Phần 3 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Phần 3

26. Phẩm Thập Địa Thứ Hai Mươi Sáu

(Hán Bộ Từ Quyển 34 Ðến Quyển 39)

Phần 3

Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo Giải Thoát Nguyệt Bồ Tát rằng: Thưa Phật tử! Ðại Bồ Tát đệ tứ Diệm Huệ Ðịa công hạnh đã khéo viên mãn muốn vào đệ ngũ Nan Thắng Ðịa, phải dùng mười thứ tâm bình đẳng thanh tịnh.

Ðây là mười tâm:

Tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp quá khứ, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp vị lai, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với Phật pháp hiện tại, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với giới, tâm bình đẳng thanh tịnh đối với tâm, tâm bình đẳng thanh tịnh dứt trừ kiến nghi hối, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi trí đạo phi đạo, tâm bình đẳng thanh tịnh tu hành tri kiến, tâm bình đẳng thanh tịnh nơi thượng thượng quán sát tất cả pháp Bồ đề phần, tâm bình đẳng thanh tịnh giáo hóa tất cả chúng sinh.

Ðại Bồ tát dùng mười tâm bình đẳng thanh tịnh này mà được vào bậc đệ ngũ nan thắng địa .

Chư Phật tử! Đại Bồ tát đã an trụ bưực đệ ngũ địa do khéo tu pháp bồ đề phần, do khéo tịnh thâm tâm, do cầu thêm đạo thượng thắng, do tuỳ thuận chân như, do nguyện lực chấp trì, do từ mẫn không bỏ tất cả chúng sinh, do chứa nhóm phước trí trợ đạo, do tinh tấn tu tập chẳng nghỉ, do xuất sinh phương tiện thiện xảo, do quán sát chiếu rõ các bậc trên, do được như lai hộ niệm, do sức niệm trí chấp trì, mà được tâm bất thối chuyển.

Chư Phật tử! đại bồ tát này biết như thiệt đây là khổ thánh đế, đây thật là khổ tập thánh đế, đây là khổ diệt thánh đế, đây là diệt đạo đế.

Bồ Tát này khéo biết tục đế, khéo biết tướng đế, khéo biết sai biệt đế, khéo biết thành lập đế, khéo biết sự đế, khéo biết sinh đế, khéo biết tận vô sinh đế,ᠫhéo biết nhập đạo trí đế khéo biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến khéo biết Như Lai trí thành tựu đế.

Bồ Tát này vì tuỳ lòng sở thích của chúng sinh làm cho họ hoan hỷ nên biết tục đế. Vì thông đạt nhất thiết tướng nên biết đệ nhất nghĩa đế. Vì tỏ thấu tự tướng cộng tướng của các pháp nên biết tướng đế. Vì rõ phần vị sai biệt của các pháp nên biết sai biệt đế. Vì khéo phân biệt uẩn xứ giới nên thành lập đế . Vì tỏ ngộ các loài sinh tương tục nên biết sinh đế. Vì tất cả nhiệt não rốt ráo diệt nên biết tận vô sinh trí đế. Vì xuất sinh vô nhị nên biết nhập đạo trí đế. Vì chính giác ngộ tất cả hành tướng nên biết tất cả bồ tát địa thứ đệ thành tựu đế nhẫn đến biết Như Lai trí thành tựu đế.

Ðây là dùng sức tín giải trí mà biết chẳng phải dùng sức cứu cánh trí .

Chư Phật tử! Ðại bồ tát này được các đế trí thời biết như thiệt tất cả pháp hửu vi hư vọng dối trá gạt phỉnh kẻ ngu, vì thế nên đối với tất cả chúng sinh càng tăng thêm quang minh đại bi và đại từ.

Chư Phật tử! đại bồ tát được trí lực như vậy chẳng bỏ một chúng sinh, thường cầu Phật trí, quán sát như thiệt tất cả hạnh hửu vi về tiến tế và hậu tế: rõ biết từ tiền tế vô minh, ái, hửu mà sinh, do đây sinh tử lưu chuyển. Nơi các nhà ngũ uẩn không thể thoát ra, thêm lớn sự khổ, không ngã, không thọ giả, không gì kẻ dưỡng dục, không gì là kẻ luôn thọ lấy than loài sau, rời ngã và ngã sở.

Như tiền tế, hậu tế cũng như vậy, đều là vô sở hửu, hư vọng tham trước, dứt hết thời được giải thoát. Hoặc có hoặc không điều biết như thiệt.

Chư Phật tử! Ðại bồ tát này lại nghĩ rằng: hàng phàm phu này ngu si vô trí thật là đáng thương. Có vô số thân đã mất, nay mất, sẽ mất. Diệt mất như vậy mà chẳng thể đối với thân có quan niệm nhàm lì, lại thêm lớn cơ quan khổ sở, theo dòng sinh tử chẳng trở lại được. Nơi những nhà ngũ uẩn chẳng cầu thoát khỏi, chẳng biết lo sợ bốn rắn độc lớn, không nhổ được những mũi tên kiêu mạn kiến chấp, không dập tắt được ngọn lưởi tham, sân, si, không pháp tan được màn vô minh, không làm khô cạn được biển lớn ái dục. Họ chẳng biết cầu đấng đại thánh đạo sư đủ mười trí lực, mà vào trong rừng rậm ma ý. Ở trong biển sinh tử họ bị lượng sóng giác quán cuốn trôi nhận chìm.

Chư Phật tử! đại bồ tát này lại nghĩ rằng: những chúng sinh này thọ khổ như vậy, có cùng khốn đốn, không chỗ nương, không ai cứu, không đất, không nhà, không mắt, không người dẫn dắt  Họ bị vô minh che loà, màn tối chụp trùm.

Nay tôi vì họ mà tu hành những pháp trợ đạo phước trí. Ðơn độc pháp tâm chẳng cầu bè bạn. Ðem công đức này làm cho chúng sinh được rốt ráo thanh tịnh, nhẫn đến chứng được mười trí kực vô ngại của Như Lai.

Chư Phật tử! Ðại bồ tát này dùng trí huệ quán sát thiện căn đã tu như vậy, đều vì cứu hộ tất cả chúng sinh, lợi ích tất cả chúng sinh, thương xót tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả chúng sinh, thương xót tất cả chúng sinh, thành tựu tất cả chúng sinh, giải thoát tất cả chúng sinh nhiếp thọ tất cả chúng sinh, khiến tất cả chúng sinh lìa những khổ não, khiến tất cả chúng sinh đều được thanh tịnh, khiến tất cả chúng sinh đều được điều phục, khiến tất cả chúng sinh chứng nhập Niết Bàn .

Chư Phật tử! Ðại bồ tát an trụ bậc đệ ngũ nan thắng địa, gọi là "niệm" là vì chẳng quên chính pháp, gọi là "trí "là vì hay khéo nói quyết rõ, gọi là "hửu trí" là vì biết ý thú kinh thứ đệ liên hiệp, gọi là "tàm quý" là vì hộ mình hộ người, gọi la "nên cố" là vì chẳng bỏ giới hạnh, gọi là "giác" là vì hay quán sát thị xứ phi xứ, gọi là "tuỳ trí" là vì chẳng tuỳ nơi khác, gọi là "tuỳ huệ" là vì khéo biết câu sai biệt đúng nghĩa hay chẳng đúng nghĩa, gọi là "thần thông", là vì khéo tu thiền định, gọi là "phương tiện thiện xảo" là vì có thể thật hành theo thế gian, gọi là "vô yểm túc " là vì khéo chứa phước đức, gọi là "bất hưu tức "là vì thường cầu trí huệ, gọi là "bất bì quyện "là vì chứa đại từ bi, gọi là "siêng tu vì người "là vì muốn cho tất cả chúng sinh chứng nhập Niết Bàn, gọi là "cần cầu chẳng giải đãi" là vì cầu trí lực, vô uý, bất cộng pháp của Như Lai, gọi là "mống ý hay làm" là vì thành tựu trang nghiêm Phật độ, gọi là "siêng tu công hạnh lành" là vì hay đầy đủ tướng hảo, gọi là "thường siêng tu tập" là vì cầu trang nghiêm thân, ngữ, ý Như Lai, gọi là "rất tôn trọng cung kính phá" là vì đúng như lời dạy của tất cả Đại Bồ tát mà thật hành, gọi là "tâm không chướng ngại" là vì dùng đại phương tiện thường du hành thế gian, gọi là "ngày đêm xa lìa những tâm khác" là vì thích giáo hoá chúng sinh.

Chư Phật tử! Lúc đại Bồ Tát siêng tu hành như vậy, dùng Bố thí để giáo hoá chúng sinh, dùng ái ngữ lợi hành và đồng sự để giáo hoá chúng sinh. Thị hiện sắc thân để giáo hoá chúng sinh, diễn thuyết các pháp để giáo hoá chúng sinh. Khai thị Bồ Tát hạnh để giáo hoá chúng sinh. Hiển thị lỗi lầm khổ sở của sinh tử để giáo hoá chúng sinh. Khen ngợi trí huệ lợi ích của Như Lai để giáo hoá chúng sinh. Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sinh. Hiện sức đại thần thông để giáo hoá chúng sinh. Dùng các môn phương tiện để giáo hoá chúng sinh. Dùng các môn phương tiện để giáo hoá chúng sinh.

Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này có thể siêng năng phương tiện như vậy để giáo hoá chúng sinh, lòng luôn tương tục thẳng đến Phật trí, Thiện căn đã tu không hề thối chuyển, Thường siêng tu học những pháp hành thù thắng.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát này vì lợi ích chúng sinh nên gồm học tập tất cả kỹ nghệ thế gian, thông đạt cả những môn văn tự , toán số , đồ thơ , ấn loát , các sách luận về địa , thuỷ , hoả phong. Lại giỏi phương thuốc trị lành các bịnh: điên cuồng , càn tiêu , quỷ mị , cổ độc . lại giỏi những thứ văn bút , tấn vịnh , ca vũ, kỷ nhạc,diễu cười, đàm luận.Biết rành cách thức kiến thiết thành trì,thôn ấp,nhà cửa,vườn tược, suối ao, cây cỏ, hoa trái, dược thảo.Biết những nơi có mõ vàng, bạc, châu, ngọc.Giỏi xem biết rành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, chim hót, địa chấn, chiêm bao tốt xấu, thân tướng sang hèn.Những môn trì giới, nhập thiền định,vô lượng thần thông,tứ vô sắc và tất cả việc thế gian khác,nếu là những sự không làm tổn chúng sinh mà đem lại lợi ích thời đều khai thị cho họ,lần đưa họ đến Phật pháp vô thượng .

Chư Phật tử! Đại Bồ Tát trụ bậc Nan thắng này , do nguyện lực được thấy nhiều Ðức Phật , nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha Đức Phật , nhẩn đến thấy trăm ngàn ức na do tha Đức Phật , đều kính trọng cúng dường,cũng cúng dường tất cả chúng tăng . Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề . nơi Chư Phật cung kính nghe pháp , nghe xong thọ trì tuỳ sức tu hành.Sau đó xuất gia lại nghe Phật pháp được đà la ni làm qua trăm kiếp nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp,những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch .

Chư Phật tử! ví như chân kim dùng ngọc xa cừ để dồi bóng thời càng thêm sáng sạch .

Cũng vậy, Bồ Tát này dùng Phương tiện huệ tư duy quán sát, những thiện căn đã có càng thêm sáng sạch .

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc nan thắng địa dùng tiện trí thành tựu công đức,những thiện căn của bậc dưới không thể sánh kịp .

Chư Phật tử! như mặt trời mặt trăng cung điện quang minh do sức gió chấp trì nên không bị chướng ngăn phá hoại, cũng chẳng phải sức gió khác làm khuynh động được .

Cũng vậy , những thiện căn của bậc Bồ Tát này , do phương tiện trí theo dõi quán sát nên không bị ngăn hoại, cũngchẳng phải thiện căn của tất cả độc giác, thanh văn và thế gian làm khuynh động được .

Trong mười môn ba la mật, Bồ Tát này thiên nhiều về thiền ba la mật, với các môn khác thời tuỳ phần tuỳ sức .

Chư Phật tử! đây là lược nói về đệ ngũ nan thắng địa Bồ Tát .

Bồ Tát ở bậc này thường làm đâu suất thiên vương .Ðối với chúng sinh đều được tự tại.Dẹp trừ tất cả ngoại đạo tà kiến, có thể làm cho chúng sinh trụ trong thiệt đế .

Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm pháp,niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ nhất thiết chủng trí .

Bồ Tát này lại nghĩ rằng: tôi sẽ ở trong chúng sinh làm thượng thủ, làm thắng, làm thù thắng, làm diệu, làm vi diệu , làm vô thượng nhẫn đến làm bậc y chỉ của nhất thiết chủng trí .

Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được ngàn ức tam muội,thấy ngàn ức Ðức Phật , biết thần lực của ngàn ức Ðức Phật,có thể chấn động ngàn ức thế giới,nhẫn đến thị hiện ngàn ức thân Phật , mỗi mỗi thân hiện ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc .

Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại để thị hiện thời hơn vô số trên đây , nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm được .

Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Bồ Tát tứ địa đã thanh tịnh

Tư duy tam thế Phật bình đẳng

Giới,tâm,trừ nghi,đạo phi đạo ,

Quán sát như vậy vào ngũ địa .

Niệm xứ làm cung ,căn làm tên .

Chính cần làm ngựa , xe: thần túc ,

Giáp sắt ngũ lực phá oán địch ,

Mạnh mẽ bất thối vào ngũ địa ,

Tàm quý y phục, hoa giác phần

Tịnh giới y phục, hoa giác phần

Tịnh giới làm hương, thiền hương thoa

Trí huệ phương tiện diệu trang nghiêm

Vào rừng tổng trì, vườn tam muội .

Như ý làm chân,cổ chính niệm ,

Từ bi làm mắt, răng trí huệ ,

Ðấng sư tử vô ngã rống vang động .

Phá giặc phiền não vào ngũ địa

Bồ Tát trụ bậc đệ ngũ này

Chuyển tu thắng thượng đạo thanh tịnh

Chí cầu Phật pháp chẳng bất thối chuyển

Gẩm nhớ từ bi không nhàm mõi .

Chứa nhóm phước trí thắng công đức

Tinh tấn phương tiện quán bậc trên

Phật lực gia hộ đủ niệm huệ

Rõ biết tứ đế như thiệt .

Khéo biết thế đế , thắng nghĩa đế

Tướng đế , sai biệt thành lập đế ,

Sự đế, sinh , tận và đạo đế.

Nhẫn đến Như Lai vô ngại đế.

Quán đế như vậy đầu vi diệu

Chưa được vô ngại thắng giải thoát .

Do đây hay sinh thắng công đức .

Cho nên vượt hơn thế trí huệ .

Ðã quán đế rồi biết hửu vi .

Thể tính hư dối không bền chắc

Ðược phần từ quang của chư Phật

vì lợi chúng sinh cầu Phật trí .

Quán pháp hửu vi thuở trước sau

Vô minh tối tăm , ái ràng buộc

Lưu chuyển xoắn trong quả khổ

Không ngã, không nhơn, không thọ mạng .

Ái thủ làm nhơn thọ khổ sau

Muốn tìm ngằn mé không thể được ,

Mê vọng trôi chìm không thuở về

Bọn này đáng thương tôi phải độ .

Nhà: uẩn, rắn: cõi, mũi tên: chấp

Tâm hoả hừng hực, si tối nặng

Sông ái cuốn trôi chẳng rảnh xem

Biển khổ dật dờ không người dắt .

Rõ biết như vậy siêng tinh tấn

Chổ làm đều vì độ chúng sinh

Gọi là người có niệm có huệ

Nhẫn đến có giác giải phương tiện .

Tu tập phước trí không nhàm đủ

Cung kính đa văn chẳng mõi nhàm

Cõi nước tướng hảo đều trang nghiêm

Như vậy đều ví chúng sinh cả

Vì muốn giáo hoá các thế gian

Giỏi biết thơ số cách ấn loát

Và cũng biết rành các phương thuốc

Chửa trị bịnh tật đều được lành .

Văn từ , ca vũ đều khéo giói

Nhà cửa,vườn ao đều an ổn .

Mõ vàng , bạc ngọc đều pháp hiện

Vô lượng chúng sinh nhờ lợi ích .

Nhựt, nguyệt, tinh tú và địa chấn

Nhẫn đến thân tướng cũng quán sát

Tứ thiền,vô sắc và thần thông

Vì lợi thế gian đều hiển thị .

Trí giả trụ bậc nan thắng này

Cúng vô lượng Phật và nghe pháp

Như dùng diệu bửu trau chân kim

Thiện căn đã có càng sáng sạch .

Ví như tinh tú ở hư không

Phong lực chấp trì không tổn động .

Cũng như hoa sen không dính nước

Bồ Tát độ đời cũng như vậy .

Bậc này thường làm đâu suất vương

Hay dẹp ngoại đạo các Phật trí

Nguyện được thập lực độ tận chúng sinh

Ngài tu hành đại tinh tấn

Liền được cúng dường ngàn ức Phật

Ðắc định, động cõi cũng ngàn ức

Nếu là nguyện lực lại hơn đây .

Bồ Tát đệ ngũ nan thắng địa

Chân đạo tối thượng trong nhơn gian

Tôi cùng các môn phương tiện lực

Vì Chư Phật đã tuyên thuyết .

Bồ Tát đã nghe những thắng hạnh

Lòng rất hoan hỷ rải hoa thơm

Phóng tịnh quang minh rải bửu châu

Cúng duờng Như Lai khen nói giỏi .

Trăm ngàn thiên chúng đều vui mừng

Ðồng ở hư không rải các báu:

Tràng hoa, chuổi ngọc và tràng phan

Lọng báu , hương thoa đều cúng Phật .

Tự tại thiên vương cùng quyến thuộc

Lòng sinh hoan hỷ trụ hư không

Rải báu thành mây dùng cúng dường

Khen rằng Phật tử khéo tuyên thuyết!

Vô lượng thiên nữ ở hư không

Ðồng tấu nhạc âm ca ngợi Phật

Trong tiếng ca nhạc đều nói rằng

Lời Phật hay trừ bịnh phiền não ,

Pháp tính bổn tịch không hình tướng

Dường như hư không chẳng phân biệt

Ngoài những chấp trước , tuyệt nói phô

Chân thiệt bình đẳng thường thanh tịnh .

Nếu muốn thông đạt các pháp tính

Nơi có , nơi không lòng chẳng động

Vì muốn cứu đời siêng tu hành

Từ miệng Phật sinh chân Phật tử .

Bố thí vẫn không thấy có tướng ,

Vốn đứt điều ác gìn giử tịnh giới ,

Hiểu pháp không hại , thường nhẫn nhịn ,

Biết pháp tính ly , chuyên tinh tấn ,

Ðã hết phiền não vào thiền định ,

Khéo đạt tính không,phan biệt pháp

Ðầy đủ trí lực ,hay cứu rộng

Diệt trừ điều ác xưng đại sĩ .

Diệu âm như vậy ngàn vạn thứ

Khen rồi đứng yên chiêm ngưỡng Phật .

Giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: thưa Phật tử! đại Bồ Tát đã đủ đệ ngũ địa muốn vào đệ lục hiện tiền địa phải quán sát mười pháp bình đẳng.

Ðây là mười pháp:

Tất cả pháp vì vô tướng nên bình đẳng vì vô thế nên bình đẳng , vì vô sinh nên bình đẳng,vì vô diệt nên bình đẳng , vì bổn lai thanh tịnh nên bình đẳng , vì không hý luận nên bình đẳng,vì không thủ xã nên bình đẳng,vì tịch tịnh nên bình đẳng.Vì như huyễn,như mộng,như bóng, như vang, như trăng trong nước, như tượng trong gương , như dương diệm, như biến hoá nên bình đẳng , vì có không bất nhị nên bình đẳng .

Bồ Tát quán sát các pháp như vậy , tự tính thanh tịnh , tuỳ thuận không trái được vào đệ lục hiện tiền địa , được minh lợi tuỳ thuận nhẫn, chưa được vô sinh pháp nhẫn.

Chư Phật tử! đại Bồ Tát này quán như vậy rồi , lại lấy đại làm đầu , đại bi tăng thượng , đại bi đầy đủ , quán thế gian sinh diệt mà nghĩ rằng:

Thế gian thọ sinh đều do chấp ngã.Nếu lìa chấp ngã thời không chỗ sinh .

Lại nghĩ rằng: phàm phu không trí huệ chấp lấy ngã thường tìm có không , suy xét bất chính, khởi vọng hạnh, làm đạo tà, nghiệp tội, nghiệp bất động tích tập thêm lớn.Ở trong các nghiệp hành trồng hột giống tâm hửu lậu hữu thú, lại khởi hậu hữu: sinh và lão tử.Chính là: nghiệp làm đồng ruộng, thức làm hột giống, vô minh che rợp, nước ái thấm nhuần, ngã mạn tưới bón, lưới chấp kiến thêm lớn, mọc mầm danh sắc, danh sắc thêm lớn nẩy chồi ngũ căn , các căn đối nhau sinh ra xúc, xúc đối sinh có thọ, sau khi thọ rồi mong cầu sinh có ái , ái tăng thêm sinh ra thủ, thêm lớn thủ sinh ra hữu, đã sinh hữu thời ở trong các loài khởi thân ngũ uẩn gọi là sinh,suy biển gọi là lão,chết mất gọi là tử. Lúc lão tử sinh ra những nhiệt não .Do nhiệt não nên đủ thứ khổ ưu sầu, buồn than tập họp lại .Ðây là do duyên mà tập họp chớ không có cái tập họp.Lần lượt mà diệt chớ không có cái diệt .

Bồ Tát tuỳ thuận quán sát tương duyên khởi như vậy .

Chư Phật tử! Đại Bồ Tát này lại nghĩ rằng: vì chẳng tỏ ngộ nơi đệ nhất nghĩa đế nên gọi là vô minh . nghiệp quả là hành .sơ tâm của hành y chỉ là thức. Bốn uẩn cùng thức sinh chung là danh sắc. Danh sắc tăng trưởng là lục nhập .Căn , cảnh, thức ba thứ hòa hiệp là xúc. Xúc sinh chung mà có thọ. Nhiễn trước nơi thọ là ái .Thêm lớn ái thành ra thủ. Nghiệp hữu lậu do thủ khởi lên là hữu. Từ nghiệp khởi ra uẩn là sinh. Uẩn chín mùi là lão. Uẩn hư hoại là tử .Lúc mê tham luyến trong lòng phiền muộn là sầu. Rơi lệ than thở là thán .Tại năm căn là khổ .Tại ý tưởng là ưu . Ưu khổ càng nhiều là não .

Như thế thì chỉ có cây khổ làm tăng trưởng , trọn không ngã không ngã sở, không tác giả, không thọ giả .

Lại nghĩ rằng: nếu có tác giả thời có tác sự .Nếu không tác giả thời không tác sự .Trong đệ nhất nghĩa đế hoàn toàn bất khả đắc .

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát này lại nghĩ rằng: toàn cả tam giới chỉ có nhất tâm .Ơ 73;ây Ðức Như Lai phân biệt diễn nói mười hai chi, đều y cứ nhất tâm mà an lập như vậy .

Tại sao vậy ? Vì theo sự tham dục cùng tâm sinh chung .Tâm là thức, sự là hành .Mê lầm nơi hành là vô minh .Cùng vô minh và tâm sinh chung là danh sắc .Tăng trưởng danh sắc là lục nhập .Lục nhập ba phần là xúc .Xúc sinh chung là thọ .Thọ không nhàm đủ là ái .Ái nhiếp chẳng bỏ là thủ .Các hữu chi sinh là hữu .Của hữu phát khởi gọi là sinh .Sinh thục là lão .Lão hoại là tử

Chư Phật tử! trong đây vô minh có hai thứ nghiệp: một là làm cho chúng sinh mê nơi cảnh sở duyên, hai là làm nhơn sinh khởi cho hành .

Hành cũng có hai thứ nghiệp: một là có thể sinh ra báo vị lai, hai là làm nhơn sinh khởi cho thức .

Thức cũng có hai thứ nghiệp: một là khiến các hữu nối tiếp,hai là làm nhơn sinh khởi cho danh sắc .

Danh sắc cũng có hai thứ nghiệp: một là trợ thành lẫn nhau,hai là làm nhơn sinh khởi cho lục nhập .Lục nhập cũng có hai thứ nghiệp: một là đều riêng lấy cảnh giới của tự mình, hai là làm nhơn sinh khởi cho xúc .

Xúc cũng có hai thứ nghiệp: một là hay xúc cảnh sơ ên, hai là làm nhơn sinh khởi cho thọ .

Thọ cũng có hai nghiệp: một là hay lãnh thọ các sự yêu ghét , hai là làm nhơn sinh khởi cho ái .

Ái cũng có hai nghiệp: một là nhiễm trước sự khả ái, hai là làm nhơn sinh khởi cho thủ .

Thủ cũng có hai nghiệp: một là làm cho các phiền não nối tiếp, hai là làm nhơn sinh khởi cho hữu .

Hữu cũng có hai nghiệp: một là hay làm cho sinh trong các loài, hai là làm nhơn sinh khởi cho sinh .

Sinh cũng có hai nghiệp: một là hay khởi các uẩn, hai là làm nhơn sinh khởi cho lão .

Lão cũng có hai nghiệp: một là làm cho các căn biến đổi, hai là làm nhơn sinh khởi cho tử .

Tử cũng có hai thứ nghiệp: một là hay làm hoại cách hành, hai là vì chẳng giác tri nên nối tiếp chẳng dứt .

Chư Phật tử! trong đây vô minh,duyên hành, nhẫn đến sinh duyên lão tử .Do vô minh làm duyên, nhẫn đến sinh làm duyên làm cho hành nhẫn đến lão tử chẳng dứt , vì nó trợ thành vậy .

Vô minh diệt thời hành diệt, nhẫn đến sinh diệt thời lão tử diệt .Do vô minh chẳng làm duên nhẫn đến sinh chẳng làm duyên, khiến cho hành nhẫn đến lão tử dứt diệt, vì nó chẳng trợ thành vậy .

Chư Phật tử! trong đây vô minh ái và thủ chẳng dứt là phiền não đạo . Hành và hữu chẳng dứt là nghiệp đạo .Những phần khác chẳng dứt là khổ đạo.

Tiền tế hậu tế phân biệt dứt diệt thời ba đạo dứt diệt .

Ba đạo như vậy lìa ngã, lìa ngã sở, chỉ có sinh diệt dường như bó lau .

Lại vô minh duyên hành là quán quá khứ .Thức nhẫn đến thọ là quán hiện tại . Ái nhẫn đến hữu là quán vị lai .Từ đây về sau xoay vần tiếp nối .

Vô minh diệt, hành diệt, đó là quán chờ dứt diệt .

Lại mười hai hữu chi gọi là tam khổ .Trong đây vô minh , hành đến lục nhập là hành khổ .Xúc , thọ là khổ khổ . Những chi khác là hoại khổ .

Vô minh diệt, hành diệt đó là ba khổ dứt .

Lại vô minh duyên hành là vô minh làm nhơn hay sinh các hành .Các chi khác cũng vậy .

Vô minh diệt hành diệt đó là do không vô minh thời hành cũng không .Các chi khác cũng không . Các chi khác cũng vậy .

Lại vô minh duyên hành đó là sinh phược .vô minh diệt hành diệt đó là diệt hệ phược .Các chi khác cũng vậy .

Lại vô minh duyên hành đó là tùy thuận vô sở hữu quán .vô minh diệt hành diệt đó là tùy thuận tận diệt quán .Các chi khác cũng vậy .

Chư Phật tử! đại Bồ Tát quán nghịch thuận các duyên khởi có mười cách như vậy là vì hữu chi nối tiếp , vì nhiếp tại nhất tâm, vì tự nghiệp sai biệt , vì tam đạo chẳng dứt , vì quán quá khứ, hiện tại, vị lai , vì ba khổ tụ tập,vì nhơn duyên sinh diệt, vì sinh diệt hệ phược , vì vô sở hữu quán và tận quán .

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát dùng mười tướng như vậy quán các duyên khởi biết là vô ngã, vô nhơn, vô thọ mạng, tự tính không, chẳng có tác giả, không có thọ giả, liền được môn không giải thoát hiện tiền .

Quán các hữu chi đều là tự tính diệt, rốt ráo giải thoát, không có chút pháp tướng sinh, liền được môn vô tướng giải thoát hiện tiền .

Nhập không , vô tướng rồi, không nguyện cầu, chỉ trừ đại bi làm đầu giáo hoá chúng sinh , liền được môn vô nguyện giải thoát hiện tiền .

Bồ Tát tu ba môn giải thoát như vậy , lìa tưởng ngã, lìa tưởng tác giả, tưởng thọ giả, lìa tưởng hữu vô

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát này đại bi càng tăng thêm siêng năng tu tập, vì chưa viên mãn pháp Bồ đề phần nên làm cho viên mãn .

Bồ Tát nghĩ rằng: tất cả hữu vi, có hoà hiệp thời chuyển, không hoà hiệp thời không chuyển. Duyên nhóm thời chuyển, duyên không nhóm thời chẳng chuyển. Tôi biết pháp hữu vi có nhiều lỗi hoạ như vậy , nay phải dứt nhơn duyên hoà hiệp này . Nhưng vì phải thành tựu chúng sinh nên cũng chẳng dứt các công hạnh .

Chư Phật tử! Bồ Tát như vậy quán sát các pháp hữu vi có nhiều lỗi ác, không có tự tính, không sinh không diệt mà hằng khởi đại bi chẳng bỏ chúng sinh , liền được bát nhã ba la mật hiện tiền, gọi là vô chướng ngại trí quang minh .

Thành tựu trí quang minh như vậy rồi, dầu tu tập Bồ đề phần nhơn duyên mà chẳng trụ trong hữu vi, dầu quán pháp hữu vi tự tính tịch diệt, cũng chẳng trụ trong tịch diệt. Vì pháp Bồ đề phần chưa viên mãn .

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc hiện tiền địa này, được nhập không tam muội, tự tính không tam muội, đệ nhất không tam muội , hiệp không tam muội, khởi không tam muội , như thiệt bất phân biệt không tam muội , bất xã ly không tam muội .

Bồ Tát này được mười môn không tam muội như vậy làm đầu. Kế đó trăm ngàn không tam muội đều hiện tiền cả .

Mười môn vô tướng không tam muội, mười môn vô nguyện tam muội như vậy làm đầu , kế đó trăm ngàn môn vô tướng, vô nguyện đều hiện tiền cả .

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc hiện tiền địa này lại tu tập đầy đủ tâm bất khả hoại, tâm quyết định , tâm thuần thiện, tâm thậm thâm, tâm , tâm bất thối chuyển, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm bất hưu tức, tâm quảng đại, tâm vô biên, tâm cầu trí, tâm phương tiện huệ tương ưng, tất cả đều viên mãn .

Chư Phật tử! Bồ Tát dùng mười tâm này thuận Phật Bồ đề , chẳng sợ dị luận, vào các trí địa, lìa đạo nhị thừa, thẳng đến Phật trí, các ma phiền não không trở lại hư hoại được, trụ nơi Bồ Tát trí huệ quang minh. Trong pháp không, vô tướng, vô nguyện đều khéo tu tập, trí huệ phương tiện luôn chung tương ưng, pháp Bồ đề phần thường thật hành chẳng bỏ .

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ trong bậc hiện tiền địa này được tăng thượng hạnh bát nhã ba la mật , được đệ tam minh lợi thuận nhẫn, vì tuỳ thuận không trái với tướng như thiệt của các pháp .

Chư Phật tử! Bồ Tát đã an trụ nơi bậc hiện tiền địa này, do nguyện lực nên được thấy nhiều Ðức Phật , nhẫn đén thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật đều dùng tâm quãng đại, thâm tâm để cúng dường cung kính tôn trọng tán thán, cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề .

Nơi Chư Phật ,Bồ Tát này cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam muội trí huệ quang minh, tuỳ thuận tu hành ghi nhớ chẳng bỏ . Lại được pháp tạng thậm thâm của Chư Phật . Trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp , những thiện căn đã có lại càng sáng sạch .

Ví như chân kim,. Dùng báu tỳ lưu ly luôn dồi bóng, thời càng thêm sáng sạch .

Cũng vậy, Bồ Tát đệ lục địa này dùng phương tiện huệ theo dõi quán sát, những thiện căn đãđược càng thêm sáng sạch, càng thêm tịch diệt, hkông gì che khuất được.

Ví như ánh sáng của mặt trăng chiếu đến thân chúng sinh làm cho được mát mẽ, bốn thứ phong luân không ngăn hoại được .

Cũng vậy, những thiện căn của bậc Bồ Tát này hay dập tắt ngọn lửa phiền não của vô lượng trăm ngàn ứu na do tha chúng sinh . Bốn thứ ma đạo không phá hoại được.

Trong mười môn Ba la mật , Bồ Tát này thiên nhiều về bát nhã ba la mật, ngoài ra tuỳ sức tuỳ phần tu các môn khác .

Chư Phật tử! đây là lược nói về đại Bồ Tát đệ lục hiện tiền địa. Bồ Tát an trụ nơi bậc này thường hiện làm thiện hóa thiên vương, việc làm tự tại. Tất cả sự vấn nạn của hàng thanh văn không làm thối khuất được. Có thể làm cho chúng sinh trừ diệt ngã mạn, thâm nhập duyên khởi .

Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm pháp, niệm tăng, nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát này lại nghĩ rằng: với tất cả chúng sinh, tôi sẽ là thượng thủ, là thắng, nhẫn đến bậc y chỉ của Nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát này nếu chuyên cần tinh tấn, trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức thân Phật, mỗi mỗi thân Phật thị hiện trăm ngàn ức Bồ Tát làm quyến thuộc.

Nếu dùng nguyện lực thị hiện tự tại thời hơn đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.

Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Bồ Tát viên mãn Ngũ Ðịa rồi

Quán pháp vô tướng cũng vô tính

Vô sinh vô diệt vốn thanh tịnh

Không có hỷ luân không thủ xả.

Thể tướng tịch diệt như huyễn thảy

Hữu vô bất nhị rời phân biệt

Tùy thuận pháp tính quán như vậy

Trí này được thành nhập Lục Ðịa.

Ðầy đủ trí minh lợi thuận nhẫn

Quán sát thế gian tướng sinh diệt

Do sức si tối có thế gian

Si tối diệt mất không thế gian.

Quán các nhơn duyên không thiệt tính

Chẳng hoại giả, gọi hoà hiệp dụng

Vô tác, vô thọ, không nghĩ nhớ

Hành pháp như mây nổi khắp nơi .

Chẳng biết chân đế gọi vô minh

Gây tạo tư: nghiệp,ngu si: quả .

Thức khởi sinh chung gọi là danh sắc ,

Như vậy nhẫn đến những khổ tụ,

Rõ thấu ba cõi nương nơi tâm

Mười hai nhơn duyên cũng nương tâm

Sinh tử đều do tâm làm ra

Tâm nếu diệt dứt, sinh tử hết.

Vô minh công dụng có hai thứ:

Mê lầm sở duyên, làm thành nhơn,

Như vậy nhẫn đến lão và tử

Do đây quả khổ không cùng tận .

Vô minh làm duyên chẳng thể dứt,

Duyên đó nếu dứt tất cả dứt,

Ngu si, ái,thủ: phiền não chi

Hành, hữu là nghiệp, nghiệp, chi khác: khổ.

Si đến lục nhập là hành khổ,

Xúc thọ thêm lớn là khổ khổ,

Còn những chi khác là hoại khổ,

Nếu thay vô ngã ba khổ dứt.

Vô minh cùng hành thuộc quá khứ,

Thức đến xúc, thọ thuộc hiện tại

Ái, thủ, hữu sinh khổ vị lai.

Quán đãi nếu dứt: biên tế dứt .

Vô minh làm duyên: là sinh phược

Rời được nơi duyên phược mới hết

Từ nhơn sinh quả, lìa thời dứt,

Quán sát nơi đây biết tính không .

Tuỳ thuận vô minh khởi ba cỏi .

Nếu không tuỳ thuận ba cõi dứt,

Có đây có kia, không cũng vậy

Mười cách tư duy tâm lìa chấp.

Hữu chi tiếp nói nhiếp nhất tâm

Tự nghiệp chẳng rời và tam đạo,

Tam tế, tam khổ nhơn duyên sinh

Hệ phược khởi diệt thuận vô tận ,

Như vậy , quán khắp pháp duyên khởi

Vô tác, vô thọ, không chân thiệt

Như huyễn, như mộng, như bóng vang

Như kẻ ngu chay theo dương diệm.

Quán sát như vậy vào nơi không

Biết duyên tính ly được vô tướng

Rõ pháp hư vọng không nguyện cầu

Chỉ có từ mẫn độ muôn loại.

Ðại sĩ tu hành môn giải thoát

Càng thêm đại bi cầu Phật pháp

Biết các hữu vi hòa hiệp làm

Chí nguyện quyết định siêng hành đạo .

Môn không tam muội đủ trăm ngàn

Vô tướng, vô nguyện cũng như vậy

Bát nhã thuận nhẫn đều không tăng thượng

Giải thoát trí huệ được viên mãn .

Lại dùng thâm tâm cúng nhiều Phật

Ở trong Phật giáo tu tập đạo

Ðược Phật pháp tạng thêm thiện căn

Như vàng dùng lưu ly trau sáng .

Như trăng sáng mát lợi muôn loài .

Bốn phong luân không ngăn hoại được,

Bậc Bồ Tát này siêu ma đạo

Dứt trừ phiền não cho quần sinh .

Bậc này thường làm thiên hóa vương

Hóa đạo chúng sinh trừ ngã mạn

Công hạnh đều cầu nhất thiết trí

Ðều đã vượt hơn đạo Thanh Văn .

Bồ Tát bậc này siêng tinh tấn

Ðược môn tam muội trăm ngàn ức

Cũng thấy trăm ngàn ức Ðức Phật

Ví như mặt nhựt ngày thạnh hạ .

Tậm thâm vi diệu khó thấy biết

Thanh Văn, độc giác không rõ được

Bồ Tát hiện tiền đệ lục địa

Tôi vì Phật tử đã lược nói .

Bấy giờ thiên chúng lòng hoan hỷ

Rải hoa thành mây dừng hư không

Khắp nơi pháp âm thanh diệu mầu

Thưa cùng đắng tối thắng thanh tịnh:

Rõ thấu thắng nghĩa trí tự tại

Thành tựu công đức trăm ngàn ức

Không chấp trước, như sen không nhiễm

Vì lợi chúng sinh nói thâm hạnh .

Tự tại Thiên Vương ở hư không .

Phóng đại quang minh chiếu thân Phật

Cũng rải mây thơm tối thượng diệu

Cúng khắp đắng sạch trừ phiền não

Bấy giờ thiên chúng đều vui mừng .

Ðều phát tiếng hay đồng ca ngợi:

Chúng tôi được nghe hiện tiền địa

Thời là đã được nhiều lợi lành .

Thiên nữ lúc ấy lòng mừng vui

Cùng trổi âm nhạc ngàn muôn điệu

Ðều do thần lực của Như Lai

Trong tiếng hòa nhạc thành lời nói:

Oai nghi tịch tịnh không sánh kịp

Ðiều ngự chúng sinh đời nên cúng

Ðã siêu tất cả những thế gian

Mà vào thế gian truyền diệu đạo .

Dầu hiện nhiều loại vô lượng thân

Biết thân mỗi mỗi vô sở hữu

Khéo dùng ngôn từ nói các pháp

Chẳng chấp tướng văn tự âm thanh .

Qua đến trăm ngàn các quốc độ .

Dùng những thượng cúng cúng dường Phật

Trí huệ tự tại không chấp trước

Chẳng sinh niệm tưởng cõi Phật ta

Dầu siêng giáo hóa các chúng sinh .

Mà không nhơn ngã tất cả tâm

Dầu đã tu thành hạnh quảng đại

Mà nơi hạnh lành chẳng chấp trước .

Bởi thấy tất cả các thế gian

Lửa tham, sân, si thường cháy hực

Nơi các tưởng niệm thảy đều lìa

Phát khởi đại bi sức tinh tấn .

Tất cả chư thiên và thiên nữ

Cúng dường nhiều thứ khen ngợi rồi

Tất cả đồng thời đứng lặng yên

Chiêm ngưỡng thế tôn mong nghe pháp .

Giải thoát nguyệt vì chúng lại thưa:

Cả đại chúng đây lòng thanh tịnh

Những hành tướng trong đệ thất địa

Trông mong Bồ Tát thương giảng giải .

Kim Cang Tạng Bồ Tát nói với giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: thưa Phật tử! đại Bồ Tát đã tròn đủ công hạnh của đệ lục địa muốn vào đệ thất viễn hành địa, phải tu mười môn phương tiện huệ phát khởi đạo thù thắng .

Ðây là mười đạo thù thắng:

Dầu khéo tu không, vô tướng, vô nguyện tam muội mà từ bi chẳng bỏ chúng sinh .Dầu được pháp bình đẳng của chư Phật mà thích thường cúng dường Phật. Dầu nhập môn quán không trí mà siêng chứa phước đức .Dầu xa rời tam giới mà trang nghiêm tam giới . Dầu rốt ráo dập tắt ngọn lửa phiền não mà có thể vì tất cả chúng sinh khởi hạnh diệt tắt ngọn lửa phiền não tham, sân, si. Dầu biết các pháp như huyễn, như mộng, như bóng, như vang, như dương diệm, như biến hóa, như trăng dưới nước, như tượng trong gương, tự tính bất nhị, mà tuỳ tâm tác động vô lượng sai khác. Dầu biết tất cả quốc độ dường như hư không mà hay dùng diệu hạnh thanh tịnh trang nghiêm Phật độ . Dầu biết pháp thân của Chư Phật bổn tính không thân mà dùng tướng hảo trang nghiêm thân mình . Dầu biết âm thanh của chư Phật tính không tịch diệt chẳng thể ngôn thuyết, mà có thể tuỳ tất cả chúng sinh phát ra các thứ âm thanh thanh tịnh sai khác.Dầu tùy Chư Phật rõ biết tam thế chỉ là nhất niệm, mà tùy ý giải sai biệt của chúng sinh , dùng các loại tướng, các thứ thời gian , các thứ kiếp số để tu tập công hạnh .

Bồ Tát dùng môn Phương tiện huệ phát khởi hạnh thù thắng này, từ đệ lục hiện tiền địa vào đệ thất viễn hành địa. Lúc vào đệ thất địa rồi thời các hạnh này thường hiện tiền, gọi là an trụ nơi đệ thất viễn hành địa.

Phật tử! Đại Bồ Tát an trụ đệ thất địa này rồi, thời vào vô lượng chúng sinh giới, vào vô lượng công nghiệp giáo hóa chúng sinh của Chư Phật , vào vô lượng thế giới võng, vào vô lượng quốc độ thanh tịnh của Chư Phật, vào vô lượng pháp sai biệt, vào vô lượng hiện giác trí của Chư Phật, vào vô lượng kiếp số, vào vô lượng trí giác liễu tam thế của Chư Phật, vào vô lượng tín giải sai biệt của chúng sinh, vào vô lượng các loại thân danh sắc của Chư Phật thị hiện, vào vô lượng căn tính sở thích sai biệt của chúng sinh, vào vô lượng ngữ ngôn âm thanh làm cho chúng sinh hoan hỷ của chư Phật,vào vô lượng các loại tâm hành của chúng sinh, vào vô lượng trí rõ biết rộng lớn của Chư Phật, vào vô lượng tín giải của thinh văn thừa, vào vô lượng trí đạo của Chư Phật dạy khiến tín giải, vào vô lượng pháp thành tựu của bích chi Phật, vào vô lượng môn terí huệ thâm thâm của chư Phật dạy khiến thẳng vào, vào vô lượng hạnh phương tiện của chư Bồ Tát, vào vô lượng sự tập thành của đại thừa của Chư Phật dạy làm cho Bồ Tát được vào.

Bồ Tát này nghĩ rằng: vô lượng cảnh giới của Như Lai như vậy, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha như vậy, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được.Tôi đều phải dùng tâm vô công dụng, vô phân biệt để thành tựu viên mãn.

Chư Phật tử! Bồ Tát này dùng thâm trí huệ quán sát như vậy.Thường siêng tu tập Phương tiện huệ khởi đạo thù thắng an trụ bất động, không một niệm thôi nghỉ phế bỏ. Ði, đứng, ngồi, nằm, nhẫn đến lúc ngũ chiêm bao cũng chưa từng tương ưng với cái chướng. Luôn không hề bỏ những quán niệm trên đây.

Trong mỗi niệm, Bồ Tát này thường có thể đầy đủ mười Ba la mật.

Tại sao vậy? Vì mỗi niệm, Bồ Tát này đều lấy đại bi làm trước để tu hành Phật pháp hướng đến Phật trí. Những thiện căn đã có đều vì cầu Phật trí mà bố thí cho chúng sinh, đây gọi là đàn ba la mật. Hay diệt trừ những lửa phiền não, đây gọi là thi la ba la mật. Từ bi làm dđầu không tổn hại chúng sinh, đây gọi là sằn đề ba la mật. Cầu pháp thắng thiện không nhàm đủ, đây gọi là tỳ lê gia ba la mật. Nhất thiết trí đạo thường hiện tiền chưa từng tán loạn, đây gọi là thiền na ba la mật. Hay nhẫn thọ các pháp bất sinh bất diệt, đây gọi là bát nhã ba la mật. Hay xuất sinh vô lượng trí, đây gọi là phương tiện ba la mật, hay cầu thượng thượng thắng trí, đây gọi là nguyện ba la mật. Tất cả dị luận và các ma chúng không trở hoại, đây gọi là lực ba la mật. Rõ biết các pháp đúng thật đây gọi là trí Ba la mật.

Chư Phật tử! mười môn Ba la mật này, trong mỗi niệm Bồ Tát đều đã đầy đủ .

Cũng vậy, bốn nhiếp pháp, bốn pháp trì, ba mươi bảy phẩm trợ đạo, ba môn giải thoát, lược nói nhẫn đến tất cả pháp Bồ đề phần, trong mỗi niệm, Bồ Tát này đều viên mãn cả.

Bấy giờ giải thoát nguyện Bồ Tát hỏi kim cang tạng Bồ Tát rằng: thưa Phật tử! Bồ Tát chỉ ở trong đệ thất địa này đầy đủ tất cả pháp Bồ đề phần, hay là trong các địa cũng có thể đầy đủ?

Kim Cang Tạng Bồ Tát nói: thưa Phật tử! Bồ Tát ở trong mười địa đều có thể đầy đủ pháp Bồ đề phần, nhưng đệ thất địa thù thắng hơn.

Tại sao vậy? Vì đệ thất địa công dụng viên mãn thời được vào trí huệ tự tại hạnh.

Chư Phật tử! Bồ Tát ở trong bậc sơ địa vì duyên tất cả Phật pháp để nguyện cầu nên đây đủ pháp Bồ đề phần. Vì đệ nhị địa lìa tâm cấu nhơ. Vì đệ tam địa nguyện cầu càng tăng trưởng được pháp quang minh. Vì đệ tứ địa nhập đạo. Vì đệ ngũ địa thuận thế gian mà tu tập. Vì đệ lục địa nhập pháp môn thậm thâm. Vì đệ thất địa phát khởi tất cả Phật pháp. Tất cả địa đều cũng đầy đủ pháp Bồ đề phần .

Tại sao vậy? Bồ Tát từ sơ địa đến đệ thất địa thành tựu trí công dụng phần. Do công lực này, từ đệ bát địa đến đệ thập địa vô công dụng hạnh đều được thành tựu .

Chư Phật tử! ví như có hai thế giới: một thời tạp nhiễm, một thời thuần tịnh. Chặng giửa của hai thế giới này khó qua được, chỉ trừ bậc Bồ Tát có đại thần thông phương tiện nguyện lực.

Chư Phật tử! Bồ Tát ở các địa cũng như vậy: có tạp nhiễm hạnh, có thanh tịnh hạnh. Chẳng giửa của hai hạnh này khó qua được, chỉ trừ Bồ Tát có đại nguyện lực Phương tiện trí huệ mới có thể qua được.

Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi: thưa Phật tử! bảy địa Bồ Tát này là nhiễm hạnh hay là tịnh hạnh?

Kim cang tạng Bồ Tát nói: thưa Phật tử! từ sơ địa đến thất địa, công hạnh tu tập đều lìa bỏ nghiệp phiền não, vì hồi hướng vô thượng Bồ đề , vì phần được đạo bình đẳng, nhưng chưa gọi là hạnh siêng phiền não.

Chư Phật tử! Như chuyển luân thánh vương ngự tượng bửu du hành tứ thiên hạ, biết có người bần cùng khốn khổ mà không bị lây những sự hoạ hoạn đó, nhưng chưa được gọi là siêu nhơn loại. Nếu bỏ thân chuyển luân vương sinh lên trời phạm thế, ngự thiên cung thấy ngàn thế giới, du hành ngàn thế giới, thị hiện quang minh oai đức của phạm thiên mới gọi là siêu nhơn loại .

Chư Phật tử! Bồ Tát cũng như vậy. Ban đầu từ bậc sơ địa đến bậc đệ thất địa, ngự xe ba la mật du hành thế gian , biết quá hoạn phiền não của thế gian. Vì ngự chính đạo nên chẳng bị lỗi lầm của phiền não làm lây nhiễm, nhưng chưa gọi là siêu phiền não hạnh. Nếu bỏ tất cả hạnh hữu công dụng, tư đệ thất địa vào đệ bát địa, ngự xe Bồ Tát, thanh tịnh du hành thế gian, biết phiền não lỗi lầm chẳng bị lây nhiễm, mới gọi là siêu phiền não hạnh, vì được siêu quá hết tất cả.

Chư Phật tử! Bồ Tát đệ thất địa này siêu quá hết những phiền não đa tham, đa sân v.v … mà an trụ. Bậc này chẳng gọi là có phiền não, cũng chẳng gọi là không phiền não .

Tại sao vậy? Vì ở bậc này, tất cả phiền não chẳng hiện hành nên gọi chẳng gọi là có. Vì cầu Phật trí tâm chưa mãn toại nên chẳng gọi là không.

Chư Phật tử! Bồ Tát an trụ bậc đệ thất địa dùng tâm thâm tịnh mà thành tựu thân nghiệp, ngữ nghiệp và thành tựu ý nghiệp. Tất cả những nghiệp đạo bất thiện bị Phật quở trách đều đã lìa bỏ. Tất cả thiện nghiệp mà Phật khen thời thường khéo tu hành. Tất cả kinh, thơ, kỷ thuật của thế gian như đã nói ở đệ ngũ địa đều tự nhiên thật hành thông thạo chẳng cần dụng công.

Bồ Tát ở trong đại thiên thế giới làm đại minh sư. Chỉ trừ Ðức Như Lai và từ đệ bát địa trở lên, thâm tâm diệu hạnh của các Bồ Tát khác đều không bằng được.

Ở bậc này, những thiền tam muội, thần thông giải thoát đều được hiện tiền. Nhưng là do tu tập mà thành, chẳng phải báo đắc thành như bậc đệ bát địa.

Bậc Bồ Tát này trong mỗi niệm tu tập đầy đủ Phương tiện trí lực, và tất cả pháp Bồ đề phần đều càng viên mãn hơn.

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc này nhập tam muội Bồ Tát thiện quán trạch, tam muội thiện trạch nghĩa, tam muội tối thắng huệ tam muội phân biệt nghĩa tạng, tam muội như thiệt phân biệt nghĩa, tam muội thiện trụ kiên cố căn, tam muội trí huệ thần thông môn, tam muội pháp giới nghiệp, tam muội Như Lai thắng lợi, tam muội chủng chủng nghĩa tạng sinh tử Niết Bàn môn. Nhập trăm ngàn tam muội đầy đủ môn đại trí thần thông như vậy, tu tập thanh tịnh các trí địa.

Vì Bồ Tát này được nhập các tam muội trên đây khéo tu tập thanh tịnh phương tiện huệ, đại bi lực nên vượt hơn bậc nhị thưa, được qán sát trí huệ địa.

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc này khéo tu tịnh vô lượng thân nghiệp vô tướng hành, ý nghiệp vô tướng hành nên được quang minhvô sinh pháp nhẫn.

Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi: thưa Phật tử! Bồ Tát từ sơ địa đến bậc này có vô lượng thân nghiệp, ngữ nghiệp, ý nghiệp há chẳng vượt hơn háng nhị thừa ư?

Kim cang tạng Bồ Tát nói: thưa Phật tử! các bậc đó đều vượt hơn, nhưng chỉ là do nguyện cầu Phật pháp, chẳng phải là sức tự trí quán sát. Nay trong bậc đệ thất địa này do tự trí lực nên tất cả nhị thừa chẳng kịp được.

Ví như vương tử sinh ở cung vua, do vương hậu sinh có đủ vương tướng. Khi sinh ra thời đã hơn tất cả các quan, nhưng chỉ do đức lực của nhà vua chớ chẳng phải tự lực, khi thân trưởng thành, toàn vẹn tất cả nghề nghiệp oai đức, thời mới là do tự lực mà hơn tất cả thần dân.

Ðại Bồ Tát cũng vậy. Lúc sơ pháp tâm, do vì chí cầu đại pháp nên vượt hơn tất cả Thanh Văn, duyên giác.Nay an trụ bậc đệ thất địa do tự lực trí huệ nên vượt lên trên tất cả nhị thừa.

Chư Phật tử! Bồ Tát an trụ bậc đệ thất địa này được viễn ly vô hành thậm thâm, thường tu hành thân, khẩu, ý, siêng cầu đạo vô thượng chẳng bỏ rời. Thế nên Bồ Tát này dầu đi nơi thiệt tế mà chẳng tác chứng .

Giải thoát nguyệt Bồ Tát hỏi: thưa Phật tử! Bồ Tát từ địa nào lên đến địa nào có thể nhập được diệt định?

Kim cang tạng Bồ Tát nói: thưa Phật tử! Bồ Tát từ đệ lục địa trở lên có thể nhập diệt định. Nay an trụ nơi đệ thất địa này thời có thể mỗi niệm nhập diệt định, cũng mỗi niệm xuất, nhưng không tác chứng.Thế nên Bồ Tát này gọi là thành tựu thân, ngữ, ý nghiệp bất tư nghì, đi nơi thiệt tế mà chẵng tác chứng.

Ví như có người ngồi thuyền vào biển, do sức thiện xảo nên không bị tai nạn.

Cũng vậy Bồ Tát ở bậc này ngồi thuyền ba la mật đi trong biển thiệt tế, do nguyện lực nên chẳng chứng diệt.

Chư Phật tử! Bồ Tát này được tam muội trí lực như vậy, do đại phương tiện, dầu thị hiện sinh tử mà luôn trụ Niết Bàn, dầu quyết thuộc vây quanh mà thường thích xa lìa, dầu do nguyện lực thọ sinh trong ba cõi mà chẳng nhiễm thế pháp, dầu thường tịch diệt do sức phương tiện mà lại phừng cháy, dầu đốt nhưng chẳng cháy, dầu tùy thuận Phật trí mà thị hiện vào bậc thanh văn bích chi Phật, dầu được Phật cảnh giới mà thị hiện ở cảnh giới ma, dầu thị hiệnđồng với ngoại đạo mà chẳng bỏ Phật pháp,dầu thị hiện tùy thuận tất cả thế gian mà thường thật hành tất cả pháp xuất thế.

Bồ Tát này chỗ có tất cả sự trang nghiêm vượt hơn tất cả sự trang nghiêm của trời, rồng, bát bộ, người, phi nhơn. Tứ thiên vương , đế thích chính pháp.

Chư Phật tử! Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy trụ bậc viễn hành địa do nguyện lực nên được thay nhiều Đức Phật, nhẫn đến thấy trăm ngàn ức na do tha Ðức Phật, đều kính trọng tán thán cúng dường với tâm quãng đại, tâm tăng thắng.Cũng cúng dường tất cả chúng tăng. Ðem thiện căn này hồi hướng vô thượng Bồ đề. Lại ở chổ chư Phật cung kính nghe pháp, nghe xong thọ trì, được như thiệt tam muội trí huệ quang minh, tùy thuận tu hành hộ trì chính pháp. thường được Chư Phật hoan hỷ khen ngợi. Hàng nhị thừa không thể vấn nạn làm thua được.Bồ Tát này làm lợi ích chúng sinh pháp nhẫn thanh tịnh. Như vậy trải qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp những thiện căn đã có càng thêm tăng thắng.

Ví như chân kim, dùng các thứ châu báu cẩn xen vào càng làm cho chân kim sáng chói hơn, những vật trang nghiêm khác không thể sánh được.

Những thiện căn của Bồ Tát đệ thất địa này cũng như vậy, do sức phương tiện huệ càng sáng sạch hơn, chẳng phải hàng nhị thừa sánh kịp được.

Chư Phật tử! ví như ánh sáng mặt trời,những ánh sáng của trăng sao v.v…đều không sánh được. Những chổ sình lầy nơi đại địa, ánh sáng mặt trời có thể làm khô ráo

Bồ Tát viễn hành địa này cũng như vậy, tất cả hàng nhị thừa không khéo kịp, được có thể làm cạn khô sình lầy phiền não của tất cả chúng sinh .

Bồ Tát này thiên nhiều về Phương tiện ba la mật. Chín môn ba la mật kia thời tùy sức tùy phần mà tu tập.

Chư Phật tử! Ðây là lược nói đại Bồ Tát Ðệ Thất Viễn Hành Ðịa.

Bồ Tát an trụ bậc này thường làm tự tại Thiên Vương, khéo vì chúng sinh mà nói pháp chứng trí, khiến họ chứng nhập.

Tất cả công hạnh bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự đều chẳng rời niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng nhẫn đến chẳng rời niệm đầy đủ Nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát này lại nghĩ rằng: Tôi sẽ ở trong tất cả chúng sinh làm thượng thủ, là thắng, nhẫn đến là bậc y chỉ của Nhất thiết chủng trí.

Bồ Tát này nếu phát cần tinh tấn, thời trong khoảng một niệm được trăm ngàn ức na do tha tam muội, nhẫn đến thị hiện trăm ngàn ức na do tha Bồ Tát để làm quyến thuộc.

Nếu dùng nguyện lực thù thắng tự tại thị hiện thời hơn số trên đây, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể đếm biết được.

Kim Cang Tạng Bồ Tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:

Ðệ nhất nghĩa trí tam muội đạo

Lục Ðịa tu hành tâm đầy đủ

Tức thời thành tựu phương tiện huệ

Bồ Tát dùng đây vào Thất Ðịa.

Dầu chứng tam thoát nhưng từ bi,

Dầu đồng Như Lai nhưng cúng Phật,

Dầu quán không nhưng chứa phước đức

Bồ Tát do đây lên Thất Ðịa.

Xa rời tam giới mà trang nghiêm,

Dứt trừ lửa phiền mà khởi lửa,

Biết pháp bất nhị nhưng siêng tu

Rõ cõi không hư mà nghiêm độ,

Hiểu thân bất động, đủ các tướng,

Thấu thinh tính ly, khéo khai diễn,

Thâm nhập nhất niệm, hành nhiều việc,

Bậc trí do đây lên Thất Ðịa.

Quán sát pháp này được rõ ràng

Rộng vì chúng sinh làm lợi ích,

Vào chúng sinh giới không biên tế

Công nghiệp giáo hóa cũng vô lượng.

Quốc độ, các pháp cùng kiếp số

Giải, dục, tâm hành đều hay vào

Thuyết pháp tam thừa cũng vô hạn

Như thế giáo hóa các quần sinh.

Bồ Tát siêng cầu đạo tối thắng

Ðộng nghĩ, chẳng bỏ phương tiện huệ

Mỗi mỗi hồi hướng Phật Bồ đề

Niệm niệm thành tựu Ba la mật.

Phát tâm hồi hướng là bố thí,

Dứt hoặc là giới, chẳng hại: nhẫn,

Cầu lành không nhàm là tinh tấn,

Nơi đạo chẳng động tức tu thiền,

Nhẫn thọ vô sinh là Bát Nhã,

Hồi hướng phương tiện là nguyện độ,

Không bị phá: lực, khéo rõ: trí,

Thập độ như vậy đều thành mãn,

Sơ Ðịa phan duyên công đức đủ,

Nhị Ðịa Ly Cấu tam nghiệp tịnh,

Tứ Ðịa nhập đạo, Ngũ thuận hành,

Ðệ Lục vô sinh trí quang chiếu,

Ðệ Thất Bồ đề công đức toàn

Tất cả đại nguyện đều đầy đủ,

Do đây hay khiến bậc nhập Ðịa

Tất cả c⮧ hạnh đều thanh tịnh.

Ðịa này khó qua, trí mới siêu

Ví như chặng giữa hai thế giới

Cũng như Thánh Vương không lây nghèo

Nhưng chưa được gọi: Tổng siêu độ.

Nếu trụ trong Ðệ Bát Trí Ðịa

Mới là vượt qua tâm cảnh giới

Như Phạm Thiên Vương siêu nhơn loại

Như sen ở nước chẳng tanh bùn.

Ðệ Thất dầu siêu các phiền não

Chẳng gọi có hay không phiền não

Chẳng có vì không hoặc hiện hành

Chẳng không vì tâm cầu Phật trí.

Bao nhiêu kỷ nghệ ở thế gian

Kinh sách từ luận đều rành cả

Thiền định, tam muội và thần thông

Tất cả tu hành đều thành tựu.

Bồ Tát tu hành đạo Thất Ðịa

Vượt hơn tất cả hạnh Nhị thừa,

Sơ Ðịa nguyện thành, đây do trí,

Ví như Vương tử đủ oai lực,

Thành tựu thậm thâm vẫn tiến tu

Tâm tâm tịch diệt chẳng tác chứng

Ví như ngồi thuyền vào trong biển

Ở nước chẳng bị nước nhận chìm.

Phương tiện huệ hành đủ công đức

Tất cả thế gian không rõ được

Cúng dường nhiều Phật tâm càng sáng

Như dùng diệu bửu trang nghiêm vàng.

Thất Ðịa Bồ Tát trí rất sáng

Như sáng mặt trời khô nước ái

Thường làm Tự Tại vua cõi Trời

Hóa đạo quần sinh tu chính trí.

Nếu do dũng mãnh tinh tấn lực

Ðược nhiều tam muội thấy nhiều Phật

Trăm ngàn ức số na do tha

Nguyện lực tự tại lại hơn đây.

Ðây là Bồ Tát Viễn Hành Ðịa

Phương tiện trí huệ thanh tịnh đạo

Tất cả thế gian trời và người

Thanh Văn, độc giác không biết được.

Bấy giờ Thiên Vương và thiên chúng

Nghe thắng hạnh này đều hoan hỷ

Vì muốn cúng dường lên Như Lai

Và cùng đại chúng chư Bồ Tát,

Rải hoa, tràng hoa, phan, tràng, lọng,

Hương thơm chuổi ngọc và bửu y,

Vô lượng , vô biên ngàn vạn thứ

Ðều dùng ma ni để nghiêm sức.

Thiên nữ đồng thời tấu thiên nhạc.

Khắp phát các thứ diệu âm thanh

Cúng dường cho Phật và Phật tử

Ðồng nói lời này để tán thán:

Phước trí viên mãn thấy tất cả

Phật thương chúng sinh hiện thần lực,

Khiến cho thứ thiên nhạc trên không

Phát diệu âm thanh khắp được nghe.

Trong một chân long trăm ngàn ức

Na do tha cõi vi trần số

Vô lượng Như Lai như vậy thấy

An trụ trong đó thuyết diệu pháp

Trong một chân lông vô lượng cõi

Ðều có bốn châu và đại hải

Tu di, thiết vi và bửu sơn

Ðều thấy ở trong, không chặt hẹp.

Chổ một chân lông có sáu loài:

Ba loài ác đạo và trời, người

Các chúng long thần, a tu la

Ðều theo tự nghiệp thọ quả báo.

Nơi trong tất cả cõi nuớc kia

Ðều có Như Lai diễn diệu âm

Tuỳ thuận tất cả tâm chúng sinh

Vì chuyển tối thượng tịnh pháp luân.

Trong cõi các loài thân chúng sinh

Trong thân lại có các loại cõi

Trời người các loài đều riêng khác

Phật đều biết rồi đem giảng dạy.

Cõi lớn tùy niệm biến thành nhỏ

Cõi nhỏ tùy niệm cũng biến lớn

Thần thông như vậy số vô lượng

Thế gian chung kể không thể hết.

Khắp pháp diệu âm vô lượng tiến

Ca ngợi Như Lai công đức rồi

Chúng hội hoan hỷ ngồi yên lặng

Nhất tâm chiêm nguỡng muốn nghe pháp.

Ngài giải thoát nguyệt lại thưa rằng:

Nay đây chúng hội đều tịch tịnh

Mong giải thích hành tướng thứ đệ

Nhập đệ bát bất động trí địa.

Kim Cang Tạng Bồ Tát bảo giải thoát nguyệt Bồ Tát rằng: thưa Phật tử! đại Bồ Tát ở trong thất viễn hành địa, khéo tu tập phương tiện huệ, khéo thanh tịnh các đạo, khéo tu tập pháp trợ đạo, do đại nguyện lực nhiếp trì, được Phật lực gia hộ, tự thiện lực giử gìn, thường tưởng nhớ, lực, vô úy, bất cộng của Như Lai, khéo thanh tịnh thâm tâm tự giác, có thể thành tựu phước đức trí huệ, đại từ đại bi chẳng bỏ chúng sinh,vào vô lượng trí đạo, vào tất cả pháp bổn lai vô sinh, vô khởi, vô tướng, vô thành, vô hoại, vô chuyển, vô tính, lay đây làm tính ba thuở sơ, trung, hậu thảy đều bình đẳng vô phân biệt, là chổ nhập của như như trí, lìa tất cả tưởng phân biệt tâm ý thức, không chổ chấp lấy dường như hư không, vào tất cả pháp như tính hư không, đây gọi là được vô sinh pháp nhẫn.

Chư Phật tử! Bồ Tát thành tựu nhẫn này liền được nhập đệ bát bất động địa.

Bậc này là thâm hạnh Bồ Tát, khó biết được, vô sai biệt. Lìa tất cả tướng, tất cả tưởng,tất cả chấp trước. Vô lượng vô biên tất cả thanh văn, bích chi Phật không thể kịp được.

Bậc này xa lìa những huyên náo tránh luận, tịch diệt thường hiện tiền.

Ví như tỳ kheo đầy đủ thần thông được tâm tự tại tuần tự nhẫn đến nhập diệt tận định, tất cả động tâm ức tưởng phân biệt thảy đều dừng dứt.

Ðại Bồ Tát này cũng như vậy, trụ động địa liền bỏ tất cả công dụng hạnh, được pháp vô công dụng, thân, khẩu, ý nghiệp niệm sự đều dứt, trụ nơi báo hạnh.

Ví như có người trong giấc mơ thấy mình té trong sông lớn, vì muốn thoát nạn nên phát đại dũng mãnh, hành đại phương tiện. Do đại dũng mãnh và đại phương tiện nên liền được thức tỉnh. Khi đã thức giấc thời những việc làm trong giấc mơ liền dứt cả.

Cũng vậy, Bồ Tát thấy thân chúng sinh ở trong tứ lưu, vì cứu họ mà phát đại dũng mãnh khởi đại tinh tấn. Do dũng mãnh tinh tấn nên đến bậc bất động địa này. Ðã đến bậc này tất cả công dụng đều dứt cả. Hành tướng của hai hạnh đều chẳng hiện tiền.

Chư Phật tử! như sinh trời phạm thế, những phiền não của dục giới đều chẳng hiện tiền.

Bồ Tát trụ bất động địa cũng như vậy, tất cả tâm ý thức đều chẳng hiện tiền.

Ðại Bồ Tát này còn chẳng hiện khởi tâm Bồ Tát, tâm Phật, tâm Bồ đề, tâm Niết Bàn, huống là còn khởi tâm thế gian .

Chư Phật tử! Bồ Tát này do sức bổn nguyện nên chư Phật thế tôn đích thân hiện ra trước mặt ban cho Như Lai trí, khiến bậc này được vào trong môn pháp lưu. Chư Phật bảo! trí nhẫn này đệ nhất thuận các Phật pháp. nhưng này Thiện Nam Tử! thập lực, tứ vô úy, thập bát bất cộng của chư Phật, nay ông chưa được. Ông phải vì được thành tựu những Phật pháp ấy mà phát khởi tinh tấn, chớ có bỏ nơi môn trí nhẫn này.

Lại này Thiện Nam Tử! Ông dầu được tịch diệt giải thoát, nhưng hàng phàm phu chưa chứng được, họ còn đủ các thứ phiền não, bị các thứ giác quán xâm hại nhau.ông phải thương những chúng sinh đó.

Lại này Thiện Nam Tử! Ông phải nhớ lại bổn thệ nguyện làm lợi ích khắp tất cả chúng sinh đều làm cho họ được vào môn trí huệ bất tư nghì.

Lại này Thiện Nam Tử! Những pháp,pháp tính này, hoặc Phật xuất thế hay không xuất thế, luôn thường trụ không khác. Chư Phật chẳng do được pháp này mà gọi là Như Lai. Tất cả hàng nhị thừa cũng có thể được pháp vô phân biệt này.

Lại này Thiện Nam Tử! Ông xem Chư Phật chúng ta đây: thân tướng vô lượng trí huệ vô lượng, quang minh vô lượng, âm thanh thanh tịnh cũng vô lượng.Ông phải thành tựu những pháp này.

Này Thiện Nam Tử! Nay ông vừa được một pháp minh này, chính là tất cả pháp vô sinh phân biệt.

Này Thiện Nam Tử! Pháp minh của Như Lai vô lượng nhập, vô lượng tác, vô lượng chuyển, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng thể biết được. Ông phải tu hành thành tựu pháp này.

Này Thiện Nam Tử! Ông quán mười phương vô lượng quốc độ chúng sinh, vô lượng pháp, khác nhau vô lượng, đều phải thông đạt tất cả đúng như thiệt.

Chư Phật tử! Chư Phật thế tôn trao cho Bồ Tát này vô lượng môn khởi trí như vậy, khiến Bồ Tát này có thể khởi vô lượng vô biên trí nghiệp sai biệt .

Chư Phật tử! Nếu Chư Phật chẳng ban môn khởi trí này cho Bồ Tát, thời Bồ Tát này liền nhập cứu cánh Niết Bàn rời bỏ tất cả công hạnh, lợi ích chúng sinh .

Do Chư Phật ban vô lượng vô biên khởi trí môn như vậy nên khoảng một niệm Bồ Tát này phát sinh trí nghiệp, đem công đức hạnh tu hành trí nghiệp, đem công hạnh tu hành từ sơ phát tâm đến bậc đệ thất địa để so sánh thời trăm phần không bằng một, nhẫn đến trăm ngàn ức na do tha phần không bằng một, vô số phần, ca la phần, phần, toán phần, số phần, dụ phần, ưu ba ni sa đà phần cũng chẳng bằng một.

Tại sao vậy? Chư Phật tử! Bồ Tát này trước kia dùng một thân khởi hạnh. Nay trụ bậc này được vô lượng thân, vô lượng âm thanh, vì làm cho tất cả chúng sinh, vô lượng trí huệ, vô lượng thọ sinh, vô lượng tịnh quốc, giáo hoá vô lượng chúng sinh, cúng dường vô lượng Chư Phật, nhập vô lượng pháp môn, đủ vô lượng thần thông, có vô lượng chúng hội đạo tràng sai biệt, trụ vô lượng thân, ngữ, ý, nghiệp, tập họp tất cả hạnh Bồ Tát. Vì do pháp bất động vậy.

Chư Phật tử! Ví nhu ngồi thuyền buồm muốn vào biển lớn. khi chưa đến thời phải dùng nhiều công lực. Nếu đã đến biển chỉ theo gió mà thuyền đi chẳng cần nhơn lực. Ðem sự thuyền đi khi chưa đến biển sánh sao kịp với lúc đã vào biển.

Cũng vậy, Đại Bồ Tát chứa nhóm tư lương thiện căn rộng lớn, ngồi thuyền đại thừa đến biển Bồ Tát hạnh. Trong khoảng một niệm dùng trí vô công dụng nhập cảnh giới nhất thiết chủng trí. Những hạnh hữu công dụng trước kia dầu trãi qua vô lượng trăm ngàn ức na do tha kiếp chẳng sánh kịp được.

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc đệ bát địa dùng trí đại phương tiện thiện xảo, phát khởi vô công dụng giác huệ quán cảnh sở hành nhất thiết chủng trí. Như là quán thế gian thành, thế gian hoại, do nghiệp này họp mà thành, do nghiệp này hết hoại, bao nhiêu thời gian thành, bao nhiêu thời gian hoại, bao nhiêu thời gian thành trụ, bao nhiêu thời gian hoại trụ, đều biết đúng như thiệt. Lại rõ biết địa giới tướng nhỏ, tướng lớn, vô lượng tướng, sai biệt tướng. Biết thủy, hỏa, phong giới nhỏ lớn v.v… cũng như vậy.biết vi trần tướng vi tế, tướng sai biệt, vô lượng tướng sai biệt. Tùy trong thế giới nào có nhóm vi trần và vi trần tướng sai biệt đều biết như thiệt. Tùy trong thế giới nào có bao nhiêu địa, thủy, hoả, phong giới đều có bao nhiêu vi trần, thân chúng sinh có bao nhiêu vi trần, thân quốc độ có bao nhiêu vi trần đều biết như thiệt. Biết thân lớn thân nhỏ của chúng sinh đều có bao nhiêu vi trần thành. Biết thân địa ngục, thân súc sinh, thân ngạ quỷ, than a tu la, thân trời người đều có bao nhiêu vi trần họp thành. Ðược trí biết vi trần sai biệt như vậy. Lại biết dục giới, sắc giới, vô sắc giới thành, dục, sắc, vô sắc giới hoại. Biết dục, sắc, vô sắc giới tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng sai biệt. Ðược trí quán tam giới sai biệt như vậy .

Chư Phật tử! Bồ Tát này lại khởi trí minh giáo hoá chúng sinh. Như là khéo biết thân sai biệt của chúng sinh, khéo phân biệt thân chúng sinh, khéo quán sát chổ sinh ra, tuỳ chổ đáng độ mà hiện thân giáo hoá cho họ được thành thục.

Bậc Bồ Tát này nơi tam thiên đại thiênthế giới, tùy chúng sinh thân tín giải sai khác, dùng trí quang minh khắp hiện thọ sinh. Như thế hoặc hai hoặc ba nhẫn đến trăm ngàn cho đến bất khả thuyết đại thiên thế giới, tùy chúng sinh thân tín giải sai khác thị hiện thọ sinh khắp trong đó.

Vì Bồ Tát này thành tựu trí huệ như vậy nên ở nơi một cõi Phật, thân ngài bất động, nhẫn đến trong chúng hội ở bất khả thuyết cõi Phật đều hiện có thân ngài.

Chư Phật tử! Bồ Tát này các chúng sinh thân tâm tín giải các loại sai khác, ở trong chúng hội của cõi Phật đó mà hiện thân. Như là ở trong chúng sa môn thời thị hiện thân sa môn. Trong chúng bà la môn thời thị hiện thân bà la môn. Trong chúng sát lợi thời thị hiện thân sát lợi. Như vậy trong chúng tỳ xá, thủ đà, cư sĩ, tứ thiên vương, đao lợi thiên, dạ ma thiên, đâu suất thiên, hoá lạc thiên, tha hoá tự tại thiên, ma vương chúng, phạm thiên chúng nhẫn đến chúng sắc cứu cánh thiên, đều theo chúng ấy mà tu hiện thân.

Lại người đáng được độ bởi thân thanh văn thời Bồ Tát này hiện thân thanh văn. Người đáng được độ bởi thân bích chi Phật thời hiện thân bích chi Phật.người đáng được độ bởi thân Bồ Tát thời hiện thân Bồ Tát. Người đáng độ bởi thân Phật thời hiện thân Phật .

Chư Phật tử! Bồ Tát này ở trong tất cả thân tướng sai biệt, trụ nơi bình đẳng .

Bồ Tát này biết thân chúng sinh, thân quốc độ, thân nghiệp báo, thân thanh văn, thân độc giác, thân Bồ Tát, thân Như Lai, trí thân, pháp thân,hư không thân.

Bồ Tát này biết tâm sở thích của các chúng sinh, có thể dùng thân chúng sinh làm thân mình, cũng làm thân quốc độ, thân nghiệp báo nhẫn đến thân hư không.

Lại biết tâm sở thích của các chúng sinh, Bồ Tát này có thể lấy quốc độ thân làm thân mình, cũng làm thân mình, cũng làm thân chúng sinh, thân nghiệp báo, nhẫn đến thân hư không.

Lại biết tâm sở thích của chúng sinh, Bồ Tát này có thể lấy thân nghiệp báo làm thân mình, cũng làm thân chúng sinh, thân quốc độ nhẫn đến thân hư không .

Lại biết tâm sở thích của chúng sinh, có thể lấy tự thân làmthân chúng sinh, thân quốc độ, nhẫn đến thân hư không.

Tùy tâm sở thích của chúng sinh chẳng đồng, nên ở nơi thân này, Bồ Tát hiện những thân như vậy .

Bồ Tát này biết chúng sinh: thân tập nghiệp, báo thân, phiền não thân, sắc thân, vô sắc thân. Lại biết thân quốc độ: tướng nhỏ, tướng lớn, tướng vô lượng, tướng nhiễm, tướng tịnh , tướng rộng, tướng đảo trụ, tướng chính trụ, tướng phổ nhập, tướng phương võng sai biệt.

Biết thân nghiệp báo là giả danh sai biệt. Biết thân thanh văn, thân độc giác, thân Bồ Tát là giả danh sai biệt.

Biết thân Như Lai có Bồ đề thân, nguyện thân, hóa thân, lực trì thân, tướng hảo trang nghiêm thân,ý sinh thân, phước đức thân, pháp thân, trí thân.

Biết trí thân tướng khéo suy lường, tướng quyết đoáng thânđúng thiết, tướng nhiếp về quả hành, tướng sai biệt của thế gian và xuất thế gian, tướng sai biệt của tam thừa, cộng tướng, bất cộng tướng, xuất ly tướng, học tướng, vô học tướng.

Biết pháp thân tướng bình đẳng, tướng bất hoại, tướng tùy thời tùy tục giả danh sai biệt, tướng chúng sinh phi chúng sinh pháp sai biệt, tướng Phật, pháp, tăng sai biệt.

Biết thân hư không tướng vô lượng tướng châu biến, tướng vô hình, tướng vô dị, tướng vô biên, tướng hiển hiện sắc thân

Chư Phật tử! Bồ Tát thành tựu thân trí như vậy rồi, được mạng tự tại, tâm tự tại, tài tựtại, nghiệp tự tại, sinh tự tại, nguyện tự tại, giả tự tại, như ý tự tại, trí tự tại, pháp tự tại .

Vì được mười môn tự tại này, thời là bậc trí bất tư nghì, bậc trí vô lượng, bậc trí quãng đại, bậc trí vô năng hoại.

Bồ Tát này nhập như vậy rồi, thành tựu như vậy rồi thời được thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp rốt ráo không lỗi. Thân ngữ ý luôn hiện hành theo trí. Bát nhã ba An Lạc mật tăng thượng, đại bi làm đầu, phương tiện thiện xảo, khéo hay phân biệt,khéo khởi đại nghuyện, Phật lực gia hộ, thường siêng tu tập trí lợi ích chúng sinh, ở khắp vô biên thế giới sai khác.

Chư Phật tử! tóm lại, Bồ Tát an trụ bậc đệ bát bất động địa này, thân, ngữ, ý có chổ làm, đều có thể chứa họp tất cả Phật pháp .

Chư Phật tử! Bồ Tát này được khéo trụ thâm tâm vì tất cả phiền não chẳng hiện hành. Ðược khéo trụ thắng tâm lực vì chẵng rời nơi đạo. Ðược khéo trụ đại bi lực vì chẳng bỏ lợi ích chúng sinh. Ðược khéo trụ từ lực vì cứu hộ tất cả thế gian. Ðược khéo trụ đà la ni lực vì chẳng quên nơi pháp, được khéo trụ biện tài lực vì khéo quán sát phân biệt tất cả pháp. Ðược khéo trụ thần thông lực vì qua khắp vô biên thế giới. Ðược khéo trụ thần thông lực vì qua khắp vô biên thế giới. Ðược khéo trụ đại nguyện lực vì chẳng bỏ công hạnh của Bồ Tát. Ðược khéo trụ ba la mật lực vì thành tựu tất cả Phật pháp. được Như Lai hộ niệm lực vì Nhất thiết chủng trí hiện tiền.

Bồ Tát này được trí lực như vậy, có hiện tất cả việc làm, trong công việc không có lỗi lầm.

Chư Phật tử! trí địa của Bồ Tát này gọi là bất động địa không bị trở hoại. Gọi là bất thoái chuyển địa vì trí huệ bất thối. Gọi là nan đắc vì tất cả thế gian không lường được. Gọi là đồng chân địa lìa tất cả lỗi lầm. Gọi là sinh địa vì tùy thích tự tại. Gọi là thành địa vì không còn sở tác.gọi là cứu cánh địa vì trí huệ quyết định. Gọi là biến hoá địa vì tùy nguyện thành tựu. Gọi là lực trì địa vì người khác chẳng làm động được.Gọi là công dụng địa vì trước đã thành tựu.

Chư Phật tử! Bồ Tát thành tựu trí huệ như vậy nhập Phật cảnh giới, Phật công đức chiếu đến, thuận Phật oai nghi, Phật cảnh hiện tiền, thường được Phật hộ niệm. phạm vương, thiên đế, tứ thiên vương, kim cang lực sĩ thường theo thị vệ.

Bồ Tát này luôn chẳng bỏ lìa các đại tam muội, có thể hiện vô lượng thân sai khác. Mỗi thân có thế lực lớn, báo đắc thần thông tam muội tự tại. Tùy nơi nào có chúng sinh đáng được hóa độ thời thị hiện thành chính giác.

Chư Phật tử! Bồ Tát này nhập hội đại thừa, được đại thần thông, phóng đại quang minh, nhập vô ngại pháp giới, biết thế giới sai biệt, thị hiện tất cả những công đức lớn tùy ý tự tại, khéo thông đạt tiền tế, hậu tế dẹp phục tất cả đạo ma tà, thâm nhập cảnh giới của chư Phật nơi vô lượng quốc độ tu Bồ Tát hạnh. Bởi được pháp bất thối chuyển, nên gọi là trụ bất động địa.

Chư Phật tử! Bồ Tát trụ bậc bất động địa này rồi, do sức tam muội, thường được hiện thấy vô lượng Chư Phật, thường chẳng rời bỏ phụng thờ cúng dường.

Bồ Tát này nơi mỗi mỗi kiếp, mỗi mỗi thế giới thấy vô lượng trăm Phật, vô lượng ngàn Phật, nhẫn đến vô lượng trăm ngàn ức na do tha Phật, đều kính trọng cúng dường .

Ở chổ Chư Phật được pháp tạng thậm thâm của Như Lai. Thọ được vô lượng pháp thế giới sai biệt thảy.

Nếu có ai đến vấn nạn những sự như thế giới sai biệt v.v.. không ai khuất phục Bồ Tát này được.

 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5780557
Số người trực tuyến: