phổ trang nghiêm Vương Như Lai. Ông đã đốt một nén hương cúng dường Ðức Phật này và phát nguyện có đủ của báu, thường gặp Phật, hằng nghe chánh pháp.

 

Chúng ta cần hiểu ý nghĩa cúng hương như thế nào mà chỉ có một nén hương lại thành tựu pháp vô cùng lớn như vậy.

 

Hương dù quý báu như hương chiên đàn, trầm thủy... nhưng không có tâm hương dâng cúng cũng không thành pháp. Trưởng giả Pháp Bửu Kế đốt nén tâm hương dâng Phật, tiêu biểu cho lòng tốt, hành động tốt của ông, tác động cho người có cảm tình với ông và phát tâm bồ đề. Ðó mới là tối thượng cúng dường chư Phật.

 

Tâm hương gồm : giới hương, định hương, huệ hương, giải thoát, giải thoát tri kiến hương. Trước nhất, đệ tử Phật là người trong sạch, tốt lành. Ðem dâng cúng Phật tâm trong sạch và hành động tốt đẹp của mình gọi là đốt giới hương.

 

Kế đến, tâm ý tập trung, không nghĩ tán loạn, thể hiện ra thân tướng giải thoát, cuộc sống định tĩnh. Dùng định hương ấy dâng cúng. Nhờ tâm an định, trí tuệ phát sinh, làm lợi ích cho người, khiến người kính trọng Tam Bảo, sử dụng được huệ hương.

 

Sau cùng đốt lên giaûi thoát, giải thoát tri kiến hương, nghĩa là trong cuộc sống, làm được mọi việc khó mà lòng không vướng bận một mảy trần, được tự tại trong mọi tình huống. Và dùng tri kiến của chánh pháp để hàng phục tà ma ngoại đạo, đưa họ trở về con đường thánh thiện, giải thoát.

 

Trưởng giả Pháp Bửu Kế có khả năng cúng dường tâm hương như vậy mới có sức thu hút, cảm hoá mọi người thâm nhập vào 10 tầng của nhà Bồ tát đạo.

 

16 - Thiện Tài Cầu Ðạo Với Trưởng Giả Phổ Nhãn.

 

Sau khi vào nhà 10 tầng của trưởng giả Pháp Bửu Kế để học đạo Bồ tát, Thiện Tài lễ tạ ra đi về phương Nam đến thành Phổ Môn, học với trưởng giả Phổ Nhãn. Phổ Nhãn là bác sĩ dùng phương pháp chữa bịnh hoàn toàn khác với thầy thuốc thông thường.

 

Với danh xưng là Phổ Nhãn, Ngài có đôi mắt quan sát, biết rõ tất cả bệnh của chúng sinh mười phương. Nơi nào có người bệnh khổ, đau buồn thì Ngài đến chữa trị cho họ được lành mạnh. Lại ban cho họ đồ ăn thức uống, y phục đẹp, đồ trang sức, cho đến vàng bạc, tất cả được đầy đủ. Họ mang trọng ơn Ngài đã cứu mạng sống, nuôi dưỡng và nhân đó, Ngài tùy hoàn cảnh thuyết pháp giáo hoá. Vì người tham dục nhiều, Ngài dạy họ quán bất tịnh. Vì người sân hận nhiều, dạy họ quán từ bi. Vì người ngu si nhiều, dạy họ phân biệt các pháp tướng. Vì muốn họ tăng trưởng công đức, nên tán thán tu tập vô lượng phước trí. Vì muốn họ thân rốt ráo thanh tịnh vi diệu, nên tán dương lìa hẳn tất cả pháp bất thiện....

 

Cách hành đạo của Phổ Nhãn rất thực tế, vì người đói thì không thể nghe pháp được. Ý này trong dân gian thường nói là "Có thực mới vực được đạo". Người bị bịnh hoành hành cũng khó mà lắng tâm nghe pháp. Trưởng giả giải quyết đời sống vật chất đầy đủ cho người và chăm lo sức khoẻ của họ tốt rồi, từng bước xây dựng họ phát triển. Noùi chung trưởng giả đi khắp nơi để giải quyết tất cả vấn đề, chữa lành được thân bịnh cũng như tâm bịnh của chúng sinh, nên họ rất hoan hỷ.

 

Trưởng giả nói với Thiện Tài rằng Ngài chỉ biết pháp môn làm cho tất cả chúng sinh thấy chư Phật hoan hỷ và dạy Thiện Tài tiếp tục cầu học với vua Vô Yểm Túc.

 

17 - Thiện Tài Cầu Ðạo Với Vua Vô Yếm Túc.

 

Vua này tàn nhẫn, đặt nhiều hình phạt trừng trị nặng nề, là vua hung ác thì học đạo với họ là học gì. Và nếu nghĩ học đạo Bồ tát tức cứu nhân độ thế, nhưng ông này sử dụng hình phạt cực ác, kinh khủng như móc mắt, xẻo tai, lột da, hành hạ người đau khổ cùng cực, làm sao có đạo Bồ tát để học.

 

Thiết nghĩ, chúng ta phải quan sát xem tội ác mà vua hành hình phạm nhân là thật hay giả. Nếu làm ác thật, vua Vô Yểm Túc cũng phải bị lật đổ và chết thảm thương như việc ông đã làm. Thực tế lịch sử đã chứng minh điều này. Chúng ta thấy rõ các nhà độc tài trên thế giới làm ác phải lãnh thọ quả báo ác. Quy luật này không trừ bất cứ ai. Tuy nhiên, riêng đối với vua Vô Yểm Túc, không phải như vậy.

 

Thông thường, người có căn lành không thích gần gũi người ác vì thấy việc ác thì đau nhói trong lòng. Ở đây, kinh diễn tả là Thiện Tài phát tâm đại bi cứu hộ chúng sinh mà lại thấy Vô Yểm Túc bức hại chúng sinh cho đến chết, khiến Thiện Tài hoảng sợ, định bỏ đi.

 

Đây là lần thứ hai ta thấy Thiện Tài chùn bước. Lđần thứ nhất gặp Thắng Nhiệt Bà la môn bảo trèo lên núi đao, nhảy vào hầm lửa, Thiện Tài hoảng sợ. Nhưng nhận ra thâm ý mà thiện tri thức muốn dạy rằng không dấn thân vào đường hiểm sinh tử làm sao cứu vớt chúng sinh. Thiện Tài liền phát tâm cầu đạo không tiếc thân mạng.

 

Vượt được chặng thứ nhất rồi, Thiện Tài tự nghĩ chẳng lẽ học với người ác là Bồ tát hạnh hay sao. Lần này ông lại nghe chư Thiên nhắc nhở rằng : "Phải tin thiện tri thức, trưởng giả Phổ Nhãn không nói sai đâu. Bồ tát pháp không thể hiểu được, đừng suy nghĩ, đừng đánh giá, dễ sai lầm."

 

Trên bước đường tu, chúng ta hiểu Hoa Nghiêm là hiểu từ tự tánh, trong lòng ta cân nhắc, cảnh tỉnh, chứ không phải gặp chư Thiên thật. Thiện Tài nghe chư Thiên nhắc, nghĩa là từ bản tánh thanh tịnh của Ngài mà loé sáng lên trung đạo đệ nhất nghĩa. Bằng nhận thức thì Thiện Tài thấy Vô Yểm Túc tàn nhẫn, nhưng theo trực giác lại cảm nhận bên trong vua có cái gì bất khả tư nghì, không thể nói được.

 

Nghe tiếng nói trong hư không, có thể hiểu là khi sử dụng nhận thức thì tâm chúng ta bị mờ đặc. Nhưng xoá sạch nhận thức, tâm thành trống không, chân lý mới hiện ra.

 

Một niệm bất giác nổi dậy, không thể thấy chân lý, vì đầu óc chúng ta dầy đặc dữ kiện. Tuy nhiên, trở về trạng thái vô tư hồn nhiên cuûa Tự Tại Chủ đồng tử, tức trở về tâm trống không mà Ðức Phật thường so sánh với hư không, chân lý mới hiện ra cho ta.Theo tôi, ta thấy người xấu, nghe nói họ xấu và dùng suy nghĩ phân tích cũng thấy họ xấu. Nhưng nếu ta không nghĩ họ xấu, dừng ý niệm xấu về họ khi sống chung, làm việc chung với họ, thì họ không xấu với ta nữa, dù trên thực tế cuộc sống, họ vẫn xấu với người khác.

 

Ðó là kinh nghiệm tu của tôi, dù xấu mấy, ác mấy, họ cũng ước mong có người tin để nương tựa. Có thể nói bất cứ ai cũng có một điểm lành. Trên đường tu, tôi không thấy ai xấu với tôi. Nếu cầu đạo bằng tâm đó, chúng ta thấy cuộc đời đẹp biết bao và bằng đôi mắt đẹp như đồng tử Thiện Tài cầu đạo, lần lần cuộc đời trở thành đẹp thật với chúng ta. Ðiều đó được Phật dạy rằng tất cả pháp do tâm tạo. Trên tinh thần ấy, Thiện Tài nhìn mặt ngoài thấy vua xấu ác, nhưng lắng lòng, thấy được vua tốt. Có cảm nhận như thế mới tiến tu được.

 

Trong cuộc sống luôn có hai mặt đối lập, nhìn thoáng qua, thấy tốt, nhìn kỹ lại thấy xấu, hai cái tốt xấu thường chập chờn hiện hữu. Ý thức sâu sắc điều đó, chúng ta nên cho cái xấu trôi về quá khứ để hiện tại tốt hơn, vì nếu cứ ghim chặt cái xấu quá khứ, nó sẽ trở thành hiện tại và mỗi ngày thêm lớn hơn. Và cố gắng giữ tâm niệm tốt, nuôi dưỡng nó mỗi ngày, mỗi đời phát triển hơn.

 

Vua Vô Yểm Túc xét xử tội nhân xong, ông dẫn Thiện Tài vào xem cung điện và cho biết bề ngoài thấy làm ác như vậy, nhưng thật trong lòng vua từ khi phát tâm tu Bồ tát đạo, một con muỗi cũng không giết.

 

Vì thương chúng sinh đầy tham lam, ghét ganh, mê muội, độc ác, nên ông trừng trịï để ngăn chặn tội ác cho họ, giúp họ thành người tốt. Với ý niệm không phải vì ác nhưng vì lòng từ răn đe, dạy dỗ người; nhờ pháp tu ấy mà ông đạt được như huyễn tam muội, thì ông cần cái gì liền hiện cái đó.

 

Khi vua nhập như huyễn tam muội, thì những người ác hiện ra để ông thuyết pháp. Người bị giết và người giết đều do biến hoá ra, không phải người thật. Duøng hình phạt nặng trừng trị người huyễn hoá nhằm giáo dục người thật hung dữ trên nhân gian, cho họ thấy quả báo đau khổ mà không dám làm việc ác nữa. Ðây là việc làm của Bồ tát lớn, tạo dữ kiện để Ngài lấy đó làm bài thuyết pháp sống.

 

Cuộc đời của Ðức Phật Thích Ca hành Bồ tát đạo cũng đã dùng huyễn thân tam muội hiện thành các loại hình nghịch thuận, tốt xấu để tuyên dương chánh pháp. Ðiển hình như Bàn Ðặc không thuộc nổi hai chữ mà đắc La hán, là do đức Phật huyễn hoá ra để người dốt nghĩ rằng họ còn giỏi hơn Bàn Ðặc, nếu tu sẽ đắc quả mau hơn.

 

Chúng ta biết rõ Ðức Phật dùng huyễn hoá vì về sau không ai đắc đạo dễ dàng như vậy, dù họ laø Tăng sĩ rất giỏi. Hiển nhiên là người huyễn hoá thì muốn làm gì cũng được, họ đắc đạo mau lẹ, dễ dàng vì có phải tu thật đâu, có thể tạm ví như đóng kịch trên sân khấu vậy. Họ đóng vai ngu dốt mà đắc quả thì kịch hết, màn hạ xuống, họ trở về con người thật, chứ có còn là vị La hán nữa đâu.

 

Dưới bàn tay của người đắc huyễn thân tam muội, họ sắp xếp cho người huyễn hoá thành công việc gì tùy ý muốn; trái lại, trên thực tế, người xấu thật thì khó mà chuyển hoá họ thành tốt được.

 

Bồ tát nương theo Phật làm việc giáo hoá chúng sinh, vua Vô Yểm Túc ác thật thì ông không thể nào có phước báo lớn lao vô cùng. Thật vậy, Thiện Tài thấy cung điện của vua rộng lớn không gì có thể so sánh, đều làm bằng thất bảo và có mười ức thị nữ đoan trang xinh đẹp.

 

Vua bảo Thiện Tài nếu ông thật gây ác nghiệp thì sao được quả báo tốt đẹp, thân không bệnh, tâm giải thoát, giaøu sang như vậy, quyến thuộc hết lòng phục vụ, không trái ý. Thấy bề ngoài ác mà thật là thiện.

 

Làm ông ác khó hơn làm ông thiện. Toàn người hiền thì ai giữ của Tam Bảo. Vì vậy, Quan Âm Bồ tát hiền nhất nhưng đóng vai ông Tiêu mặt dữ hoặc Vi Ðà Bồ tát cũng đầy lòng từ mà hiện thân Hộ pháp để doạ người ác.

 

Vua Vô Yểm Túc dạy Thiện Tài nên quan sát người ác giả mà trong tâm họ tốt như Ðề Bà Ðạt Ða mặt quỷ nhưng chứa tâm Phật. Và ngược lại, mặt ngoài hiền lành ẩn chứa tâm ác độc, gọi là khẩu Phật tâm xà. Tâm bên trong chủ động, quyết định quả tốt xấu. Tâm ác thật thì đương nhiên phải thọ quả báo khổ, không thể nào thoát khỏi lưới nhân quả; nhưng chúng ta thấy họ ác mà vẫn sống sung sướng thì còn phải xét lại có điểm gì hay mà chúng ta phải học, không nên nói xấu họ.

 

Vua Vô Yểm Túc dùng hình phạt nặng để xã hội được bình yên. Và hơn thế nữa Thiện Tài học được cách nhìn bề trong, thấy được pháp Bồ tát như huyễn giải thoát.

 

18 - Thiện Tài Cầu Ðạo Với Vua Ðại Quang.

 

Thiện Tài học với vua Vô Yểm Túc pháp như huyễn, sử dụng cực hình ác để giáo hoá chúng sinh trong thế giới ác. Nhưng sang học đạo với vua Ðại Quang ở thế giới hiền lành, dân chúng toàn người tốt thì thấy cách giáo hoá của vua Ðại Quang hoàn toàn khác hẳn Vô Yểm Túc.

 

Học đạo với một ông hung dữ nhất và ông hiền lành nhất, để nói lên tinh thần Ðại thừa không theo mô hình cố định, phải tùy thời, tùy chỗ áp dụng pháp thích hợp.

 

Trong trường hợp nào cần hiền như bột cho họ nắn, để họ tu đắc đạo; nhưng gặp cô hồn lộng hành thì phải mặc áo ông Tiêu vô và phun lửa mới trị được chúng. Ðến khi xong việc rồi, trở lại vị trí vua Ðại Quang, nghĩa là trở lại tâm hiền lành nhất.

 

Vua Ðại Quang cai trị không dùng hình phạt, nhưng quan tâm đến việc giải quyết cơm ăn áo mặc cho người, ai gặp khó khăn, cần gì vua sẵn sàng cho đủ. Ðiều này gợi ý chúng ta rằng nếu sức cung lớn hơn cầu thì việc giải quyết dễ dàng.

 

Lịch sử Nhật Bản cho thấy ở thời Minh Trị, tội trộm cắp bị xử phạt rất nặng, nhưng người dân vẫn cứ phạm tội này. Ðến khi đất nước họ văn minh rồi, vật chất quá đầy đủ, tự động không ai làm điều xấu ấy.

 

Vua Vô Yểm Túc quá tàn nhẫn và vua Ðại Quang quá đạo đức. Hay đó là hai mặt của cuộc đời cho chúng ta bài học phải có phước báo, đạo đức, thông minh tài giỏi mới lo được cho mọi người. Và có như vậy mới chỉ đạo đất nước đi lên, chỉ dùng hình phạt suông không đủ.

 

Khi bản thân chúng ta chưa được những điều tốt, giỏi như vua Ðại Quang, phải nỗ lực đoạn tuyệt tánh xấu, trau giồi đức tánh tốt, cố gắng làm được những điều khó làm.

 

Vô Yểm Túc giới thiệu Thiện Tài đến học với vua Ðại Quang, cũng có nghĩa là khi xây dựng người, ngăn chặn xấu thì thiện sinh, trấn át được tội lỗi, người mới yên tâm làm ăn, cuộc sống mới chuyển thành tốt, lúc ấy kỹ luật không còn cần thiết nữa. Ai cũng muốn bố thí mà không muốn nhận, làm gì còn trộm cắp.

 

Xây dựng cho người trở thành tốt, họ tự phấn đấu đi lên, làm cho xã hội an lành. Bằng từ tâm tam muội mà vua Ðại Quang đến với người, nghĩa là tình thương yêu của Bồ tát có sức cảm hoá người.

 

Lúc trước, tình thương của Vô Yểm Túc phải ẩn dấu bên trong và thể hiện ra những hình phạt ác. Nay, mọi người tốt rồi, tình thương của Ðại Quang thể hiện thực trong cuộc sống. Ðặc biệt là tình thương Bồ tát đạt đến độ cao, tác động cho người tội lỗi nghĩ đến Bồ tát liền phản tỉnh, hồi tâm.

 

Thực tế lịch sử nước ta cho thấy tấm gương đạo đức của vua Lý Thánh Tông. Ông thương dân như con đẻ. Lòng từ của vua trải ra cho dân, lấy đức hạnh cảm hoá dân, dẹp bỏ các hình phạt dã man, nâng cao nhân phẩm của người dân. Vua đã xây dựng được đất nước an vui, thuần từ.

 

Vua Ðại Quang dùng đức trị dân vì ông ra đời trong hoàn cảnh tốt, nước giàu, dân tốt, giỏi, phước đức đầy đủ như vậy, mọi việc tự động tốt. Ngược lại, sinh vô thế giới chiến tranh, lạc hậu, nghèo khổ, ác độc thì phải dùng pháp luật để trị cho yên.

 

Thiện ác, tốt xấu là hai thể tương đối của cuộc đời mà chúng ta cần khéo vận dụng trên đường hành Bồ tát đạo. Hai mẫu vua này được kinh Hoa Nghiêm đề ra nhằm dung hoá tốt xấu, cả hai đều là đạo.

 

Theo tinh thần ấy, chúng ta học với người xuất gia và cả cư sĩ tại gia, thậm chí học với trẻ thơ chưa biết suy tư. Hành đạo theo Hoa Nghiêm, có người đau khổ đến nhờ tôi giải khổ. Tôi dạy họ nên học với đứa trẻ an vui tự tại mà bà đang bồng trên tay. Bà chỉ cần dẹp bỏ ý thức xấu về người chồng là được an lạc liền. Giải thoát và vô minh phiền não cùng ở một chỗ, biết thì giải thoát, không biết thì khổ.

 

Tóm lại, qua hình ảnh hai vua ác và thiện cho chúng ta ý thức kết hợp thiện và ác, trong ác có thiện và ngược lại trong thiện có ác. Biết như vậy mới có thể tu hành đắc đạo. Ví dụ như có Phật tử tu hành tốt, cúng dường nhiều, nhưng lớn tuổi lại sinh tật, hung dữ, nhiều đòi hỏi thì chết sẽ đọa. Ðó là con đường tu cùng tột thiện để trở thành ác. Ngược lại, có người rất ác, nhưng cuối cuộc đời, họ ăn năn hối cải, trở thành thiện và chết sinh Thiên. Vì vậy, Phật dạy chúng ta đã làm thiện, phải cố nuôi thiện tâm cho phát triển, nếu không phát huy được thì cũng không nên làm mất tâm tốt.

 

Theo kinh nghiệm tu hành, tôi lỡ làm gì mất lòng người, thì thường thao thức, suy nghĩ về lỡ lầm ác của mình mà nuôi thiện tâm. Ngày nay, chúng ta được duyên lành đến chùa, sống với bạn đạo, nên gieo vào lòng người cảm tình tốt, để đời sau gặp lại nhìn nhau trong thiện cảm, cùng làm thiện nhiều hơn nữa, cứ như vậy tiến tu dễ thành Phật.

 

Chính nhờ quá khứ chúng ta đã xây dựng được tốt lành với bạn bè, nên đời này họ mới thương ta, hợp tác với ta; nhưng dại dột đánh mất mối tương quan thiện cảm ấy thì gặp lại trong mối thâm thù, quả là uổng phí và đáng sợ.

 

Ðức Phật dạy rằng tu Bồ tát đạo phải biết tổng hợp để biến tất cả thành thiện căn công đức. Theo tinh thần ấy, vua Vô Yểm Túc sống trong nước tội lỗi phải xử trí bằng những hình phạt khủng khiếp để xã hội yên lành. Nhưng mọi việc đều yên ổn rồi, không cần làm như vậy nữa, cộng thêm đức hạnh của vua, không cần làm mà việc thành vì được nhiều người giúp sức, như vua Ðại Quang, thì càng siêng năng càng dễ thăng hoa.

 

19 - Thiện Tài Cầu Ðạo Với Bất Ðộng Ưu Bà Di.

 

Trên bước đường tu, quyến thuộc trở thành quan trọng, không dễ tạo được, phải cố gắng gìn giữ. Vua Ðại Quang thành công được nhiều việc thiện vì ông có nhiều người tốt giúp sức, trong đó phải kể đến Bất Ðộng Ưu bà di. Vì vậy, vua giới thiệu Thiện Tài đeán học với Bất Ðộng Ưu bà di. Ưu bà di này không lập gia đình nên gọi là đồng nữ, chơn tánh còn nguyên vẹn, không bị trần thế làm nhiễm ô.

 

Ðặc biệt của đồng nữ Bất Ðộng là không hề giao động trước mọi việc trần gian, vì sống trong thành Thiện Trụ mới có tâm bất động. Ý này rất quan trọng. Thiện Trụ nghĩa là khéo tìm pháp để an trụ.

 

Phật khuyên chúng ta tu muốn đạt kết quả tốt cần phải nương pháp Phật, lựa chọn pháp mà chúng ta taâm đắc để sống, hành trì, chúng ta mới thanh tịnh được. Còn rời xa pháp vào đời, chắc chắn bị đời lôi kéo, làm ô nhiễm. Ðó là phương cách dành cho hàng sơ và trung căn, nên an trụ pháp phương tiện.

 

Ðức Phật có hai pháp : pháp phương tiện và pháp chân thật. Pháp phương tiện tức tùy duyên mà hành đạo, chúng ta cũng có thể trở thành vô động. Ở đâu, chúng ta phải tùy thuộc chỗ đó, ở nước này mà muốn giống chỗ khác, không bao giờ được.

 

Trước khi đi Pháp, tôi suy nghĩ kỹ ý này. Tôi luôn nhớ phải an trụ pháp phương tiện của Phật, nghĩa là tùy duyên mà sống, ở chùa Trúc Lâm không phải là Án Quang hay Xá Lợi và trăm người trăm ý, làm sao vừa lòng tất cả, mình mới yên thân.

 

Tôi lạy Phật để lòng thanh tịnh và phương tiện tìm được ở đây là mọi người đều xa quê hương, ngày Vu Lan gợi họ nhớ tổ tiên ông bà; nên tôi triển khai điểm chung là mối liên hệ thân thương của chúng ta với cửu huyền thất tổ như thế nào theo Phật dạy để mà đáp đền ơn đức ấy. Trong thời pháp, mọi người đều cảm động đến rơi lệ và tôi đã được giải thoát thật !

 

Thuở quá khứ xa xưa, Bất Ðộng Ưu bà di phát tâm bồ đề trong hoàn cảnh cũng thật đặc biệt, lúc đó đồng nữ là công chúa. Vua cha sinh nhiều con trai, nhưng chỉ có đồng nữ là con gái, nên được cả triều đình quý mến. Một hôm, công chúa ở trên lầu ngắm xem tinh tú. Hướng nhìn trời và muôn vì sao đến độ xa thẳm, tức tập trung tư tưởng đến độ cao nhất, thì thấy thế giới Phật hiện ra với Ðức Phật đầy đủ uy nghiêm tướng tốt, thấy Phật hành đạo, thấy Thánh chúng và tất cả chúng sinh đang sinh hoạt.

 

Thấy như vậy rồi trở lại cuộc sống trần thế, công chúa không còn ham muốn gì và tâm không còn mê muội. Những pháp Phật thuyết và Bồ tát hành đạo, bà không bao giờ quên và mọi thứ không còn khả năng lôi cuốn, nên mới có danh xưng là Bất Ðộng.

 

Và dẫn đến đời nào, kiếp nào, tâm cũng không chao đảo vì tâm này sống dưới dạng pháp giới, sinh hoạt ở dạng thể tánh của muôn vật vốn bất động, nên đồng nữ này trụ bất động.

 

Chúng ta giao động vì đã rời bỏ chơn tánh, đi vào sinh tử. Ta gá tâm trong sinh tử nên bị nó mê hoặc, không còn sáng suốt, chủ động được việc gì. Ý thức như vậy, trên bước đường tu, dù gặp sóng gió ba đào đến đâu, chúng ta phải cố trụ tâm. Một khi tâm ta giao động theo sóng triều trần thế là biết mình đang rời xa chơn tâm, phải kéo lại bằng cách thọ trì đọc tụng lời Phật dạy để tìm lại sự an lành cho chính mình.

 

Cần tâm niệm rằng trong thế giới xô bồ nhiều khổ đau này, nếu không làm được gì cho ai thì chính bản thân ta cũng đừng loạn động, làm được như vậy là ta đã đóng góp cho sự an tâm của người khác.

 

Trong quá trình tu, đồng nữ Bất Ðộng tu định, thươøng trụ ở thể tướng vắng lặng, vượt ngoài sự chi phối của hiện tượng sinh diệt. Ðối với Bất Ðộng, lúc còn trong thai mẹ thọ ngũ uẩn thân, tâm cũng không mờ tối. Trong khi các Bồ tát khác vào thai mẹ, chịu ảnh hưởng tư duy của mẹ và khi mang ngũ ấm thân cũng bị nóng lạnh đói khát của thân chi phối; chỉ trừ khi họ sống gần Phật mới trở về trạng thái sáng suốt được.

 

Bất Ðộng Ưu bà di cho biết đời đời kiếp kiếp chỉ tu một pháp giữ cho tâm yên tĩnh, không mê muội, không để cuộc đời lôi cuốn, kinh ghi là tâm như kim cang, tất cả phiền não không phá hoại được. Trải vô số kiếp, bà chẳng khởi một niệm tâm ái dục, huống là làm việc ấy. Vì không quan taâm đến của cải cho đến thân mạng, những thứ này có hay không, đối với Bất Ðộng Ưu bà di cũng không thành vấn đề.

 

Bất Ðộng Ưu bà di hành đạo Bồ tát trên nhân gian bằng cách tĩnh lặng, không giao động trước hoàn cảnh vaø cái chết. Tâm định tĩnh ấy tác động cho người xung quanh bình ổn theo, thể hiện bài pháp sống.

 

Từ tâm định tĩnh nhiều năm, nhiều đời mà Bất Ðộng hiện tướng giải thoát, hiền dịu, dễ thương, tạo thành cuộc sống an lành trong một xã hội không an lành.

 

20 - Thiện Tài Cầu Ðạo Với Biến Hành Ngoại Ðạo.

 

Khi con người chưa giác ngộ, thường có cái nhìn về cuộc đời, về thần linh khác nhau, nên sinh tư tưởng khác biệt cho đến chống đối nhau. Từ đoù, con người nhân danh thần linh mà chống nhau thì Phật coi đó là ngoại đạo.

 

Ở xã hội Aán Ðộ thời Phật tại thế có đến 96 thứ ngoại đạo, chống báng nhau kịch liệt đến sát hại nhau. Phật dạy trong kinh Hoa Nghiêm nhìn ngoại đạo như thế nào và sống với họ ra sao. Nếu chúng ta có cái nhìn đúng đắn sẽ không bị chống và chúng ta cũng có thể hài hoà với mọi tôn giáo.

 

Những người bình thường luôn giao động trước phải trái tốt xấu, nếu thấy người không giống họ thì sinh khó chịu liền. Bất Ðộng Ưu bà di không như vậy, nhờ tâm thanh tịnh, sáng suốt, thấy rõ cuộc đời, thấy người khác đạo cũng có điểm hay, không phải chỉ có đạo của ta mới tốt, còn người thì xấu.

 

Bồ tát tìm học cái hay, cái tốt của người. Với tầm nhìn chính xác, Bất Ðộng thấy ngoại đạo Biến Hành là một người tu hành lợi ích cho đời, bà giới thiệu Thiện Tài đến cầu học.Biến là thay đổi, hành là hành động; hành động luôn thay đổi, không cố định. Ưu bà di thì bất động, còn ngoại đạo này thì biến đổi không ngừng. Nếu biết sử dụng thì biến hành hay bất động cũng đều tốt cả. Bất động hay biến hành đều phải có ý nghĩa, đó là hai mặt của cuộc đời, động hay tĩnh cũng là pháp.

 

Tu xong với Bất Ðộng và tiếp tục học với Biến Hành, nghĩa là đang ở chỗ tịnh và bước qua chỗ động, thay đổi luôn. Có vậy, đạo hạnh mới mở rộng.

 

Ði thẳng về phía Nam, tìm cùng tột chỗ ồn ào náo nhiệt để gặp Biến Hành; nhưng Thiện Tài lại bắt gặp Biến Hành đang kinh hành trên núi vắng vẻ.

 

Ưu bà di bảo Thiện Tài vào chỗ động tìm, nhưng lại tìm gặp Biến Hành trong chỗ bất động, tiêu biểu cho tinh thần Nhập pháp giới. Nghĩa là ở chỗ động mà tâm không động, nâng tâm cao đến mức tột cùng mới thấy được Biến Hành trên đỉnh núi.

 

Biến Hành cho biết ông hành đạo ở chỗ đông người, trong khi ông đang kinh hành chỗ không người. Ðiều này gợi nhắc Thiện Tài sống nơi đông người mà tâm hoàn toàn không động loạn, hay đang ở trên ngọn đồi thứ 13 của Pháp Hoa, tác động cho người an tâm. (Ngọn đồi thứ 13 vượt cao hơn 12 ngọn đồi : tham lam, sân hận, si mê, kiêu mạn, nghi ngờ, ác kiến, tật đố, phiền não...)

 

Biến Hành ở trên đỉnh núi thấy được 96 dị kiến ngoại đạo, có thể hiểu đó là lập trường của các triết học khác nhau ở Aán Ðộ thời bấy giờ. Thấy như vậy, ông hành đạo ở nhân gian, đến với mọi người như một người bạn đồng tình. Họ làm gì, suy tư gì, ông cũng có suy tư, hành động giống như vậy, nên họ cảm mến ông, nhờ đó ngày qua ngày, ông dìu dắt họ từng bước, đưa họ trở về Phật đạo. Bên ngoài đóng vai ngoại đạo, nhưng thực sự thể hiện Bồ tát đạo.

 

Biến Hành cho biết ông làm tất cả việc và sống gần mọi người, nhưng họ không biết ông từ đâu đến. Ðây là một cách hành đạo của Bồ tát, vào đời cứu độ, không nhân danh đạo nào. Tùy theo tâm chúng sinh mà Bồ tát thể hiện tương ưng, còn bản chất thực sự của Bồ tát là bồ đề tâm, đại bi tâm. Nói rõ hơn, Bồ tát đứng cùng một quan điểm của họ, lấy thao thức của họ làm tâm trạng mình và lần hồi khai mở ý thức mới mà họ chấp nhận được, đưa đến giải quyết tốt đẹp mọi khó khăn cho họ.

 

Qua hình ảnh Biến Hành ngoại đạo, kinh Hoa Nghiêm minh định lại lập trường, theo đó, nếu là chánh đạo thì phải dung được mọi người. Phật dạy chúng ta nhìn ngoại đạo với cách nhìn rộng mở, khoan dung để chung sống.

 

Trên bước đường tu, tôi cảm nhận sâu sắc lời dạy ấy của Phật. Qua kỳ hội nghị về Hòa bình tại Milan, nước Ý, tôi quan sát sinh hoạt của các tôn giáo khác, thấy được nhiều người, nhiều việc đáng cho ta kính trọng. Theo tôi, người có chí tu hành thì ở tôn giáo nào cũng tốt. Tôi có dịp tiếp xúc vơùi một vị tu Kỳ Na giáo là một tôn giáo có đồng thời với Phật, thấy được họ cũng có điểm đáng thán phục. Ông này chỉ ăn toàn trái cây, không ăn gì khác, quý vị thử nghĩ ăn như vậy nổi không, không có tinh bột thì chaéc chắn là bị xót ruột, khó chịu nổi. Vậy mà họ vẫn khoẻ, an lành, điềm đạm là biết họ có trạng thái thiền định rất sâu.

 

Thiển nghĩ người làm tôn giáo không phải nói hay, nhưng điều quý nơi họ là trạng thái tinh thần lắng sâu. Họ hiểu người qua cuộc sống tâm linh hơn là ngôn ngữ, chỉ nhìn nhau đã cảm thấy hiểu nhau. Tôi nghĩ tất cả người tu chân chính đều rất tốt, còn bài bác nhau vì họ tu chưa đến nơi hoặc lợi dụng tôn giáo. Tu thật thì phải cảm thông nhau, như ngoại đạo cũng thấy Phật là Thầy.

 

Tôi tìm thấy nguồn vui kỳ lạ khi được sống chung với các bạn khác tôn giáo. Nhất là trong giờ phút thiêng liêng cầu nguyện cho Hoà bình, ý thức tôn giáo khaùc biệt đều được dẹp sạch, chỉ nghĩ mình có trách nhiệm là người trên trái đất phải thương yêu nhau.

 

Các giáo chủ tôn giáo đều dấy lên niềm thông cảm, dù sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo hoàn toàn khác nhau. Tất cả dường như thông nhau bằng thứ ngôn ngữ phát xuất tận đáy lòng, nối kết nhau bằng tình thương và lòng kính mến. Ðiều quan trọng tôi nhận ra trong sinh hoạt lúc ấy là mọi người đã vượt qua ý thức bảo thủ tôn giáo mình để hoà nhập cùng cộng đồng nhân loại trong vũ trụ bao la.

 

Cảm nhận ấy gợi tôi nhớ đến kinh Hoa Nghiêm, nhớ đến hành đạo của Ðức Phật. Phải chăng đấng Ðạo sư của chúng ta đã nhiều lần cảm hoá được hàng ngoại đạo, vì Ngài sử dụng được tâm hồn bao la dung chứa muôn loài mà kinh Hoa Nghiêm gọi là Nhập pháp giới, tức thông được mọi loại hình chúng sinh, mọi ngôn ngữ, tất cả hiểu nhau, cảm mến nhau trong yên lặng.

 

Từ ý này, tôi cảm nhận được kinh Hoa Nghiêm và hình ảnh Biến Hành ngoại đạo liền hiện ra trước mặt tôi. Biến Hành hay Bồ tát lớn tu đắc đạo, tùy nhân duyên hiện thân tương ưng với hoàn cảnh để cứu độ, đưa người về đường thánh thiện.

 

Tôi nhận ra ý này rõ khi sinh hoạt ở Milan, nơi đó Thánh S.Egidio được kính trọng tuyệt đối vì dấn thân lo cho người nghèo. Tôi cũng tự giới thiệu là Hội trưởng Hội Từ thiện Nhân dân Quận 10, tức ta và họ có hoạt động từ thiện xã hội giống nhau, để dễ cảm thông nhau.

 

Sau cùng tôi phát biểu được mọi người tán thành : Thiết nghĩ ở trần gian có nhiều hình tướng khác biệt, nhưng trên thiên thượng chắc chắn phải giống nhau. Ở đó, Phật, Bồ tát, các vị Thánh không hề chống nhau; trái lại, các Ngài gặp nhau trong suy tư, trong hành động tốt lành nhất. Hy vọng rằng tôi sẽ gặp quý vị ở cảnh giới chân thiện mỹ ấy.Học được với Biến Hành, nghĩa là tôi tìm được điểm hay của ngoại đạo. Ở chơn tánh không có tốt xấu, nhưng hiện trên cuộc đời có tốt xấu, từ đó Bồ tát thương nhân gian thị hiện sinh lại cuộc đời dưới mọi loại hình; đó là góc độ mà chúng ta nhìn về ngoại đạo.

 

Và khác hơn ngoại đạo nữa là chúng ta tìm tri thức ngay trên cuộc đời, không phải tìm trong giấc mộng. Trong đời sống thường nhật, xung quanh tôi không ít những người bạn có điểm tốt mà tôi học được.

 

Phật dạy chúng ta tu nhìn mọi ngươøi trong xã hội, từ thấp đến cao, từ xấu đến tốt, trong tốt chúng ta tìm được tốt đã đành, mà trong xấu vẫn tìm được tốt. Tu theo tinh thần ấy của kinh Hoa Nghiêm mới sống thật với ý nghĩa bình đẳng của đạo Phật.

 

Phật dạy tinh thần bình đẳng trong các kinh, nhưng ở kinh Hoa Nghiêm, chúng ta mới triệt để thực hành ý này; tất cả đều là tri thức của chúng ta nếu biết ứng dụng tốt và tất cả đều do nghiệp khiến ta làm xấu hay tốt, tức do taâm là động cơ bên trong thúc đẩy.

 

Theo kinh nghiệm tu, khi tôi gặp ác nghiệp có thể sinh khởi thì phải chận lại ngay. Gặp người mà ta khó chịu, sao làm lành được, phải tránh mặt. Người mà ta không thương được, tốt hơn chúng ta đừng nói, đừng nhìn. Chỉ gặp người chúng ta thương, tâm hồn ta dễ an lạc.

 

Có người bị mọi người ghét, nhưng sao chúng ta thương họ được, là biết ta và họ có thiện nghiệp, ta đã tìm được điểm tốt trong người xấu.

 

21 -Thiện Tài Cầu Ðạo Với Trưởng Giả Ưu Bát La Hoa.

 

Trên đường cầu đạo, Thiện Tài học với Bất Ðộng Ưu bà di rồi tiến qua học với Biến Hành ngoại đạo và nay lại đến với trưởng giả Ưu Bát La Hoa. Quá trình tu học này thể hieän ý nghĩa khi gặp hoàn cảnh động, thì phải trụ tâm bất động, đểø không bị đời làm ô nhiễm.Nhưng hoàn cảnh đổi khác, tốt hơn, Thiện Tài không nên khoanh tay, ngồi yên để không giao động; mà trái lại, cần hành động, hành động thay đổi nhịp nhàng cho thích hợp lợi lạc chúng sinh là học được ở Biến Hành.

 

Nay, tiến lên, đem đạo vào đời làm đẹp cho đời như trưởng giả Ưu Bát La Hoa. Ưu Bát La Hoa chuyên kinh doanh tất cả hương : hương bột, hương xoa, hương đốt.... Ông biến chế hương và làm giàu bằng nghề này. Trưởng giả đi khắp thiên hạ, từ thiên thượng xuống đến long cung, tổng hợp tất cả hương, nghĩa là những điều hay đẹp của mọi người và phát ra loại danh hương mà những trưởng giả phàm phu khác không thể nào chế biến được.

 

Thật vậy, Ưu Bát La Hoa điều chế được một loại hương mà chỉ đốt một viên, cả thành phố đều vui. Những người ganh tỵ ngửi mùi hương này, tánh ác tự tiêu diệt. Có loại hương đốt lên, tánh tham lam ích kỷ cũng biến mất.

 

Ưu Bát La Hoa là hoa sen hay mùi hương đặc biệt trên đời không có, tiêu biểu cho người tạo nhiều công đức, phụng sự cho đời. Ðiều này cũng nhằm gián tiếp chỉ Ðức Phật là vị Ðạo sư toàn đức, toàn trí, giúp biết bao người thăng hoa cuộc sống.

 

Ưu Bát La Hoa dạy Thiện Tài hành đạo phải biết lo cho cuộc sống mọi người. Có giúp đỡ được người, làm những việc giỏi hơn họ, mới có thể khuyên họ. Ta không bằng người thì dạy đạo giải thoát cũng vô ích.

 

Ngoài ra, Ưu Bát La Hoa nhắc nhở Thiện Tài nên nhìn người dưới dạng nghiệp báo của họ, thấy được người nghèo hay giàu đều do nghiệp quyết định. Không phải do chúng ta giúp hay hại được. Chỉ có phước cứu họ hay nghiệp hại họ. Chúng sinh không biết như vậy, chỉ thích được cứu giúp và muốn hại người họ ghét. Hiểu đạo rồi, thấy rõ không ai có thể hại người có phước và nghiệp.

 

Thực tế, có người chúng ta giúp hoài, nhưng họ cứ lụn bại dần, không ngóc đầu lên nổi. Không phải nhờ ta giúp mà họ giàu, biết như vậy rồi, chúng ta tìm cách giúp cho người phát triển tốt, không giúp để họ lợi dụng, tăng trưởng lòng tham.

 

Khi giúp người đúng pháp, của cải ta lại tăng thêm, không vì bố thí mà trở thành thiếu hụt, nghèo khổ. Càng bố thí, nguồn nước chúng ta càng trong, không giúp người, nước trở thành ao tù. Ðó là cách sống của mẫu người giàu, có điều kiện tốt để làm phước, làm đẹp cuộc đời, người sinh cảm tình quý mến; không làm như vậy quả là uổng phí.

 

Ðức Phật đưa ra mẫu trưởng giả giàu có, sống đẹp, đáng được kính trọng. Giúp người nhưng không có ý xem thường họ, Bồ tát chẳng thiệt thòi gì, trái lại người nhận càng quý Bồ tát hơn và sau họ sẽ bắt chước, làm thay Bồ tát. Họ không có ý ăn đậu ở nhờ thì nghiệp của họ hết và họ lại khởi ý niệm tốt giúp lại người, cuộc đời họ từ đó sẽ đổi mới tốt đẹp hơn. Cách bố thí của Bồ tát là như vậy.

 

Giúp người là phương tiện mà Ưu Bát La Hoa sử dụng để dẫn đến cứu cánh giáo hóa người trở thaønh tốt, lợi ích cho đời. Ông bố thí thì người tìm đến, từ đó nhìn thấy được việc làm tốt của ông, khiến họ kính trọng và phát tâm làm tốt như ông. Thực sự ông đã thuyết pháp bằng hành động, bằng cuộc sống cao quý.

 

Maëc dù giúp được người, Bồ tát luôn tâm niệm rằng nhờ có người xin, mới có dịp bố thí và lấy đó làm hạnh tu, sinh tâm hoan hỷ theo việc làm thiện. Hoặc tu theo Bồ tát, chúng ta cũng cảm nhận sâu sắc rằng có người chống phá, ta mới có điều kiện nhẫn nhục.

 

Trên bước đường tu suốt 50 năm, ngày nay tôi được như vầy nhờ đụng chạm với hoàn cảnh không mấy dễ dàng, mới luyện được ý chí. Thiết nghĩ nếu tôi sống trong tháp ngà, chắc chắn cũng có đủ tật xấu.

 

Trưởng giả Ưu Bát La Hoa giúp đỡ người, làm họ vui, từ đó ông mới giới thiệu pháp cao hơn mà ông cũng mơ ước, nhưng nhận thấy Thiện Tài thông minh, có thể tiến xa hơn ông, nên khuyên Thiện Tài đến học với Thuyền trưởng Bà Thi La.

 

22 - Thiện Tài Cầu Ðạo Với Thuyền Trường Bà Thi La.

 

Bề ngoài, Bà Thi La cũng giống như các thuyền trưởng khác, nhưng bên trong ông có điểm đặc biệt mà người bình thường không thể vói tới. Bà Thi La nói rằng ông biết trong biển cả, chỗ nào có của báu, chỗ nào có quỹ La Sát và dắt chúng nhân đến tìm của báu, trở về ai cũng giàu. Bà Thi La dùng phương tiện ấy để giáo hoá vì biết rõ chúng sinh ở Ta Bà, lòng tham ngũ dục còn tràn đầy.

 

Sống trên cuộc đời này, ai cũng muốn giàu sang, sung sướng, được của báu. Muốn giáo hoá họ phải tùy theo ham muốn ấy, không thể làm khác. Họ đang muốn làm giàu thì phải tạo điều kiện cho họ làm giàu, còn bảo họ cạo đầu, đi khất thực, chắc chắn họ không nghe.

 

Trên đường hành đạo, tôi có kinh nghiệm này. Một sinh viên đến tuổi bị bắt đi quân dịch, sợ quá, "Nhờ thầy cứu con". Tôi khuyên anh ăn chay, tuïng kinh Pháp Hoa, lạy Phật thì anh răm rắp làm theo. Nhưng khi thoát khỏi nạn khổ sinh tử ấy, thì chẳng thấy bóng dáng anh ta. Một hôm, tình cờ gặp lại, anh cho biết lúc này ăn chay hết nổi, tụng kinh lạy Phật mệt quá, khoâng có thì giờ !

 

Hiện hữu trong sinh tử, chúng ta phải học theo cách giáo hoá của thuyền trưởng Bà Thi La, tức đáp ứng yêu cầu của người, họ mới có cảm tình, nghe lời ta. Tuy nhiên, khi họ tinh tấn tu hành sẽ nhận được sưï gia trì, vượt qua khó khăn đến chỗ an vui. Nhưng giàu rồi, an ổn, sung sướng rồi, họ lại quên tu. Nếu chúng ta có lực gia trì mạnh thì giúp mặt này xong, phải chận mặt khác, đó là cách thuyền trưởng hành sử. Họ sướng, không tu, chúng ta cũng có lực gia trì áp xuống cho họ. Khi họ hưởng hết phước, tai họa thứ hai giáng xuống, khiến họ có dịp nhận ra rằng nhờ tu mới thoát nạn được. Nhưng họ còn đang hưởng phước lạc, ta nói gì cũng không nghe, cứ thả cho họ sống đến ngày họa tới, tự động phải nghe ta.

 

Việc làm của thuyền trưởng Bà Thi La là của Bồ tát giáo hóa phải theo dõi họ đến nơi đến chốn, cho đến khi họ giải thoát thật sự. Ở đây, Bà Thi La đưa người tìm châu báu, ngầm chỉ chúng ta tùy người, tùy phương tiện giúp họ rồi mới có điều kiện đưa họ ra khỏi sinh tử.

 

Kinh Hoa Nghiêm đưa ra nhiều mẫu người hành Bồ tát đạo không mang hình thức xuất gia, nhưng vẫn thể hiện tinh ba Phật pháp, lợi lạc quần sinh.

 

Bà Thi La dắt chúng nhân đến lấy của báu, còn ông thì không có gì, gợi cho họ suy tư, may ra bắt gặp được Bồ tát Pháp thân của Bà Thi La. Và từ đó nghĩ đến phát triển Pháp thân của chính họ. Ông thoả mãn yêu cầu của chúng sinh và lần hồi đưa họ vào bể cả, chỉ rõ chỗ nào có La Sát, chỗ nguy hiểm có quỹ dữ ....nhằm gợi ý cuộc đời họ đang sống là biển khổ sinh tử. Chính vì vậy mà ông không ham thích việc lấy của báu, dù biết rõ.

 

Chúng sinh ưa thích thì dẫn họ đi, nhưng ông không lấy. Ông dìu dắt họ nhìn biển cả mà thấy được biển khổ sinh tử và từ đó ý tưởng ham muốn châu báu vơi lần đi, dần dần họ hướng tâm mong cầu cái cao hơn mà Bà Thi La đang tu là biển trí tuệ.

 

Bà Thi La dùng trí tuệ Như Lai thấy rõ chỗ nào an nguy, chỗ có châu báu hay quỹ dữ để đưa người tránh xa và đến nơi an lành. Rồi ông cho biết không còn ở đây lâu, mọi người phải bước vào biển trí tuệ để tự đi. Nói cách khác, bước đầu, Bồ tát hướng dẫn ta và từng bước, chúng ta phát sinh trí tuệ để tự giải thoát và hướng dẫn lại người khác.

 

Tóm lại, từ quá trình thấy biển khơi, hình dung ra biển phiền não, nhàm chán nó để phát hiện ra biển trí tuệ, không còn gặp khó khăn nào trên đường hành đạo là thâm nhập vào biển pháp tánh. Bà Thi La bề ngoài là thuyền trưởng, nhưng bên trong là Bồ taùt có khả năng lái thuyền Bát Nhã, dùng trí tuệ đặc thù hướng dẫn người phát huy tri thức đạo đức, ra khỏi biển sinh tử.

 

Ðó là phương cách hành đạo của Bồ tát nhập pháp giới, thị hiện trên nhân gian, làm các ngành nghề giống mọi người để cuối cùng đưa tất cả về bờ giác.

 

23 – Thiện Tài Đồng Tử Cầu Đạo với Vô Thượng Thắng hay Di Lặc Bồ Tát.

 

Thuyền trưởng Bà Thi La dạy cho Thiện Tài thấy rõ cuộc đời là biển khổ và chỉ phương cách vượt sinh tử để vào pháp giới. Thâm nhập pháp giới tánh mới thấy xuất xứ của lục đạo tứ sinh. Từ đó, Bà Thi La mới bảo Thiện Tài tiếp tục đến học đạo với trưởng giả Vô Thượng Thắng. Vô Thượng Thắng hay Vô Nan Thắng là tên khác của Di Lặc Bồ tát.Vô Thượng Thắng là người có hiểu biết vượt bực và đặc biệt có sức thuyết phục, tác động mọi người.

 

Tương truyền Ngài Vô Trước nằm mơ thấy lên cung Trời Ðâu Suất và nghe Di Lặc Bồ tát giảng về những chuyển biến trong nội tâm con người. Sau đó, trở về nhân gian, Ngài hệ thống hóa, hình thành pháp môn Duy Thức học giải thích nguyên nhân tạo nên hình tướng và tâm trạng khác nhau của con người trên cuộc đời: xấu đẹp, giàu nghèo, giỏi dở, hạnh phúc hay khổ đau, thông minh hay khờ khạo, v.v...

 

Sau khi sở đắc trí tuệ siêu tuyệt của Vô Thượng Thắng, thấy được cốt lõi cấu tạo nên con người hay muôn pháp trong vũ trụ, Thiện Tài mới đến diện kiến Tỳ kheo Ni Sư Tử Tần Thân.

 

24- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Đạo Với Tỳ Kheo Ni Sư Tử Tần Thân.

 

Về vấn đề nam nữ, trong thời đại chúng ta, phần nhiều luật pháp các nước đều công nhận bình đẳng. Maëc dù được thừa nhận như vậy, nhưng thực chất của người nữ có ngang hàng với phái nam hay chưa, mới là điều quan trọng. Trong đạo Phật đặt nặng thành quả tu hành, từ đó xét ở góc độ tài năng, đức hạnh, tâm tưởng của người nữ có thực sự giống như người nam hay không. Thiết nghĩ để được ngang bằng với người nam, người nữ cần phát huy ưu tánh của mình.

 

Sư Tử Tần Thân là biểu tượng chỉ cho sự bình đẳng bên trong, không phải bình đẳng bên ngoài. Nghĩa là trên Phật tánh thì bình đẳng, nhưng thực tế cuộc sống có khác nhau. Chính vì Phật tánh bình đẳng nên ta phấn đấu tu hành đều sẽ thành Phật.

 

Sư Tử Tần Thân tiêu biểu cho Phật thân, bề ngoài mang hình tướng Tyø kheo Ni nhưng khả năng vượt hơn Bồ tát Di Lặc. Di Lặc cho biết Ngài không bằng Sư Tử Tần Thân vốn là Phật rồi, nhưng thị hiện thân hình Tỳ kheo Ni đang ở trong vườn Ðại Quang. Tỳ kheo Ni này được vua Thắng Quang kính trọng hơn tất cả pháp sư khác và đem dâng cúng vườn ngự của vua để hành đạo. Ðiều này gợi chúng ta suy nghĩ vị Ni sư này phải có khả năng phi thường nào đó. Chính Di Lặc nói với Thiện Tài rằng bề ngoài thấy hình dáng người nữ, nhưng bên trong thật là vị Phật; đó là điều mà Thiện Tài đáng học với Tỳ kheo Ni Sư Tử Tần Thân.

 

Bằng trí huệ học được với thuyền trưởng Bà Thi La và Vô Năng Thắng, mới thấy được Ðức Phật tiềm ẩn bên trong Tỳ kheo Ni Sư Tử Tần Thân. Do học được pháp phân tích tâm theo Di Lặc Bồ tát, tức phân biệt được những nguyên tố tạo nên con người. Vì vậy, không thấy Sư Tử Tần Thân là cô Ni tầm thường như bao người, nhưng thấy được sức thu hút mãnh liệt của Ngài khiến vua phải quy ngưỡng. Ngoài ra, cả Bồ tát từ sơ địa đến thập địa cho đến chúng hội từ Tịnh Cư Thiên, Tha Hoá Tự Tại Thiên, Ðâu Suất Thiên... và các loài chúng sinh đều tụ họp đến nghe Sư Tử Tần Thân thuyết pháp. Tất cả Bồ tát và chúng sinh trong vườn Nhật Quang đều do Sư Tử Tần Thân Tỳ kheo Ni khuyên phát tâm thọ trì chánh pháp, đều được bất thối chuyển nơi đạo Vô thượng chánh giác.

 

Trong khu vườn, dưới mỗi cội cây có một toà sen và mỗi toà sen có một Sư Tử Tần Thân và chúng hội vây quanh. Như vậy, Sư Tử Tần Thân không phải là một người, một Ni cô. Mỗi toà sen đều có một Tỳ kheo Ni mang hình dáng giống y Sư Tử Tần Thân. Trong chúng hội, mỗi người có yêu cầu riêng, không giống nhau, nhưng tất cả đều nghe được pháp đúng theo tâm ý họ. Ðây là việc khó làm, kinh gọi là ưng hiện sắc thân, nghĩa là chư Thiên cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, loài người, loài quỹ, rồng, chư Thần... sống như thế nào thì Sư Tử Tần Thân hiện hình tương ưng thuyết pháp, thoả mãn tất cả mong ước của họ.cũng không giúp được người có Thiện Tài quán sát theo trí tuệ của Bà Thi La và theo tâm pháp của Vô Năng Thắng, không thấy pháp hội bình thường như mắt thịt phàm phu thấy, mà thấy Sư Tử Tần Thân chi phối tất cả muôn loài, biến hoá được tất cả thân hình chúng sinh. Ngài cho biết sở đắc chứng được gọi là pháp ý sinh thân. Ngài phổ hiện khắp nhân gian, ai nghĩ thế nào, yêu cầu điều gì, sẽ thấy Ngài đúng như vậy. Ý này cho chúng ta bài học thuyết pháp không phải là chỉ nói suông, phải thoả mãn được yêu cầu của người và đưa họ về sống với chánh đạo.

 

25- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Bà Tu Mật Ða Nữ.

 

Học xong với Sư Tử Tần Thân là vị xuất gia có đầy đủ ba ngàn oai nghi, tám muôn tế hạnh, vị Tỳ kheo Ni này lại giới thiệu Thiện Tài đến cầu đạo với mẫu người hoàn toàn trái ngược. Ðó là Bà Tu Mật Ða làm kỹ nữ. Ðến cầu học với Bà Tu Mật Ða vì trên bước đường học đạo Bồ tát, Thiện Tài không từ chối bất cứ việc làm nào ở trần gian. Làm được nhiều việc khó là Bồ tát lớn, làm được tất cả là Phật.

 

Bà Tu Mật Ða là Bồ tát lớn mà kinh Hoa Nghiêm giới thiệu rằng bà hiện thân vào tầng lớp xã hội, làm nghề bán hương sắc cho người mua vui. Nhưng đối với Sư Tử Tần Thân, vị này hoàn toàn đáng kính trọng.

 

Có người nghĩ Thiện Tài đạo đức trong sạch, không nên để cho Bà Tu Mật Ða cám dỗ, phải tìm cách ngăn chặn. Nhưng có người hiểu được hạnh của Bà Tu Mật Ða, bảo Thiện Tài nên nghe Sư Tử Tần Thân tìm đến vị này học đạo.

 

Từ trong tâm tưởng, Thiện Tài nghe Bà Tu Mật Ða nói bà chứng được pháp vô tham dục tế. Quả thật, vì Bà Tu Mật Ða chứng pháp vô tham dục, hoàn toàn thanh tịnh nên sắc đẹp của bà không làm cho người khởi lên lòng tham dục. Hảo tướng của Bà có tác dụng giúp người hướng thượng, về với đạo, sống trong giải thoát; trong khi sắc đẹp của người thế gian khiến người khởi tâm nhiễm ô, dùng để khuyến duï người vào con đường tội lỗi.

 

Những người theo Bà Tu Mật Ða không còn sinh tâm tham dục, người trông thấy hoặc nghe bà thuyết pháp liền xa lìa lòng tham ái, sống với phạm hạnh thanh tịnh. Ðiều này chứng minh tác động của sắc thân Bồ tát đã hiển hiện, còn sắc đẹp khêu gợi cho người si ám thì chẳng tốt lành gì.

 

Ðứng ở vị trí chư Thiên quan sát, Bà Tu Mật Ða biến thành thiên nữ đẹp nhất, nhưng nếu Dạ Xoa nhìn thì thấy bà là Dạ Xoa nữ đẹp nhất, bất cứ loài nào cũng thấy bà hiện thân đẹp nhất theo tâm tưởng của chúng. Tuy nhiên, ai thấy cũng đều xa lìa tham dục.Chỉ dưới mắt Thiện Tài đắc đạo mới thấy và hiểu được điều kỳ đặc ẩn chứa bên trong con người như vậy, người bình thường khác chỉ thấy một con người không ra gì tập họp những thành phần đáng khinh chê.

 

Trên bước đường hành đạo, tôi đã gặp một người dưới dạng Bà Tu Mật Ða. Một số Thầy trong chùa khuyên tôi cẩn thận, vì bà này ghê gớm, có nhiều chồng. Nhưng dưới mắt tôi, con người thật của bà ta từ trẻ đến già đã từng trải qua biết bao đen tối của cuộc đời. Hiện tại vì tràn ngập khổ đau, hối hận, nên phát tâm tu, cầu học phaùp giải thoát để vơi bớt phiền muộn. Tôi thấy rõ bà ta phát tâm nên giáo hoá để bà ấy tu tạo được nhân lành, còn nghiệp ác quá khứ thì không nên phê phán. Nhìn bề ngoài thấy họ xấu, nhưng trong lòng còn chút tâm đạo biết giúp người tu. Và chính bà đã ủng hộ tiền gạo giúp cho đạo tràng tu trong những ngày khởi đầu còn nhiều khó khăn.

 

Theo tôi, chúng ta cần thấy rõ một người lúc nào họ xấu, lúc nào tốt. Và từ cùng cực của hành động xấu ác, họ dễ trở thành người tốt nhất. Ðiển hình như vua A Dục nổi tiếng ác, nhưng khi phát tâm tu, không ai tốt bằng ông, hộ pháp đắc lực bằng ông. Từ cùng cực của việc ác, có cái thiện sinh ra, vì họ hối hận hành động ác nên dễ làm điều tốt. Và cùng cực thiện lại sinh ra ác, như người bố thí cúng dường nhiều thường kiêu mạn. Họ cúng nhiều, giúp người nhiều và sinh ra tánh khinh người, nhất định mai kia họ cũng sẽ sa cơ thất thế bị người khinh lại.

 

Tu hành theo tinh thần Hoa Nghiêm, trên chơn tánh hoàn toàn bình đẳng, tốt xấu không khác. Và trên hiện thực cuộc sống, người có hành động tốt, tâm tưởng tốt vì hoàn cảnh phải làm việc xấu, chúng ta vẫn trân trọng, không nên xem thường họ. Thí dụ điển hình như tấm gương hiếu thảo của Thúy Kiều trong truyện Kiều của Nguyễn Du, ai mà không khởi tâm thương xót thân phận khổ đau của người nữ bán mình để cứu cha.

 

Thiết nghĩ nhìn người bề ngoài không đáng tin cậy, nhưng chúng ta thấy được bồ đề tâm của họ và chỉ giáo hoá bồ đề tâm ấy, chắc chắn sẽ cải hoá được họ.

 

26- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Cư Sĩ Tỳ Săc Chi La

 

Cư sĩ Tỳ Sắc Chi La là trưởng giả. Có thể nói thành phần trưởng giả là tiền thân của giai cấp tư bản ngày nay. Thời phong kiến xưa kia, vua chúa cầm đầu quốc gia, bộ lạc. Có những vị anh quân hay minh quân, nhưng thông thường mỗi triều đại, chúng ta thấy chỉ được một vài ông vua ban đầu lãnh đạo tốt, những ông kế tiếp không tài giỏi, thường áp bức quần chúng để củng cố ngôi vị. Họ cũng không có đạo đức, thường ăn chơi, sa đoạ, dẫn đến hậu quả là nền kinh tế suy sụp. Từ đó, vua phải thừa nhận những người có khả năng làm giàu cho đất nước. Ðó là mấu chốt sản sinh ra giai cấp trưởng giả nắm phần kinh tế, có quyền hơn vua.

 

Kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh dung hoá tất cả hệ thống tư tưởng từ Tiểu sang Ðại, dung nhiếp các tư tưởng của chánh giới, triết gia và cả tôn giáo. Việc nào phải, tốt, đúng, dù không phải của Phật giáo, cũng được công nhận, không cố chấp, hẹp hòi.

 

Theo tinh thần phóng khoáng, khách quan ấy, kinh Hoa Nghiêm dung nhiếp những trưởng giả tốt, đưa ra mẫu trưởng giả theo Ðại thừa là biểu tượng người giàu, nhân từ, đức độ, hay cứu giúp người, hoàn toàn khác với loại trưởng giả ác độc ở thế gian, tham lam, ích kỷ, đối xử tàn tệ với công nhân. Theo Hoa Nghiêm, hàng trưởng giả đạo đức, tài giỏi được định vị ngang hàng với Bồ tát, vượt trội hơn Thanh văn.

 

Tỳ Sắc Chi La là cư sĩ lăn lóc với đời, không phải thuộc hàng xuất gia học đạo; nhưng trình độ tu chứng và hiểu biết thì ngang hàng với Bồ tát lớn. Ðiều này gợi chúng ta hình dung ra Phật thường trú Pháp thân được đề cập trong kinh Pháp Hoa.

 

Tỳ Sắc Chi La có cái nhìn về đạo pháp khác hơn giới xuất gia. Thật vậy, các Tỳ kheo thấy Phật Niết bàn, tất cả đều than khóc vì Ðức Phật là cội đại thọ, núp bóng từ bi của Ngài thì sống bình ổn ở thế gian, được vua chúa kính trọng. Phật diệt đoä, không còn nơi nương tựa. Tinh thần này trong kinh Pháp Hoa, phẩm Như Lai thọ lượng ví như người con mất bản tâm, thấy Phật không còn thì hốt hoảng sợ hãi. Ðến phẩm Phổ Hiền Bồ tát khuyến phát ghi rõ sau khi Như Lai diệt đoä, chỉ những người mang tâm hồn Ðại thừa mới tu được. Vì hàng Bồ tát lìa tướng mà tu, các Ngài hiện thân tướng tương ưng theo yêu cầu thế gian, nên không gặp chướng ngại. Thanh văn kẹt hình thức, cứ nghĩ Phật Niết bàn là người tu bơ vơ, chẳng còn ai che chở.

 

Kinh Hoa Nghiêm nâng lên một nấc cao hơn, nói lên tinh thần Bồ tát đạo, thể hiện bằng hình ảnh cư sĩ Tỳ Sắc Chi La. Tỳ Sắc Chi La khẳng định không thấy có một Như Lai nào vào Niết bàn. Nếu có Niết bàn chăng là thị hiện để giáo hoá chúng sinh. Ý này được kinh Pháp Hoa diễn tả rằng đối với người con uống lầm thuốc độc, bị mất bản tâm, lương y mới nói dối rằng ông đã chết. Ông thật còn sống mà nói chết. Thật còn sống là Tỳ Lô Giá Na Pháp thân thường hằng, bất tử. Chỉ có sinh thân Thích Ca Mâu Ni vào Niết bàn.

 

Tỳ Sắc Chi La hiện thân cư sĩ, nhưng thấu tột nguồn tâm và khế ngộ chân lý; giữa Tỳ Sắc Chi La và Phật thông nhau, mới thấy không có Phật Niết bàn và chứng bất bát Niết bàn tế. Chẳng những Thích Ca Mâu Ni không Niết bàn mà tất cả Phật quá khứ như Ca Diếp, Câu Na Hàm Mâu Ni, Câu Lưu Tôn..., ông cũng thấy không vào Niết bàn.

 

Và chư Phật trong hằng hà sa số pháp giới cũng vẫn hiện hữu. Cả Phật vị lai cũng hiện hữu. Ðối với Tỳ Sắc Chi La, trong tất cả pháp giới đều có chư Phật hiện hữu. Cốt tủy của kinh Hoa Nghiêm ở chỗ đó. Thích Ca Mâu Ni là Phật đã thành và chúng ta là Phật sẽ thành. Sẽ thành vì có Phật chủng ở bên trong. Khi đọa tam đồ, Phật chủng ấy không mất, không thay đổi và lúc thành Phật, hạt giống Phật ấy cũng không tăng thêm. Rất tiếc, chúng ta không thấy hạt giống Phật của mình và của người. Ðối với Tỳ Sắc Chi La, vì đã thể nhập vào pháp giới Hoa Nghiêm, tất cả đều là Phật, không có người nào không là Phật.

 

Phật chủng nằm trong thân xác hữu hạn maø kinh ví như đảy da đựng ngọc quý hoặc lau sạch gương thì hình ảnh hiện lên. Ta bị phiền não nhiễm ô ngăn che bên ngoài, Phật chủng không hiện ra được. Ngài bảo mọi người đều là Phật, nhưng tại sao ta không vận dụng cái cao quý ấy mà cứ tự nhận lấy cái khổ. Ðối với phàm phu thì điều này kỳ lạ, nhưng đối với Tỳ Sắc Chi La thì hoàn toàn đúng. Hễ ngừng vọng tưởng điên đảo là có chân hạnh phúc, giống như ta chưa đói nghèo, nhưng sợ đói nghèo mà tự khổ.

 

Người nhiều phiền não, lo lắng đè kín chơn tâm làm cái thấy họ sai lệch. Khi vô minh ngăn che, không thấy sự thật, tạo thành ảo giác. Vì vậy, người nào cởi bỏ phiền não bao nhiêu, tâm họ sáng suốt bấy nhiêu, gần Phật bấy nhiêu. Phật này là chân lý, là sự thật trên cuộc đời.

 

Tỳ Sắc Chi La tuy mang thân cư sĩ nhưng đã tiếp cận chân lý, thấy được hiện hữu vĩnh hằng của Phật, Phật không Niết bàn và mọi người đều là Phật. Vì Tỳ Sắc Chi La nhìn người qua lăng kính Phật và xử trí với họ như vậy, tạo thành độ cảm, người cũng thấy Ngài là Phật, xây dựng thành cộng đồng hiểu biết, thương yêu, người hết lòng hợp tác, tạo sự nghiệp tốt đeïp cho trưởng giả mà họ coi là sự nghiệp chung.

 

Nhật Liên thánh nhân cũng lảnh hội ý này, sau 49 ngày thiền định, Ngài cho biết chẳng những Phật quá khứ, hiện tại hiện hữu mà cả những người vị lai cũng là Phật, không phải là Phật sẽ thành. Theo Nhật Liên, không có Phật đã thành, đang thành và sẽ thành mà tất cả đều hiện hữu ở nhứt điểm thời gian. Thấy thế giới quan như vậy, tạo cho ta và người cùng an lành, hỗ tương nhau tu hành.

 

Theo Tỳ Sắc Chi La, tất cả đều là Phật, nhưng vì ta là chúng sinh nên không thấy Phật. Ngược lại, nếu chúng ta là Phật thì không ai không phải là Phật. Tùy mức độ tu chứng, phá vỡ phiền não của ta tới đâu thì điều tốt đẹp sẽ đến tới mức ấy. Trên cuộc đời này không có người xấu, người tốt. Xấu hay tốt là tùy ở ta, không phải ở người. Còn thấy xấu thì nên tự trách ta vụng tu.

 

Ðến chỗ khó hiểu, khó thấy, không chấp nhận mình là Phật, cứ nhận mình thấp hèn, khổ sở. Vì vậy, Tỳ Sắc Chi La bảo hãy chắp tay cầu đức Quan Âm. Nói cách khác, từ chân lý của Tỳ Sắc Chi La chỉ cao quá, không bắt kịp thì phải rớt xuống tìm Quan Âm ở núi Phổ Ðà cứu giúp.

 

27 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Bồ Tát Quán Tự Tại.

 

Tỳ Sắc Chi La tuy là cư sĩ nhưng đã thâm nhập pháp giới, thấy mọi người đều là Phật hay ba đời các Ðức Phật đều hiện hữu. Chân lý này khó diễn tả bằng ngôn từ, khó hiểu được bằng vọng thức điên đảo. Ông bảo Thiện Tài nên tìm hiểu bằng cách đi về phương Nam, đến núi Phổ Ðà tìm Bồ tát Quán Tự Tại.

 

Quán Tự Tại là vị Bồ tát chứng trí Bát Nhã, thấy được thật tướng các pháp, mọi việc trần gian không thể làm chướng ngại việc hoằng truyền chánh pháp của Ngài. Ðạt được như vậy, từ tâm chơn như Bồ tát Quán Tự Tại phát lòng đại bi, thương chúng sinh, thấy chúng thực sự không khổ, nhưng cứ nghĩ tươûng là khổ. Ngài mới thể hiện tâm từ bi bằng cách quán sát, lóng tai nghe tiếng than van, kêu cứu của người trần thế, nên Ngài còn có danh xưng là Quán Thế Âm Bồ tát.

 

Quan Âm kết hợp hạnh tu trong 3 bộ kinh : Bát Nhã, Hoa Nghiêm và Pháp Hoa. Trong kinh Bát Nhã, Quan Âm sử dụng nhĩ căn, luyện tánh nghe đến mức viên thông, không có tiếng than, cầu cứu nào của chúng sinh mà Ngài bỏ sót, nên được tôn là Quán Tự Tại Bồ tát.

 

Thâm nhập trí Bát Nhã, Quán Tự Tại thấy sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều không; từ tri kiến ấy, cuộc đời đối với Ngài không khổ, khổ lụy của cuộc đời không chi phối Ngài được. Quán Tự Tại thanh thản trước sóng gió ba đào vì ý thức sâu sắc ngũ ấm hay mọi việc đều do nghiệp mà tác thành. Kinh Hoa Nghiêm cũng dạy từ nghiệp sinh ra thân tướng của chúng sinh và từ thân tạo thành quốc độ.

 

Trên bước đường tu, chúng ta theo gót Quan Âm, thấy được sự thật nên không còn gì phải sợ hãi. Ta cầu nguyện Ngài và thâm nhập được trí Quan Âm thì chúng ta không còn đau khổ nữa. Vì thế, Ngài tiêu biểu cho Bồ tát thể hiện hạnh thí vô úy. Quan Âm chứng Bát Nhã, tuy không làm gì, nhưng thật Ngài giúp chúng ta hết điên đảo vọng tưởng.

 

Thâm nhập Phật trí ở kinh Bát Nhã, thấy pháp đều không, bước sang kinh Hoa Nghiêm, Bồ tát Quan AÂm là pháp lữ đối với mọi người. Theo tinh thần Hoa Nghiêm, không coù một Bồ tát cố định nào hiện thân ở trần thế. Chúng ta sẽ rơi vào vọng tưởng nếu cho rằng có Quan Âm thật hiện ra. Có thể nói lúc nào đó, tâm chúng ta hoàn toàn thanh tịnh và chánh niệm Quan AÂm, tự nhiên không cảm thấy sợ sệt gì. Theo tôi, đó chính là Bồ tát Quan Âm hiện thẳng vào tâm chúng ta.

 

Kinh nghiệm tu hành của riêng tôi, trên chặng đường nguy nhiểm nhất, tưởng chừng như chết; nhưng nhờ niệm Quan AÂm tương tục, tôi cảm thấy bình ổn lạ thường và vượt qua sóng gió hiểm nguy một cách nhẹ nhàng. Thiết nghĩ Bồ tát Quan AÂm đã ngự trị ngay trong lòng tôi, không phải một Quan AÂm hữu hình ở bên ngoài nhìn thấy bằng mắt.

 

Cảm nhận tinh thần Hoa Nghiêm, từng bước chân đi có bạn đồng hành giúp tôi trưởng thành đạo nghiệp. Tỳ Sắc Chi La cũng bảo Thiện Tài rằng Quan Âm Bồ tát luôn thị hiện làm bạn đồng hành với chúng ta, không phải Ngài là một Bồ tát chiếu rực ánh sáng hiện hữu cho chúng ta quỳ lạy. Ðối với tôi, những pháp lữ đồng hành nhắc nhở tôi từng câu kinh, từng bài kệ, trợ lực cho tôi vượt qua khó khăn, tiến tu đạo hạnh, thì đó là hiện thân của Bồ tát Quan Âm.

 

Quan Âm ở trong tâm, nên từng trường hợp biến dạng không ngừng. Ngài tùy theo nhu cầu mà biến hiện khác nhau, hiện thân già trẻ, sang hèn hay hình thức gì, nghịch cũng như thuận đều tác động cho chúng ta trưởng thành trên đường hành đạo.

 

Danh xưng Quán Tự Tại để diễn tả sự tu chứng và tên Quan Âm diễn tả việc làm. Bồ tát tu nhân theo Hoa Nghiêm, đối với các pháp được tự tại và khởi lên tâm đại bi, nghe tiếng kêu trầm thống của chúng sinh. Trong 32 trường hợp ứng thân của Quan Âm thể hiện quyền năng diệu dụng của Ngài. Tu Hoa Nghiêm và đắc đạo ở Pháp Hoa nhằm diễn tả hai mặt : Nhân và quả của Bồ tát.

 

Quán Tự Tại Bồ tát cho biết Ngài tu pháp quán sát các pháp được tự tại như vậy, còn việc làm kỳ diệu thì nói không cùng, nên Ngài giới thiệu Thiện Tài đến học với Bồ tát Chánh Thu.

 

28 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Bồ Tát Chánh Thư.

 

Từ thế giới Diệu Tạng của Chánh Thu Bồ tát đến cõi Ta Bà phải trải qua bất khả thuyết thế giới. Tuy xa vậy mà chỉ trong một niệm tâm Ngài tới được liền, chúng ta chỉ khởi một niệm tương ưng với Chánh Thu Bồ tát, Ngài hiện ra ngay.

 

Việc làm của Bồ tát như vậy rất khó tin, khó làm. Thiện Tài đảnh lễ Chánh Thu và cho biết ông nương theo Phật huệ và Bồ tát lực thì chẳng những tin mà còn nguyện học và làm như Ngài. Pháp của Bồ tát phô diễn cho chúng ta tin được đã khó, tiếp thu và làm được như Ngài càng khó hơn nữa. Thiện Tài nhờ có căn lành nhiều đời mới tin và tiếp nhận được pháp Bồ tát. Và Chánh Thu cũng cho biết vì Thiện Tài có tâm bồ đề như thế, Ngài mới truyền dạy pháp Bồ tát cho ông được.

 

Theo Bồ tát Chánh Thu, Ngài từ thế giới Diệu Tạng đi qua vô số thế giới, diện kiến vô số Ðức Phật và đảnh lễ, cúng dường, tu học pháp với các Ðức Phật xong, mới đến Ta bà. Tất cả việc làm ấy chỉ caàn thời gian một niệm tâm là đủ. Vì vậy, pháp Ngài chứng gọi là Giải thoát Bồ tát phổ tật hành, có thể đến mọi nơi nhanh như ánh sáng. Có bao nhiêu người nghĩ tưởng đến Bồ tát, Ngài liền xuất hiện làm pháp lữ với họ.

 

Chỉ có pháp như vậy mới có thể hành Bồ tát đạo đúng nghĩa. Việc của chúng ta làm bằng ngũ ấm thân trên cuộc đời, cứ việc này xong, đến việc khác, thiết tưởng như thế thì cả một đời, ta làm chẳng được bao nhiêu. Ý này được Phổ Hiền dạy rằng tu 60 kiếp hàm chứa trong một niệm tâm, có đủ cả 3 thời : Quá khứ, hiện tại, vị lai. Bồ tát theo Hoa Nghiêm học và hành pháp một niệm tâm hoàn thành đầy đủ tất cả việc, trong khi Bồ tát nhân gian mang thân người, phải dứt việc này mới sang việc khác.

 

Thiện Tài nghe pháp thì tiếp thu và vận dụng được trong cuộc sống giống như Chánh Thu Bồ tát. Riêng chúng ta, có người nghe việc làm của Bồ tát thì nghĩ rằng điều đó nhằm diễn tả ước mơ của người xưa. Tuy nhiên, thiết nghĩ, ở thời đại chúng ta, bằng trí thực tiễn của người hiểu khoa học quan sát thì pháp của Bồ tát Chánh Thu chứng đắc là có thật.

 

Ngày nay nhờ phát minh vô tuyến truyền thanh hay truyền hình, chúng ta dễ dàng hiểu tại sao Bồ tát trải qua nhiều thế giới, làm đủ các Phật sự rồi đến Ta bà mà chỉ mất một niệm tâm. Thực tế như sự kiện tranh giải các môn thể thao ở Sea Games được truyền qua vệ tinh rồi từ vệ tinh truyền đến Hoa Sen 2. Và chỉ trong chớp mắt, khắp nước ta, nơi nào có máy truyền hình đều nhận được hình ảnh, âm thanh đang diễn ra ở Inđônêxia do Hoa Sen 2 trực tiếp truyền tải đến. Có thể tạm so sánh cho dễ hiểu là Bồ tát Chánh Thu ví như vệ tinh viễn thông, có khả năng tiếp thu tất cả hình ảnh các Ðức Phật ở vô số Phật quốc. Từ vệ tinh ấy truyền xuống Hoa Sen 2 hay có bao nhiêu hoa sen đều nhận được hình ảnh chuyển tải đến. Cũng vậy, Chánh Thu truyền lực đến các Phật quốc, đảnh lễ chư Phật, làm các Phật sự ở vô số thế giới, tất cả đều nằm trong phạm vi hoạt động của Chánh Thu Bồ tát. Và bao nhiêu người có nhân duyên, khởi tâm nghĩ đến thì Ngài xuất hiện đồng một lúc đầy đủ; giống như có bao nhiêu máy Tivi cũng đều có đủ hình ảnh từ Hoa Sen truyền đến.

 

Chánh Thu Bồ tát xuất hiện ở Ta bà và đồng lúc có Ngài trong toàn pháp giới thể hiện ý nghĩa của kinh Hoa Nghiêm một là tất cả và tất cả có đủ trong một.

 

Hai Bồ tát, một vị là Quán Tự Tại tiêu biểu cho trí và Chánh Thu tiêu biểu cho hạnh, thể hiện ý nghĩa biết tất cả và làm tất cả, nhưng làm trong một niệm tâm thôi. Nói về quốc độ thì Chánh Thu trải qua vô số thế giới trong một niệm, nói về thời gian thì quá khứ, hiện tại, vị lai đều thu nhiếp thành một niệm tâm.

 

29 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Thần Ðại Thiên.

 

Nói đến thần linh, các dân tộc trên thế giới đều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, tất cả đều nghĩ rằng thần linh tiêu biểu cho một hiện hữu thiêng liêng vượt ngoài tầm hiểu biết của con người.

 

Riêng kinh Hoa Nghiêm, phẩm Nhập pháp giới đề cập rất nhiều về thần linh. Các vị thần này được diễn tả dưới dạng tu hành đạo Bồ tát, mang lại tình thương và hiểu biết cho chúng ta, để rồi từng bước chư thần tiến đến Vô thượng đẳng giác. Và chúng ta được họ giúp đỡ cũng dần dần sửa đổi tâm tánh, tiến tu thành Phật. Ðó là điểm chính yếu khác biệt giữa quan niệm thần linh theo Phật giáo và các tôn giáo khác.

 

Thật vậy, kinh Hoa Nghiêm phổ cập trên thế giới vì dung nhiếp tất cả tín ngưỡng cổ đại và mang tính triết học. Trong khi phần lớn các tôn giáo nặng về tín ngưỡng, thờ thần nhưng không biết rõ lai lịch của thần, không lý giải được việc làm của thần. Trái lại, giới thiệu các thần linh, kinh Hoa Nghiêm cho chúng ta biết rõ việc làm của họ, xuất xứ của họ, nguyên nhân đưa họ đến vị trí thần linh.

 

Thiện Tài đồng tử được Bồ tát Chánh Thu dạy đến cầu học với Thần Ðại Thiên. Thaàn này chỉ cho thiên thần, là hình thức tín ngưỡng mà chúng ta quen gọi là Trời. Không biết Trời là ai, có người hình dung ra đó là đấng tạo hoá hay Ngọc hoàng thượng đế. Người Nhật bản thì gọi là Thiên Chiếu. Nói chung, thần là đấng hiện hữu ở trên ban xuống mà chúng ta không biết.

 

Người ở nhân gian không thấy Trời, nhưng Thiện Tài gặp được ông, nói lên tinh thần giữa nhân gian và thiên thượng có liên quan mật thiết với nhau. Những gì chúng ta mới biết sử dụng tưởng là mới có, nhưng thật sự hàng ngàn năm trước tất cả hiện tượng trong trời đất đã có sẵn. Người có trí tuệ khám phá được nguyên lý ấy, người mê muội thì chẳng có gì.

 

Không phải Ðại Thiên mới hiện hữu, nhưng nhờ gặp Chánh Thu Bồ tát khai huệ nhãn, Thiện Tài phát sinh trí tuệ, mới thấy được Ðại Thiên. Ðại Thiên xuất hiện, dạy cho Thiện Tài Bồ tát hạnh, tất nhiên Ðại Thiên đã là Bồ tát. Bồ tát ở trong loài người làm lợi ích cho mọi người, Ðại Thiên là Bồ tát ở trong loài trời.

 

Ðại Thiên là vị thần chi phối nhân gian, tạo ra con người. Vị thần này được kinh Hoa Nghiêm diễn tả là người tác động để chúng ta trở thành tốt. Oâng thần mà người Nhật hay Việt Nam thờ cúng trước kia quấy nhiễu, đòi hỏi đủ thứ, đòi cả đồng nam đồng nữ. Nay kinh Hoa Nghiêm diễn tả nếu thật là Ðại Thiên thì phải thương người, lo cho người nên được kính trọng; đó chính là Bồ tát.

 

Ðại Thiên cho Thiện Tài châu báu quý giá, dù Thiện Tài không xin. Trong khi nhiều người khác quỳ lạy van xin mà ông vẫn không giúp. Theo Ðại Thiên, Bồ tát khó thấy, khó thân cận. Người nào có ba nghiệp thuần tịnh thì Ðại Thiên hiện ra và ban cho tất cả.

 

Thiện Tài có hạnh nguyện giống Ðại Thiên, nên Ngài cho ông rất nhiều nhằm kết làm pháp lữ, cùng làm lợi ích muôn loài. Không riêng gì Thiện Tài mà những người đã tu ba nghiệp thanh tịnh, trí tuệ bừng sáng, thông được tất cả thì thiên đường hiện ra và được Ðại Thiên ban thưởng. Ngài cho không phải để họ hưởng thụ, mà để thay Ngài làm lợi ích cho người khác. Ðại Thiên không thiên vị, sở dĩ Ngài không cho người còn đủ nghiệp ác vì giúp, họ sẽ phá đạo hại đời. Ðối với chúng sinh đó, Ngài hiện nhiều thân, đa dạng, có lúc làm thiên lôi để đe dọa cho họ sợ, không dám làm việc tội lỗi.

 

Học vơùi Ðại Thiên, biết được việc của thiên đường và tìm được tất cả phúc lạc, thì đến chuyện dưới đất phải hỏi địa thần An Trụ. Thiên thần và địa thần, hay tín ngưỡng trời che đất chở đã có từ lâu theo tôn giáo cổ truyền, nhưng không giải thích được. Phải đến kinh Hoa Nghiêm mới lý giải sâu sắc về ý nghĩa của hai thần minh này.

 

Có thể nói rằng khi Phật giáo thịnh hành, các nhà sư dùng tín ngưỡng nhân gian có sẵn để giúp mọi người hiểu lý trùng trùng duyên khởi của kinh Hoa Nghiêm; đó là pháp tu sống hài hoà với trời đất và với mọi người.

 

30- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Ðịa Thần An Trụ.

 

An Trụ địa thần là thiện tri thức thứ 30 mà Ðức Phật Thích Ca suy nghĩ, nhận ra và chỉ dạy. Vị này tập trung tất cả địa thần khác và chỉ cho họ thấy Thiện Tài là Phật tạng, nghĩa là kho chứa Phật. Phật này chỉ cho sáng suốt, giác ngộ, là trí tuệ. Trong con người đơn sơ của Thiện Tài hàm chứa trí tuệ bao la, kỳ vĩ. Nói cách khác, trải qua quá trình tu hành đến khi trí giác bừng sáng, chúng ta thấy mọi việc trong trời đất như thấy vật để trong bàn tay, tức tận dụng được trọn vẹn chất xám của chúng ta, thaáu biết toàn bộ vũ trụ. Hiểu theo tinh thần ấy, An Trụ địa thần mới nói Thiện Tài là kho tàng vô giá.

 

Ðịa thần hỏi Thiện Tài muốn thấy kho tàng mà ông đã gieo trồng nhiều đời hay không. Kho báu của ông mà ông lại không biết, phải nhờ người khác chỉ. Kinh Pháp Hoa gọi là Phật tri kiến. Tri kiến Phật của chúng sinh y như Phật, không khác; nhưng vì họ không biết, không thấy, nên phải chịu thân phận nô lệ, nghèo nàn.

 

Thiện Tài nhờ An Trụ địa thần chỉ kho tàng trí tuệ, thấy được Phật tri kiến, nghĩa là ở ngay nhân gian tu hành, sống chung với những người thấp kém, tệ ác, vận dụng được trí tuệ, vượt khó. Ðó là môi trường để ta hành Bồ tát đạo, thể hiện loøng từ bi, phát huy đạo đức. Chung quanh toàn người ganh tỵ, thù hiềm mà ta sử dụng trí khôn, hoá giải được thì cuối cùng ta thành Phật. Chúng sinh có khổ thì ta mới phát bi tâm, tận tụy với người khổ thì ta mới thành tựu đaïo hạnh. Vì vậy Bồ tát bỏ thế gian đi tìm Phật là tìm lông rùa sừng thỏ, không bao giờ có.

 

Ðịa thần cho biết xưa kia Ngài được Ðức Phật Diệu Nhãn dạy pháp tu thiền định, chứng được trí tạng, tức kho tàng trí tuệ. Khi đắc được pháp này, Ngài muốn nhập diệt ngay. Nhưng thấy người khác cũng có kho tàng trí tuệ ấy mà không biết, nên nguyện ở lại để chỉ dạy họ. Tâm niệm vì lợi ích chúng sinh của địa thần cao cả như vậy, đã biến đổi thần thành Bồ tát.

 

Tất cả kinh Ðại thừa gặp nhau ở điểm ai tu hành cũng thành Phật. Ðịa thần An trụ hay sống ở đây để tìm người có nhân duyên căn lành mà nâng đỡ họ lên. Vì vậy, địa thần nói với Thiện Tài rằng ông đã gieo troàng căn lành thì kho tàng này thuộc về ông.

 

Có thể nói Thiện Tài chính là Ðức Phật Thích Ca và bảo tàng vô giá của Ðức Phật là nước Ma kiệt Ðà. Thật vậy, ở ngay mảnh đất hung tàn bạo ngược nhất của A Xà Thế mà đức Thích Ca đã phô diễn được trí tuệ tuyệt vời, thể hiện diệu pháp, cảm hoá vua ác độc thành người hộ pháp đắc lực.

 

Tóm lại, địa thần An Trụ chỉ dạy Thiện Tài pháp tu đạt được trí tuệ vì có trí tuệ là có tất cả. Trí tueä phát triển đến độ cao, khai thác được tất cả thì không có gì không hữu ích. Còn nghèo đói, khổ đau chỉ vì con người không phước huệ.

 

31- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Chủ Dạ Thần Bà San Bà Diễn Ðế.

 

Học đạo Bồ tát và tu Bồ tát hạnh, chính yếu cần quan sát công hạnh của các Ngài để ứng dụng vào cuộc sống của chúng ta. Ở đây, tên của vị thần này hơi lạ. Tuy nhiên, đọc kỹ kinh, chúng ta thấy công hạnh Ngài cũng khá quen thuộc. Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta có thể bắt gặp Dạ thần này mang tên là Nguyệt Quang Bồ tát hay Mãn Nguyệt, Bảo Nguyệt Bồ tát.

 

Phải khẳng định rằng tất cả thần linh được diễn tả trong kinh Hoa Nghiêm không mang tính chất thần đạo đã có ở các nước. Truyền thuyết cổ xưa dựng nên những vị thần và các vị này được nhào nặn theo tinh thần Hoa Nghiêm, tạo thành thần minh kiểu mẫu hành đạo Bồ tát. Bồ tát là người sống ở nhân gian vì lợi ích và phúc lạc cho người khác. Với ý nghĩa ấy, Bồ tát trong kinh Hoa Nghiêm được truyền bá đến đâu thì người ta hình dung ra đó là những vị thần có từ trước. Từ đó, vị phúc thần được kết hợp với Bồ tát trở thành những minh thần của Hoa Nghiêm và tống xuất các hung thần đi. Ðược xây dựng trên tinh thần vì phúc lạc cho Trời người, Bồ tát và phúc thần tuy hai mà một hay đó là hai mặt khác nhau được diễn tả thành một và chỉ hiện hữu trong kinh Hoa Nghiêm.

 

Thiện Tài phải gặp địa thần An Trụ rồi mới thấy dạ thần, vì học với địa thần, vấn đề trí tuệ được đặt trên hết. Thật vậy, đối với người tu, trí tuệ là cốt lõi. Hiện tượng trong trời đất có sẵn, nhưng người không có trí tuệ chẳng thể thấy biết. Riêng Ðức Phật giác ngộ và bằng trí tuệ thấu suốt mọi hiện tượng của vũ trụ. Ðức Phật dạy nếu ta không biết thì thân này là một khối phiền não, nhưng nếu biết thì cũng nhờ thân ngũ uẩn mà ta phát sinh trí tuệ hay tu thành Phật được.

 

Tất cả quý giá tiềm tàng trong lòng đất cũng như mọi hiểu biết tiềm ẩn trong tâm con người, đó là ý nghĩa gặp được địa thần, tức phát hiện trí tuệ có sẵn trong chúng ta. Ðức Phật thành bậc Vô thượng đẳng giác vì phát hiện và sử dụng được trí tuệ có sẵn. Và Ngài hiện hữu trên cuộc đời này chỉ nhằm mục tiêu chỉ chúng ta cách thức khai thác khả năng sẵn có của mỗi người. Khai thác bằng cách nhờ thiện tri thức khơi dậy căn lành, giúp chúng ta hiểu biết mọi việc trên cuộc đời.

 

Nhờ thiện tri thức là địa thần An Trụ, Thiện Tài thấy được Dạ thần Bà San Bà Diễn Ðể. Theo tín ngưỡng cổ xưa, dạ thần này là Ðại Phạm Thiên vương hay đấng tạo hoá. Theo thời đại ngày nay, chúng ta có thể hiểu đó là nguyên lý tạo nên vũ trụ và con người, tức lý duyên sinh. Ðức Phật dạy người nào thấy nhân duyên là thấy pháp, thấy pháp là thấy Như Lai hay nguyên lý tạo ra vũ trụ.

 

Kinh Hoa Nghiêm cho biết không phải người nào hay đấng tạo hóa nào áp đặt cho ta, chính cộng nghiệp của chúng sinh tạo nên chúng và thế giới của chúng. Thế giới loài người do coäng nghiệp con người tạo nên, các loài khác cũng vậy.

 

Tuy nhiên, trong cộng nghiệp cũng có biệt nghiệp, nên cùng là loài người nhưng không ai giống ai. Biệt nghiệp hay cá tánh là những đặc điểm riêng không thể phủ nhận. Trên đường tu Bồ tát đạo, chúng ta cầu thiện tri thức giúp đỡ để loại trừ cá tánh tác hại người khác khổ đau và phát huy cá tánh tốt nhằm tạo thế giới tốt đẹp. Thiện Tài đồng tử qua 53 chặng đường cầu đạo cố khám phá triệt để mặt tốt này.

 

Sau khi phát hiện được quý báu nhất là trí tuệ mà địa thần chỉ dạy và phát triển trí tuệ đến độ cao nhất thì mọi việc trên cuộc đời trở thành quý giá, ở ngay thế gian này mà tiến tu. Từ yếu tố chính là vật chất tức tận dụng những cái có trong tầm tay hay trong lòng đất, Thiện Tài mới bắt đầu quan sát vũ trụ, tìm nguyên lý tạo nên vũ trụ và con người.

 

Lúc ấy, Thiện Tài thấy Dạ thần, hay nhìn vào đêm dài sinh tử của chúng sinh, tìm trong vũ trụ bao la từ kiếp này sang kiếp khác hay những biến chuyển trong trời đất. Ngày nay, với phương tiện khoa học, có thể hiểu ý nghĩa gặp dạ thần, được thần dạy nghĩa là chúng ta sử dụng những gì có trong tầm tay để phát triển hiểu biết, quan sát thế giới bên ngoài. Từ đó, biết được nguyên lý tạo nên cuộc sống, mà người xưa coi đó là đấng tạo hoá.

 

Trong kinh diễn tả Thiện Tài nhìn vào thân của Dạ thaàn thấy nhựt nguyệt tinh tú hiện vào. Tạo ra một vị thần ở trong đình miếu cho người thấy được thì không khó. Nhưng hình thành một thần linh mà trong người họ có mặt trời, mặt trăng, ngôi sao, quả thật khó hình dung nổi. Vì vậy, trong kinh bảo rằng gặp được địa thần An Trụ rồi mới thấy Dạ thần Bà San Bà Diễn Ðể. Có thể hiểu rằng khi trí tuệ chúng ta đã phát triển cao độ, cho phép chúng ta quan sát rộng hơn. Không còn thấy hạn hẹp trong thân con người, nên thấy vị thần này biến hoá thành rộng lớn, lấy vũ trụ và pháp giới làm thân. Rồi thấy tất cả biến hoá không ngừng, trong mỗi lỗ chân lông phóng vô số ánh sáng đến tất cả chúng sinh.

 

Ðến đây, chúng ta trở về kinh Pháp Hoa có ví dụ Ðức Phật đối với chúng sinh ví như ánh sáng mặt trời chiếu đến muôn loài. Tất cả cỏ cây, muôn thú, loài người... hoàn toàn khác nhau, nhưng không loài nào sống ngoài định luật tồn tại cuûa vũ trụ. Nguyên lý ấy chi phối chúng ta từng phút giây, mà không ai biết, chỉ có Thiện Tài thấy rõ tương quan tương duyên thuận nghịch của muôn loài nương nhau tồn tại trong trời đất. Bằng trí tuệ, Thiện Tài quan sát Dạ thần, tức quan sát vũ trụ như vậy.

 

Dạ thần dùng lực chi phối mọi loài chúng sinh, nhưng chúng sinh không biết luật chi phối ấy. Kinh diễn tả là người thích tu Thanh văn thì Dạ thần hiện thân Thanh văn nói pháp, họ nghe liền khởi tâm vui thích, được giải thoát. Ý này nếu được hiểu mộc mạc rằng vị thần uy quyền lớn như đấng sáng thế, chỉ chắp tay cầu xin thì Ngài sẽ hiện cái gì chúng ta ưa thích. Nghĩ như vậy, dễ rớt vào mê tín, nhất là đối vơùi người nhiều lòng tham và chẳng may lại gặp thêm ác nhân khai thác, nhất định đưa họ vào đường tội lỗi.Theo tôi, những ai có nhân duyên, thiện căn công đức sẽ gặp được dạ thần. Không có thần từ hư không hiện đến, nhưng tất cả người đến với tôi đều là thiên thần, địa thần, dạ thần, Bồ tát đồng hạnh.

 

Chúng ta tìm thiên thần vô hình không bao giờ gặp, đó là ma thuật mà Ðức Phật thường phủ nhận. Tuy nhiên, chúng ta có pháp lữ đồng hành; khi khởi lên tâm niệm thiện thì thiện căn công đức đã gieo trồng kết hợp được với Bồ tát đồng hạnh. Thiện căn công đức của chúng ta và của người gặp nhau, biến thành tâm thiện, việc làm thiện. Vì thế, chúng ta tìm thiện tri thức ngay trong cuộc đời này là những Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni, nam nữ Phật tử, những người có lòng tốt... Nếu bỏ những người này, tìm người vô hình cũng giống như tìm lông rùa sừng thỏ. Nhưng quan sát sinh hoạt thưïc tế, chúng ta thấy người tu xung đột với nhau, đó là vì xung đột nghiệp thân, từ đó thiện tri thức biến thành ác ma.

 

Trên bước đường tu, điều này rất quan trọng. Khi chúng ta tìm thiện tri thức là phát khởi từ nhân duyeân căn lành, chúng ta có lòng thương người, lòng khoan dung, phản ứng tốt tự nhiên cũng sẽ đến với chúng ta.

 

Trên nền tảng phát xuất từ thiện căn và được đáp lại bằng thiện căn, nếu chúng ta đến với người mà trong lòng không sinh thiện căn, nhưng sinh ác nghiệp, thì chúng ta phải tạm tránh; chỉ nên đến nơi nào khơi dậy căn lành mà thôi. Vì vậy Thiện Tài cho biết nhờ thiện tri thức khai ngộ mà bản tâm thanh tịnh.

 

Tới gặp thiện tri thức, tất cả thắc mắc từ ngàn xưa tự giải đáp, kiêu căng, tật đố, ngã mạn tự biến mất. Chúng ta lạy Dạ thần hay Bồ tát Nguyệt Quang, được ánh quang Ngài soi sáng đến, bao nhiêu phiền não nhiễm ô đè nặng lên kiếp người, nhứt thời tan hoại, lòng được mát mẻ. Nhất là trí huệ khai phát, khiến chúng ta sáng suốt, cái thấy mỗi ngày đúng đắn hơn. Trước lầm tưởng có Trời Phạm Thiên, nhưng nay thấy được thuyết duyên sinh nhờ Bồ tát khai mở cho chúng ta.

 

Thiện tri thức là bất cứ người nào giúp ta thành tựu 4 việc : bớt phiền não, tâm mát mẻ, trí sáng suốt và đến gần quả vị Như Lai. Trái lại, ác ma làm chúng ta phiền não, tham lam, ích kỷ, ghét ganh. Chúng ta tìm thiện tri thức, những người cùng ý chí, cùng hạnh nguyện ngay trên cuộc đời này. Ngài Nhật Liên dạy rằng người cầm gươm giết Ngài là thiện tri thức vì họ làm Ngài khởi niệm lành và họ cũng có niệm lành. Trong khi người tâng bốc ta, nhưng ta khởi niệm ác thì người đó là ác ma.

 

Ðối với chúng ta, tìm thiện tri thức ở ngay trên cuộc đời; nhưng xa hơn, đối với Thiện Tài, tầm quan sát của ông là vũ trụ. Thiện Tài mượn tất cả hiểu biết của thiện tri thức trên đời dồn lại để ông có kiến thức siêu việt hơn. Thiện Tài nương vào các thiện tri thức trên đời và các phương tiện trên mảnh đất này mà đi xa vào vũ trụ bao la. Ông tìm thấy thiện tri thức dưới dạng thức khác, không phải là người nói bằng ngôn ngữ hay hành động khuyến thiện. Mọi hiện tượng thiên nhiên như cánh chim, ánh trăng soi bên dòng suối, hay một bông hoa dại, một ráng ban mai, v.v... đều phát triển thiện căn cho Thiện Tài, dẫn đến tâm thánh thiện nhất, việc làm lợi lạc nhất cho đời, đều là hình ảnh tiêu biểu của Dạ thần.

 

32 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Dạ Thần Khai Phu Nhứt Thiết Thọ Hoa Và Ðại Nguyện Tinh Tấn Lực Cứu Nhứt Thiết Chúng Sinh.

 

Sau khi cầu học với nhiều thiện tri thức thuộc mọi thành phần xã hội, Thiện Tài bắt đầu tham quan thế giới vô hình để học đạo với thiên thần, địa thần, dạ thần.

 

Dạ (Dạ thần) là ban đêm. Ban đêm thì khó nhận thấy sự vật chính xác. Cuộc đời đối với người còn trong sinh tử cũng vậy, khó mà nhận biết mọi việc tường tận, nên thường gọi là đêm dài sinh tử. Chúng ta không biết lúc nào chết và sẽ đi về đâu. Dạ thần biết rõ diễn biến trong vô hình và có thể giúp chúng ta vượt qua mọi chướng ngại trong đêm dài sinh tử.

 

Dạ thần cho Thiện Tài biết rằng họ đã ở trên cuộc đời này bao nhiêu kiếp, đã từng làm vua, làm tướng, laøm thương gia, làm đồng nam, đồng nữ, làm Phật ..., thấy biết tất cả.

 

Chúng ta học kinh Hoa Nghiêm phải lưu ý điều quan trọng này. Ngày nay cùng tu trong pháp hội, giúp đỡ nhau là biết chúng ta đã từng hoà hợp với nhau trong quá khứ. Người chống đối ta cũng vậy, đời trước họ và ta cũng từng chống trái nhau. Bài pháp điển hình này được Ðức Phật chỉ rõ qua sự kiện Ðề Bà Ðạt Ða thường phá hại Phật từ vô số kiếp cho đến hiện đời và có cả 500 người theo Ðề Bà từ quá khứ để chống Phật, hiện tại cũng vậy. Nhưng càng phá Phật thì uy đức Ngài chẳng những không bị giảm sút, mà còn tăng thêm.

 

Dạ thần nói với Thiện Tài hay chỉ cho chúng ta những sự kiện quaù khứ là nhân dẫn tới hiện tại. Thấy rõ nhân tạo tác ấy, chúng ta mới hiểu được người, biết cách xử sự đúng đắn cho mỗi trường hợp. Ðối với người giúp đỡ, người chống đối hay người thờ ơ, chúng ta phải xử trí cách nào.

 

Cuộc đời là đêm tối, chúng ta đang dò dẫm đi và dạ thần cho những lời khuyên sáng giá. Hai vị dạ thần quan trọng mà Thiện Tài gặp được trong cuộc đời là Khai phu nhứt thiết thọ hoa và Ðại nguyện tinh tấn lực cứu nhứt thiết chúng sinh. Dạ thần Khai phu nhứt thiết thọ hoa chỉ chúng ta sống như thế nào để cuộc sống được phát triển. Dạ thần Ðại nguyện tinh tấn lực cứu nhứt thiết chúng sinh bằng kinh nghiệm từng trải giúp người vượt qua mọi tai ách trên thế gian.

 

Thiết nghĩ trong đời thường, mọi người thường cầu mong hai vị thần ấy giúp đỡ để đạt được hai điều : cuộc sống được phát triển và không gặp tai ách.

 

Tuy nhiên, muốn giàu sang, khoẻ mạnh, tài giỏi nhưng thực tế có mấy ai chịu ứng dụng phương thức Phật dạy hay những điều dạ thần chỉ. Theo Phật, muốn giàu có phải hành bố thí, trải lòng rộng lớn, che chở người, ban phát tài vật, công sức, hiểu biết cho người. Thế nhưng quan sát sinh hoạt thường nhật, chúng ta thấy rõ nhiều người muốn giàu, nhưng lại sợ bố thí. Họ chỉ muốn xin và được cho; làm như vậy chắc chắn không thể nào kết thành quả báo giàu có, thường được Phật ví như ngươøi tham muốn nấu cát thành cơm.

 

Riêng tôi xuất thân từ gia đình nghèo, vấn đề cơm ăn, chỗ ở vào thời niên thiếu thật khó khăn vô cùng. Lúc mới vào chùa, tôi không bằng ai, bị người xem nhẹ. Tuy nhiên tin sâu sắc ý Phật dạy, lời dạ thần nói, từng bước khắc phục. Với đôi tay và khối óc, tôi hết lòng phục vụ cho đạo, nỗ lực tu học để lập công bồi đức. Nhờ vậy, từ từ công đức phát sinh và dùng công đức này phục vụ lại cho cuộc đơøi, để tích lũy thêm công đức, không dám tiêu xài. Trên bước đường tu, thiết nghĩ cần để ý điều này. Khi ta nhận của người cúng dường, mai kia được người quý trọng hơn, là biết ta đã sử dụng đúng tài vật của họ. Ngược lại, nhận của họ rồi, ngày mai họ sinh lòng khinh rẻ thì biết chúng ta đã sử dụng sai vật hiến cúng.

 

Dạ thần khuyên Thiện Tài phải hành sử 6 pháp ba la mật trong cuộc sống. Ðức Phật thành tựu quả vị Vô thượng đẳng giác, được tôn xưng là đấng cha lành của muôn loài, hoặc chư Bồ tát được người quý trọng vì các Ngài đã thể hiện trọn vẹn 6 pháp ba la mật. Trên lộ trình tiến đến Vô thượng bồ đề, 6 pháp ba la mật là cốt tủy mà chúng ta phải thực hiện cho được. Trong 6 pháp này, 3 pháp chính yếu quan trọng là bố thí, thiền định và trí tuệ.

 

Thật vậy, theo tinh thần Ðại thừa, muốn được kính mến chắc hẳn ta phải là người ban ơn; đừng làm người thọ thí. Ý này dễ nhận ra trong thực tế cuộc sống. Khi gặp người ta từng thi ân, ai lại không cảm thấy nhẹ nhàng hơn là gặp người mà ta mắc nợ. Kế đến giữ tâm bình ổn, dù hoàn cảnh khắc nghiệt thế nào, ta cũng không thay đổi. Có sưùc định tâm cao, không để vật chi phối mới giữ được công đức đã tu tạo. Và sau cùng, muốn làm Thầy của Trời người, tất yếu phải gieo trồng hạt giống trí tuệ.

 

Có thể nói bình tỉnh và sáng suốt là hai đức tánh quan trọng của Bồ tát. Vì dấn thân hành đạo trên cuộc đời chắc chắn phải đối đầu với vô số chướng ngại, nếu không trang bị hai pháp này không thể nào đi trọn Bồ tát đạo. Theo gương các Ngài, chúng ta luôn tâm niệm hoàn cảnh caøng khó khăn, ta càng bình tỉnh. Có hành trang như vậy, ta mới có thể tiến tu trong sinh tử; đụng việc thì u mê, cuống cuồng lên là còn cách xa đạo.Thực tế lịch sử cho thấy bà Ỷ Lan thứ phi nghe lời vua, đã nhứt tâm thiền định để gánh vác triều chính thành công trọn vẹn. Sức định tĩnh của bà ở độ cao nhất, dẫn đến sự sáng suốt, thấy được ai là hạng sâu mọt trong hoàng thân quốc thích cần phải trị tội, ai là người tài đức, thấy đúng tưøng người, giải quyết thoả đáng từng việc.

 

Tóm lại, dạ thần cho chúng ta bài học rằng ở trong đêm tối sinh tử, có gặp địch thủ, chúng ta mới vận dụng được trí năng. Nhờ đối mặt với gúc mắt khó khăn, mới có cơ hội hiểu biết thêm vô số vấn đề lớn nhỏ, mặt trái mặt phải, mặt trong mặt ngoài của nó. Không cọ sát với thực tế cuộc sống như vậy, ắt hẳn hiểu biết của chúng ta cũng lụt dần. Chính vì để đạt được mục tiêu lợi lạc lớn lao ấy mà các vị Bồ tát thường thực hành chí nguyện dạo chơi trong sinh tử .

 

33- Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Thọ Thần Diệu Ðức Viện Mãn.

 

Học với dạ thần và trực diện được với cuộc đời xong, Thiện Tài học với thọ thần Diệu Ðức Viên Mãn (Lâm Tỳ Ni thần).

 

Thọ thần là thần cây. Theo tinh thần Ðông phương, người hay vật sống lâu tiêu biểu cho những gì tích lũy được của trời đất, là chứng nhân lịch sử. Cũng vậy, đối với cây cối, ngươøi ta cho rằng cây sống lâu trăm năm thành thần. Riêng tôi, chưa thấy thọ thần, nhưng tìm các bậc tôn túc sống lâu, hiểu biết rộng, có nhiều kinh nghiệm để cầu học vì các Ngài biết được những việc ngoài tầm hiểu biết của chúng ta.

 

Ở đây, vị thần quan trọng nhất mà Thiện Tài tìm học ở vườn Lâm Tỳ Ni, nơi đức Phật đản sinh; hay cũng có nghĩa là chúng ta học đạo, đi tìm những gì có liên hệ với Phật. Các thọ thần ở nơi khác nhằm chỉ cho những học phái ngoại đạo không quan trọng. Thần ở vườn Lâm Tỳ Ni mới là thần chúng ta cần học, tức những bậc tu hành theo giáo nghĩa Ðại thừa. Họ thấy Phật trực tiếp hay qua kinh điển, qua hành động tiêu biểu cho thọ thaàn ở Lâm Tỳ Ni. Ta tin tưởng, học hỏi với họ vì họ sống lâu trong giáo pháp Phật.

 

Thọ thần Diệu Ðức Viên mãn cho Thiện Tài biết khi Phật ra đời, cảnh sắc vườn Lâm Tỳ Ni thay đổi khác thường. Cây cối xanh tươi đẹp kỳ laï, cây Vô ưu nở hoa từ gốc đến ngọn, toả hương thơm ngát. Cây quý hiếm nở hoa, cả nh quang đẹp chưa từng thấy tạo thành sức sống kỳ diệu báo hiệu có bậc cứu thế xuất hiện trên cuộc đời.

 

Hiện tượng này cũng dễ nhận ra trong sinh hoạt đời thường của chúng ta. Tôi đến chùa nào, vào Thiền thất gặp một vị danh Tăng nào liền cảm nhận lực tu hành của họ lan toả ảnh hưởng đến phong cảnh nơi đó và cũng tác động cho tâm hồn chúng ta thanh tịnh, an lạc theo.

 

34 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Bồ Tát Di Lặc.

 

Thiện Tài trải qua 53 chặng đường cầu đạo, gặp 110 thiện tri thức, trong đó có 4 Bồ tát quan trọng đã giáo dưỡng, hộ niệm cho Thiện Tài trên bước đường tu, đó là : Văn Thù Sư Lợi, Quan AÂm, Di Lặc và Phổ Hiền.

 

Mở đầu việc tham học, Thiện Tài gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tức cầu đạo trước tiên là cầu trí tuệ, vì không có trí tuệ không thể nào giữ được phước đức. Vì vậy khẩu hiệu của người tu là duy tuệ thị nghiệp.

 

Thiện Tài may mắn gặp đại thiện tri thức Văn Thù, nhận được lực gia bị của Ngài và phát huy trí tuệ theo từng bước chân hành đạo. Nhờ vậy, Thiện Tài dấn thân vào đời thấy gai góc là huy hoàng, đối diện với đủ thành phần xã hội không hề thấy chống trái, mà toàn là thiện tri thức dưới mắt ông. Vì dưới lăng kính trí tuệ thấy tất cả đều có hai mặt : tốt và xấu, không có gì hoàn toaøn tốt hay xấu. Tốt xấu tùy thuộc ở ta. Thiện Tài nhận chân được cái tốt của người và khai thác mặt tốt nên đắc đạo.

 

Dưới ánh sáng trí tuệ của Văn Thù, Thiện Tài đi khắp thế gian thấy sinh thân Phật Thích Ca không còn hiện hữu, nhưng Ðức Phật quyền năng tồn tại dưới dạng Quan AÂm phổ hiện thành 32 hiện thân, không có một loại hình Phật cố định. Ðối với người đáng hiện thân nào để cứu độ thì Ngài hiện thân đó. Vì vậy, kinh Pháp Hoa dạy rằng có người thấy Phật, nhưng cũng có người không thấy. Ðức Phật siêu hình thì người có nhân duyên đắc độ mới thấy Ngài.

 

Các vị Tổ sư, các nhà truyền giáo thấy Phật, mới dấn thân hành đạo không tiếc thân mạng. Theo tôi, từ một Ðức Phật Thích Ca, nhưng mỗi vị tu hành thấy Phật khác nhau, dẫn đến hình thành nhiều tông phái khác nhau. Có bao nhiêu vị Tổ thì có bấy nhiêu Phật, cho đến có Phật 3 đầu 6 tay hay Phật vạn năng ngàn mắt ngaøn tay tiêu biểu cho hành động có trí tuệ chỉ đạo.

 

Sau khi Thiện Tài học với Văn Thù Bồ tát mới gặp được Phật dưới dạng Quan AÂm ban vui cứu khổ. Kế tiếp, Thiện Tài bắt đầu du hành trong thế giới siêu hình, gặp những vị thần minh, nhận ra lực chi phối của họ đối với mọi việc trên cuộc đời.

 

Kinh Hoa Nghiêm giới thiệu với chúng ta thế giới siêu nhiên ấy và duy nhất có Thiện Tài thâm nhập được để tiếp tục học đạo với Di Lặc Bồ tát. Theo kinh nguyên thủy, độc nhất có Bồ tát Di Lặc được Phật thọ ký thành Phật. Kinh Hoa Nghiêm đặt naàu7841?ng vấn đề người hành Bồ tát đạo cần học với Di Lặc vì Ngài thừa kế sự nghiệp đức Thích Ca. Nhưng muốn học với Di Lặc, Thiện Tài phải gặp Văn Thù và Quan Âm trước.

 

Thiện Tài gặp Di Lặc và Di Lặc khảy tay 3 cái thì lâu các Tỳ Lô Giá Na mở ra và Thiện Tài đi vào lâu các thấy được tất cả việc của Ðức Phật đã làm trong quá khứ dẫn đến hiện tại và kéo dài tận vị lai, tất cả hiện hữu đầy đủ trong lâu các. Khi Thiện Tài tham quan xong, Di Lặc khảy móng tay một lần nữa thì lâu các biến mất. Lâu các xuất hiện và biến mất chứng tỏ đây không phải là tòa nhà thật.

 

Tỳ Lô Giá Na lâu các tiêu biểu cho Pháp thân Phật. Ðức Phật sinh thân Niết bàn nhưng Ngài vẫn tồn tại miên viễn dưới dạng thanh tịnh Pháp thân. Trên bước đường tu, trở về với chơn tâm thanh tịnh mới bắt gặp được Pháp thân Tỳ Lô Giá Na.

 

Di Lặc là người giữ Tỳ Lô Giá Na lâu các, tức Ngài sử dụng được phần linh hoạt diệu dụng của chơn tâm để thông với thanh tịnh Pháp thân Phật. Vì vậy, Di Lặc được coi là Tổ của tông Duy thức. Ngài dạy chúng ta quan sát hiện tượng bên ngoài mà đo được tâm khởi, hay nhờ có cảnh, chúng ta phát hiện được tâm. Và chúng ta mới theo tâm trở về nguồn; từ ngoài lần vào trong đến tận tiềm thức hay A lại da thức. Có thể ví nó như một cái kho vô hình chứa đựng những thứ vô hình. Kho vô hình của Thiện Tài được Bồ tát Văn Thù khai ngộ, chứa những hạt giống trí tuệ và học với Quan Âm nên có hạt giống từ bi. Tâm thức của Thiện Tài đầy đủ trí tuệ và từ bi, nên A lại da thức trắng sạch như gương trong. Còn kho chứa của chúng ta chỉ có toàn phiền não nhiễm ô.

 

Di Lặc mở lâu các cho Thiện Tài xem thành quả của Phật Thích Ca chứng được và giao cho Ngài giữ gìn. Thiện Tài thắc mắc hỏi Di Lặc tại sao Ngài là người thừa kế sự nghiệp của Phật mà lại không ra đời, sử dụng những của báu đã được giao phó ?

 

Di Lặc cho biết Ngài đã đủ điều kiện thành Phật nhưng chưa ra đời ngồi toà Long Hoa vì còn phải lo việc giáo hoá chúng sinh có duyên với Ngài cho thành thục và tiếp độ những người mà Ðức Thích Ca để lại cũng được thuần thục.

 

Theo lời dạy của Di Lặc với Thiện Tài như trên, chúng ta bieát rằng hiện tại tất cả ai đang từng bước phát triển trên lộ trình Phật đạo đều được Di Lặc Bồ tát chăm sóc. Di Lặc chứng được từ tâm tam muội, nên người có duyên với Ngài là người cũng phải có tâm từ.

 

Tại sao Di Lặc Bồ tát giáo hoá người có duyên với Ngài trước, rồi mới độ người của Ðức Thích Ca sau? Người của Ðức Thích Ca để lại phức tạp lắm. Thật vậy, thử nghĩ xem trên thế giới có hàng tỷ người theo đạo Phật, không ai giống ai, giữa các tông phái cũng không chấp nhận nhau. Làm sao xác định ai đúng, ai sai. Ðúng thì tất cả đều đúng, mà sai thì tất cả cũng sai. Nếu lo việc này thì suốt đời chỉ tranh cãi nhau. Vì vậy, việc quan trọng đầu tiên là Di Lặc phải thuần thục chúng của mình trước. Thiển nghĩ chúng ta có giỏi mấy nhưng quyến thuộc của ta toàn người ăn hại thì cũng chẳng thể làm được việc lớn. Ý thức sâu sắc như vậy, người thật tu lo giải quyết bản thân thật tốt, chắc chắn người xung quanh cũng tốt theo.

 

Trên bước đường tu theo Di Lặc, cần phát triển tâm an vui, vì con Phật mà phiền não là biến thành con của ma. Tôi tâm đắc pháp này, cố giữ cho mình an lành. Dù hoàn cảnh thế nào vẫn lấy bình ổn làm lẽ sống, còn mưa gió là việc của thiên hạ. Theo Phật dạy, lo cho ta chính là đã lo cho người. Trên tinh thần ấy, bằng mọi giá, chúng ta phải tự an lấy tâm, tức đạt được định. Từ tâm định ấy, chúng ta mới bắt gặp được định của Phật và Bồ tát. Và công đức lành mới theo định tâm của ta mà tới, nhưng cũng tới với dạng vô hình. Chúng ta không thể biết cho cùng tận công đức này mà đó là sự thật. Công đức chỉ có trong thiền định là công đức vô lậu.

 

Từ tâm an nên định sinh, thấy được sự vật không chướng ngại, vật không tác động làm phiền chúng ta là tuệ sinh. Nhờ vậy, bản thân và hoàn cảnh chúng ta mỗi ngày tốt thêm hơn. Ðó là 3 điều căn bản chúng ta phải thực hiện được trên lộ trình đi theo dấu chân Bồ tát Di Lặc.

 

Thiện Tài được Di Lặc dẫn vào Tỳ Lô Giá Na lâu các, thấy được thành quả của Ðức Phật từ vô số kiếp quá khứ đến tận vị lai vô cùng. Kinh Hoa Nghiêm mở ra cho chúng ta hình ảnh một Ðức Phật thật không phải chỉ còn lưu lại những viên xá lợi. Nhưng đó là Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật đang sống, đang chi phối tất cả muôn loài, tồn tại miên vieãn theo thời gian vô cùng, không gian vô tận, mới thật quý báu.

 

Thật vậy, từ Phật Niết bàn đến nay, các luận sư tiếp tục triển khai giáo lý theo từng thời kỳ, từng quốc gia khác nhau, thích hợp với cuộc sống nhân sinh, tức Pháp thân Phật mở rộng biến chiếu khắp tất cả, không có trình độ nào không phổ cập. Người trí thấy Phật tuyệt luân và người chỉ có niềm tin cũng thấy Phật tuyệt vời. Dòng thác trí tuệ của nhân loại phát khởi từ ngọn nguồn bước theo tri kiến Phật, cùng với vô số cuộc sống giải thoát, vị tha của người con Phật, tất cả tiêu biểu cho thanh tịnh Pháp thân Tỳ Lô Giá Na Phật vẫn đang tồn tại khắp nơi khắp chốn.

 

35 -Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát.

 

Qua 3 vị Bồ tát Di Lặc, Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền mà Thiện Tài đến tham học, chúng ta thấy được nhân địa tu hành và thành quả của các Bồ tát. Có thể nói giữa Phổ Hiền Bồ tát tu ở nhơn môn và Phổ Hiền hạnh ở quả môn có một khoảng cách thật khá xa. Cũng vậy, Di Lặc được thọ ký thành Phật là vị đang tu nhơn và Di Lặc xứng tánh, đưa Thiện Tài thâm nhập Tỳ Lô Giá Na lâu các là Bồ tát ở quả môn. Như vậy, Bồ tát hiện hữu ở hai mặt : sống trên cuộc đời và ở dạng pháp tánh.

 

Ðối với chúng ta, cũng tùy trình độ thâm nhập Phật đạo mà có kết quả khác nhau trên bước đường tu. Phần nhiều chúng ta theo con đường giáo môn, nương vào kinh điển; đó là con đường dành cho người ở trình độ trung bình. Theo giáo môn, Ðức Phật dạy chúng ta phương cách sống để trở thành người tốt. Và nâng lên, Phật mới dạy đạo xuất thế của Thanh văn, Duyeân giác, Bồ tát. Cuối cùng, kinh Hoa Nghiêm nói về nhân hạnh của các Ngài.

 

Thiện Tài nương giáo lý lần bước tiến lên, tìm được nhân địa tu hành của Phật, Bồ tát và theo đó hành sử cho bản thân mình, kết thành quả giống các Ngài. Bấy giờ đứng ở quả môn mà tu và sau cùng gặp được Di Lặc Bồ tát.

 

Chắc chắn không thể có Di Lặc mang thân người bình thường ở thế gian, nhưng chúng ta chỉ gặp Ngài dưới dạng tâm hoan hỷ vì Ngài luôn luôn hoan hỷ với chúng sinh. Chúng ta khởi tu từ thấp lên cao, phải luyện cho được tâm hỷ xả, sẵn sàng tha thứ cho người cố ý phá hại ta, mới gặp được Di Lặc, mới an trú lâu dài trong đạo.

 

Thiện Tài nhờ bước ban đầu được Văn Thù khai ngộ, dù gặp vô số người gây khó khăn, ông vẫn không khởi tâm tham chấp buồn phiền. Từ đó dấn thân vào đời, giáp mặt với đủ thành phần xã hội có thiện tri thức lẫn ác nhân, mà Thiện Tài vẫn giữ được tâm trong trắng.

 

Thiện Tài trang bị đầy đủ phước đức như vậy thì Di Lặc liền mở Tỳ Lô Giá Na lâu các cho vào. Ðiều này nhằm gợi ý rằng trên bước đường tu, ở giai đoạn một, chúng ta học kinh văn tự, giấy trắng mực đen. Nhưng khi chứng đắc Bát Nhã ba la mật, mới có kinh thật quan trọng và học với bản tâm thanh tịnh, tức vô tự chơn kinh trong Tỳ Lô Giá Na lâu các.

 

Thiện Tài vào lâu các đọc kinh vô văn tự, thấy được quá trình hành đạo của Ðức Phật quả là bất khả tư nghì, có sức cảm hoá người vượt không gian và siêu thời gian. Với tâm hồn yên tịnh hoàn toàn, Thiện Tài thâm nhập được pháp giới bao la vô cùng tận, tức sự sống của muôn loài. Và kinh diển tả rằng khi Thiện Tài trở về thực tế của đời thường, ông cảm thấy như vừa tỉnh cơn mộng.

 

Theo tôi, ai từng say mê đọc kinh cũng đều ở trong trạng thái giống như Thiện Tài vậy. Nghĩa là chúng ta học kinh ở dạng vượt khỏi năm giác quan, gọi là xuất thần thường có được khi ở trong thiền thất. Lúc ấy, từ bản tâm thanh tịnh, chúng ta phát hiện được yếu nghĩa kinh mà bình thường không thể nào thấu đạt.

 

Di Lặc nhắc nhở Thiện Tài nên tiếp tục cầu học với Văn Thù vì Bồ tát này là thầy của ba đời các Ðức Phật. Có thể hiểu Thầy theo 2 nghĩa. Thầy là người dạy được người khác học. Nhưng nghĩa thứ hai, chúng ta học với Thầy là học trí tuệ của Thầy, được tieâu biểu bằng Văn Thù. Ðại trí Văn Thù hay trí tuệ dẫn đến Vô thượng đẳng giác. Ðức Phật là bậc đạo sư tối tôn vì thân, khẩu, ý của Ngài do trí tuệ chỉ đạo.

 

Từ sơ tâm học đạo, Thiện Tài gặp Văn Thù là thầy ở nhân gian. Nhưng vào Tỳ Lô Giá Na lâu các thì Thầy là Bát Nhã trí, không phải thầy là con người bằng xương thịt trên cuộc đời nữa. Thật vậy, ai đạt đến trạng thái này mới nhận được, vì không thể có Thầy nào có khả năng chỉ chuùng ta những việc bất tư nghì. Việc tu hành của chúng ta ở tự tánh diễn ra trong chớp mắt, đạt được trong một niệm tâm, mà niệm tâm đó thoáng qua rồi, chúng ta không thể tìm lại được. Chúng ta tu ở dạng tâm, thì Thầy cũng hiện hữu ở dạng tâm. Kinh Pháp Hoa gọi đó là Phật hộ niệm. Chúng ta không biết tại sao hiểu, nói, làm như vậy, vì tất cả đã vượt ngoài thức uẩn hay lưới ma trong ba cõi. Thầy ở giai đoạn này là Thầy trên pháp giới.

 

Di Lặc dặn dò Thiện Tài nên gặp Văn Thù Sư Lợi xong, liền thu Tỳ Lô Giá Na lâu các và biến mất. Thiện Tài chỉ còn một mình giữa đồng hoang sinh tử, liền khởi ý niệm cầu đạo, thì Văn Thù Sư Lợi Bồ tát cách đó 110 do tuaàn đưa tay xoa đầu thọ ký.

 

Ðỉnh đầu tiêu biểu cho trí tuệ, xoa đầu tức Thầy truyền sự hiểu biết cho Thiện Tài. Từ ông Thầy dạy bằng ngôn ngữ, tiến đến vị Thầy dưới dạng tâm trong pháp giới, tất cả thông nhau không chướng ngại, không còn chia chẻ từng quốc độ riêng biệt.

 

Văn Thù chỉ xoa đầu Thiện Tài thì thay đổi hoàn toàn hiểu biết và cuộc sống của đồng tử . Chúng ta thật tu sẽ hiểu rõ điều này. Xưa chúng ta tham lam, mê lầm, tạo khoâng biết bao tội lỗi, khổ đau. Chúng ta cố gắng xoá khổ này thì khổ khác sinh ra. Nhưng nay thâm nhập Phật pháp, thấy được diễn tiến của sự vật và sử dụng trí tuệ vô lậu để quyết định việc làm, suy nghĩ, lời nói của chuùng ta theo dấu chân Bồ tát, không dại khờ làm theo thế gian nữa.

 

Chúng ta học khôn ngoan của Bồ tát, cái đáng làm, đáng nói, đáng suy nghĩ mới làm, mới nói và suy nghĩ. Ðó chính là việc tu hành ra khỏi sinh tử, xứng tánh thành Phật, chi phối toàn bộ pháp giới. Bồ tát nhập pháp giới không nói với ai, chỉ tu tập trên pháp tánh mà tác động cả muôn loài chịu ảnh hưởng.

 

Thiện Tài nương lực Văn Thù, thấy sự vật đảo lộn, không giống cái thấy của thế gian. Hành đạo theo Bồ tát ở dạng vô tác diệu lực, tức không hoạt động ở mặt hữu hình, nhưng nội lực của bản tâm thanh tịnh tạo sức chi phối mọi việc thành tựu. Tuy âm thầm lặng lẽ mà không có việc gì treân cuộc đời nằm ngoài tầm ảnh hưởng của Bồ tát. Thâm nhập thế giới siêu nhiên ấy, Thiện Tài liền thấy suốt quá trình tu Bồ tát đạo của Ðức Phật từ phát tâm bồ đề cho đến thành Vô thượng đẳng giác trải qua vô lượng kiếp. Và cũng thấy bên cạnh Ðức Phật luôn hiện diện hai vị Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và Phổ Hiền.

 

Văn Thù nhắc nhở Thiện Tài rằng trên bước đường hành đạo, dù gặp biết bao khó khăn, vật đổi sao dời, nhưng xin đừng nản chí cầu đạo và niềm tin đừng thay đổi. Từ thuở ban đầu gặp Văn Thù cho đến Di Lặc, đã lặn lội khắp nẻo đường đời, lúc nào Văn Thù cũng ở bên cạnh Thiện Tài đồng tử. Tuy không thấy bằng mắt thường, nhưng Thiện Tài vẫn sống trong quỹ đạo của Văn Thù và nay muốn vào Phổ Hiền hạnh môn cũng phải hết lòng như vậy.

 

36 - Thiện Tài Ðồng Tử Cầu Ðạo Với Phổ Hiền Bồ Tát.

 

Mở đầu việc tham vấn các thiện tri thức, Thiện Tài gặp Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, tiêu biểu cho trí tuệ. Với trí tuệ mà Văn Thù chỉ dạy, Thiện Tài dấn thân vào đời hành đạo, được 52 thiện tri thức dìu dắt, trong đó phải kể đến Bồ tát Quan AÂâm thể hiện trọn vẹn lòng từ bi vô hạn đoái với mọi loài chúng sinh. Kết hợp được tâm đại từ bi của Quan AÂm và trí tuệ vô lậu của Văn Thù, Thiện Tài mới có thể diện kiến Di Lặc hay Từ Thị là vị Bồ tát mang nguồn vui vô cùng cho muôn loài. Di Lặc đưa Thiện Tài vào Tỳ Lô Giá Na lâu các, trao cho tạng bí yếu của Như Lai. Ðến đây, Thiện Tài chấm dứt giai đoạn một của bước đường hành đạo. Ý này nhằm chỉ trên lộ trình tu của chúng ta, sau khi hoàn tất việc tu học, đạt được tri thưùc thông qua giáo lý Phật để lại, kết thúc giai đoạn ở đậu, ăn nhờ để bước sang giai đoạn hai, chính ta phải tự phát triển việc làm giống như Phật, Bồ tát đã làm.

 

Di Lặc khuyên Thiện Tài nên đến gặp Bồ tát Văn Thù moät lần nữa. Lần thứ hai, nhờ trang bị đầy đủ từ tâm, thâm nhậâp Tỳ Lô Giá Na, Thiện Tài thấy Văn Thù Sư Lợi ở giai đoạn hai hoàn toàn khác. Bấy giờ, tuy cách xa Văn Thù 110 thành, nhưng Ngài đưa tay xoa đầu Văn Thù và daãn đến tham vấn Phổ Hiền Bồ tát.

 

Ở bước đầu hành đạo, Thiện Tài được Văn Thù Bồ tát đưa vào pháp giới gặp Ðức Vân Tỳ kheo và nay đến gặp Bồ tát Phổ Hiền. Ðiều này nhắc nhở chúng ta khi tu, từ việc học giáo lý hữu hạn trong sách vở, phải đi vào thế giới vô cùng. Hiện hữu và sinh hoạt ở thế giới bao la ấy mới thực sự quan trọng đối với người tu.

 

Dưới lực chi phối của Văn Thù, Thiện Tài thấy sự vật ở dạng vô tác diệu lực, tức hành đạo theo Phật, tuy không làm nhưng nội lực chi phối vô hình, tạo thành kết quả không lường được. Và Thiện Tài cũng thấy đức Phật từ vô lượng kiếp luôn có Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền kề cận. Văn Thù tiêu biểu cho trí và Phổ Hiền tiêu biểu cho hạnh. Kết hợp được đại trí và đại hạnh là cốt lõi của kinh Hoa Nghiêm.

 

Từ khi phát tâm Bồ đề, trải qua 52 chặng đường, gặp tất cả thiện tri thức, Thiện Tài mới vào được Tỳ Lô Giá Na lâu các, gọi là nhập pháp giới. Lúc ấy, Thiện Tài mới có cái nhìn theo Phật, thấy rõ bề trái cuộc đời và có đủ tư cách tham vấn Bồ tát Phổ Hiền.

 

Khi Thiện Tài khởi một niệm tâm cầu Phổ Hiền làm thiện tri thức thì Ngài liền xuất hiện. Tuy nhiên, có được một niệm tâm như vậy không đơn giản. Phải trải hằng sa kiếp huân tu các pháp lành, dứt sạch nghiệp ác, tạo thành vô lượng công đức, Thiện Tài mới có được niệm tâm ấy.

 

Với thieän căn công đức tích lũy từ vô số kiếp, giúp cho Thiện Tài nhận chân được Phổ Hiền hạnh thật là tuyệt mỹ. Thiện Tài thấy thân Phổ Hiền trùm khắp pháp giới, ba đời chư Phật đều nằm trong lỗ chân lông của Phổ Hiền Boà tát và thấy Thiện Tài tu vô số kiếp cũng không ra khỏi lỗ chân lông của Phổ Hiền. Thiết nghĩ hình ảnh này là thế giới tu chứng của người đã thâm nhập chơn kinh, chắc chắn nằm ngoài ngôn ngữ lạm bàn của phàm phu.

 

Thiện Tài cảm hạnh Phổ Hiền, khởi tâm muốn làm theo Phổ Hiền, thì liền nhập Phổ Hiền hạnh, biến khắp pháp giới, tức Phổ Hiền hiện hữu ở đâu, Thiện Tài cũng nương theo lực Phổ Hiền mà đến đó hành đạo.

 

Từ Tỳ Lô Giá Na lâu các bước ra, nương được lực Phổ Hiền, Thiện Tài tu tạo công đức dễ dàng. Trước kia, chưa nhập pháp giới, tu hành thật vất vả, mỗi ngày phải lạy thiên Phật vạn Phật, mà khó khăn buồn phiền vẫn luôn bao vây bức ngaët. Nhưng nay, chỉ có một niệm tâm thấy Phổ Hiền, nương lực Phổ Hiền, có được công đức nhiều hơn trăm ngàn lần gia công nhọc sức tu ở chặng đường trước.

 

Xưa thầy tôi dạy rằng ở thác ghềnh, chúng ta phải ra sức chống cheøo. Việc tu hành cũng vậy, giai đoạn đầu tu giống như ở sông, sơ hở một chút, thuyền sẽ đâm vào đá, cơi lên bờ. Nhưng ra biển, mượn sức gió căng buồm, đẩy thuyền đi nhanh không cực nhọc. Có được một niệm tâm, mượn được lực Phổ Hiền thì hành đạo nhẹ nhàng, tự tại mà kết quả ngoài sức tưởng.

 

Thiện Tài nương Phổ Hiền lực, lấy hạnh Phổ Hiền làm hạnh mình, trong một niệm thành tựu đầy đủ y như Phổ Hiền, dạo chơi tất cả pháp giới, tham quan lễ bái chư Phật mười phương.

 

Cách tu mượn lực Phổ Hiền có thể ví như chúng ta đi mượn nợ ở thế gian. Nếu biết vay mượn đúng chỗ, đúng người, làm đúng việc thì cũng có thể trở thành giàu có. Nhưng người không biết, có vay cũng tiêu mất vốn.

 

Tuy nhiên, muốn mượn lực Phổ Hiền, tu hạnh Phổ Hiền, chúng ta phải đồng hạnh nguyện với Ngài, vì Phổ Hiền chỉ mong ai có hạnh nguyện giống Ngài là sẵn sàng giúp ngay. Trên thực tế cuộc sống, suy từ tâm niệm của chúng ta, có thể hiểu được điều này. Thí dụ như ai có yêu cầu về học phí, mua sách vở học hoặc làm gì để phát sinh trí tuệ, tôi sẵn lòng giúp vì những việc ấy đồng với hạnh nguyện của tôi.

 

Mượn lực Phổ Hiền, biến chúng ta thành Phổ Hiền hạnh nhân, nên việc của chúng ta là việc của Bồ tát, tất nhiên phải được Ngài gia bị và chúng ta sẽ thành công. Cũng giống như chúng ta tự làm không được, nhưng làm cho người có đức hạnh, nhân danh họ, ai cũng kính nể, tùy hỷ theo thì ta rất dễ thành công.

 

Mượn hạnh nguyện Phổ Hiền, ta và Ngài đồng nhau. Từ đó, ta làm ở nhân gian thay cho Phổ Hiền ở pháp giới. Làm cho Phổ Hiền để nương Ngài đi vào pháp giới, vì chúng ta thấy pháp giới quan trọng hơn trần gian.

 

Ðể kết phẩm Nhập pháp giới, Phổ Hiền đặt ra 3 điều rất khó đối với chúng ta, nhưng lại rất đơn giản với Bồ tát hoàn tất giai đoạn một như Thiện Tài. Tất cả thế giới chẻ thành vi trần đều có thể kiểm soát biết được. Nước bốn biển thu hết vô bụng được. Bầu trời có thể đo được, gió cũng tính được. Nhưng công đức của Phật thì không thể nào nói hết được.

 

Công đức của Phật không thấy bằng mắt, nhưng lớn lao không tưởng được, ảnh hưởng của Ngài tỏa rộng khắp năm châu. Ngày nay, chúng ta dễ nhận ra ý này. Trải qua thời gian dài hơn 25 thế kỷ cho đến ngày nay, hàng tỷ người trên thế giơùi vẫn đang hướng tâm về Ðức Phật, cầu nguyện, lý giải những lời vàng ngọc của Ngài, phát tâm đi theo con đường thánh thiện, giải thoát của Ngài. Vì vậy, công đức của Phật quá lớn, tuy vô hình mà nói mãi cũng không hết.

 

Theo tinh thần Ðại thừa, Ðức Phật chưa từng vắng bóng đối với người phát tâm Bồ đề. Ngài chỉ nhập diệt với người không có duyên lành. Như Lai không đến mà đến với tất cả tâm hồn có căn lành. Dù thời gian cách xa, không gian cách trở, nếu chúng ta phát tâm tu, đồng hạnh đồng nguyện thì Phổ Hiền vẫn đến, Phật vẫn gia bị cho ta.

 

Thực tế cho thấy Như Lai không đến, nhưng tất cả thành phần trong xã hội thời đó từ Sát đế lỵ đến hàng cùng đinh, không giai cấp nào mà Phật không cứu độ. Những người nghèo cùng hoặc sang trọng, vua chúa theo Phật tu đều đắc đạo.

 

Theo lộ trình Hoa Nghiêm, từ con ong cái kiến, đến cỏ cây, sông núi, không có loại hình nào không có Phật. Chúng ta có căn lành, quyết tâm tu theo hạnh Phổ Hiền thì không sợ bị đọa, ở đâu tu cũng được Như Lai gia bị, Phổ Hiền hộ niệm.

 

Kết phần Nhập pháp giới, Phổ Hiền mở ra cánh cửa gọi là Phổ Hiền hạnh môn. Bươùc qua cửa này hay thực hiện Phổ Hiền hạnh thì rất nhiều, nhưng Ngài tóm gọn thành mười hạnh nguyện. Nương lực Phổ Hiền, tu mười đại nguyện theo Ngài mới giúp ta xóa được tất cả nghiệp ác quá khứ và tạo muôn ngàn công đức và đó là hành trang đưa ta đến quả vị Vô thượng đẳng giác.

(Nguồn: NXB Thành phố HCM 2013)

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6333966
Số người trực tuyến: