Những hành giả thành tựu công hạnh Hàng phục nhờ pháp tu Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara
Mục đích của thực hành Kim Cương thừa nhằm viên mãn bốn công hạnh giác ngộ: Tức tai, Tăng ích, Kính ái và Hàng phục. Đấy là bốn công hạnh chính tương ứng với bốn phương của Mạn đà la hay là Tứ trí, tương ứng với màu sắc hay công hạnh của chư Phật. Đặc biệt, công hạnh giác ngộ hàng phục liên quan đến các phương pháp sử dụng sức mạnh để viên mãn các hoạt động nhằm đạt được giác ngộ khi không thể viên mãn bằng ba loại công hạnh Tức tai, Tăng ích và Kính ái.
Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên xin gửi tới Quý vị những câu chuyện kinh điển về việc thành tựu công hạnh Hàng phục nhờ thực hành pháp tu Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara.
TARA MITRA luôn là người chiến thắng trong các cuộc tranh biện. Người ta kể lại rằng ở Magadha, Ngài đã ba lần chiến thắng các kẻ tranh biện ngoại đạo. Ở các vương quốc miền Nam, Ngài đã bác bỏ các cuộc tranh biện của Sravakas, và Kashmir, Ngài đã vượt qua cuộc tranh biện với tất cả các Thành tựu giả Phật giáo và giáo sĩ ngoại đạo. Ngài trở thành Thượng sư của vua Kashmir. Ngài khuất phục quốc vương của nước Ghazni bằng câu chân ngôn của Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara và cải đạo cho nhà vua theo Phật giáo.
SAKYA-RAKSITA sinh ra ở xứ Ceylon. Lúc đầu, Ngài tu tập theo ngoại đạo, rất thông hiểu hệ thống giáo lý. Về sau, tại thành phố vàng Haripunja, một phần của vùng đất Arakan, Ngài đã lắng nghe nhiều giáo lý về Sự hoàn hảo của Trí tuệ và Chân ngôn từ Thượng sư Dharma-sri. Ngài theo học hầu hết các Mật điển Hevajra, Chakrasamvara, Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara và Mahakala. Người ta nói rằng Ngài đã có linh kiến về Đức Heruka, và nương uy lực của chân ngôn Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara, Ngài đã hàng phục được 1 vị Mahakala. Dưới hình tướng một hành giả da đen, Ngài có thể yêu cầu bất cứ thứ gì Ngài cần ở khoảng cách xa hàng trăm dặm.
Thời đó, có đức vua hiệu là Cangala-raja ra lệnh cho đội quân hoàng gia phá hủy thị trấn và đền thờ của Đức Haripunja. Sakya-raksita đã ném một cây đinh ba, một chiếc tràng hạt vàng Taranatha, biểu tượng của Đức Mahakala, về phía cung điện nhà vua. Và mặc dù quãng đường dài hơn một tháng đi bộ, cây đinh ba đã để lại dấu ấn trên đỉnh cung điện và sau đó phá hủy hoàn toàn cung điện.
LOKA-PRADA-PA là một Thành tựu giả xuất thân từ đẳng cấp chiến binh. Ngài nhận Đức Kanaka-sri làm bậc căn bản Thượng sư của mình. Trong giáo lý về Chân ngôn bí mật, Ngài thụ nhận giáo pháp về Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara.
Một lần, khi Thượng sư LOKA-PRADA-PA đang an trú tại vương quốc của vua Qarluq, khi nhà vua đi tuần qua các quận trên vùng đất của Ngài, nhà vua nhận thấy rằng trú xứ của Thượng sư rất vừa ý, và hỏi ai sống ở đó. Những người hầu của nhà vua trả lời: “Chủ nhà là một Phật tử đáng kính sống ở đây”.
Sau đó, khi nhà vua ra tay chiếm đoạt trú xứ của Thượng sư LOKA-PRADA-PA, ngay lập tức cả bên trong lẫn bên ngoài trú xứ đều bùng cháy. Nhà vua và đoàn tùy tùng đều không nói lên lời. Nhận ra rằng vị Thượng sư này đã đạt được thần thông, họ đã thỉnh cầu Ngài, và ngọn lửa dừng tắt.
Sau đó, Ngài nói, “Hỡi nhà vua, thật đáng quý khi Ngài tỏ lòng tôn kính Phật tử. Nếu Ngài không làm như vậy, Ngài sẽ bị thiệt mạng ngay bây giờ”. Nhà vua đã phát lời thệ nguyện rằng ông và con cháu của mình sẽ tôn trọng các Phật tử. Và từ đó đến nay, các vị vua của đất nước đó, thuộc dòng dõi của vua Qarluq, vẫn giữ truyền thống tôn trọng Phật tử.
Trước đó, vương quốc này có rất ít Phật tử, nhưng vị vua này đã cho xây dựng tám ngôi đền Phật giáo. Phật pháp được hoằng truyền rộng khắp mọi vùng miền.
Thấy nhà vua càng ngày càng có đức tin vào Đức Phật, các giáo sĩ Kazis Hồi giáo đã phóng hỏa đốt cháy nhà của Thượng sư LOKA-PRADA-PA. Với ánh nhìn không chớp mắt (ánh mắt có năng lực thần thông), Ngài đã khiến tất cả bọn họ “hóa đá” và bất tỉnh. Thấy sau ba ngày họ không hồi tỉnh, theo yêu cầu của những người thân, Ngài đã làm họ hồi sinh bằng âm thanh của tiếng chuông. Sợ bị nhà vua trừng phạt, họ chạy trốn đến đất nước của mình sau một chặng đường dài về phía tây. Ngài đã cho xây dựng một một trăm ngôi đền để cúng dường Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara. Ngài cũng đề xuất với nhà vua về việc kiến lập Mandala của Đức Asvasana Padma-nartesvara, và xây dựng một ngôi đền Chân ngôn bí mật.
(Trích ấn phẩm: "Cầu nguyện Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara - Bài ca dâng lên Bậc cứu độ chúng sinh"
Nguyên tác: "In Praise of Tara - Songs to the Saviouress"
Tác giả: Martin Willson
NXB Wisdom Publications, 1992)
Hãy phát khởi Bồ đề tâm vì lợi ích hết thảy chúng sinh, cùng thực hành chuyên tu cầu nguyện Đức Phật Quan Âm Độ Mẫu Tara để tích luỹ vô lượng công đức, vượt qua những chướng ngại, khó khăn, bệnh tật và khơi dậy, trưởng dưỡng tình yêu thương vô ngã vị tha trong mỗi chúng ta.
Quý vị tải Tài liệu và hướng dẫn tu tập tại đây:
- 551
Viết bình luận