27. Phẩm Ứng Tận Hoàn Nguyên Thứ Hai Mươi Bảy
PHẨM ỨNG TẬN HOÀN NGUYÊN THỨ HAI MƯƠI BẢY
Đức Phật bảo đại chúng: “Giờ đây ta nhập Niết Bàn, cả mình ta đau nhức.”Nói vừa xong, đức Phật liền nhập sơ thiền, xuất sơ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập bất dụng xứ định, xuất bất dụng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập nhị thiền xuất nhị thiền nhập sơ thiền.
Đức Thế Tôn thuận nghịch nhập các thiền định xong, lại phổ cáo đại chúng: “Ta dùng thậm thâm bát nhã xem khắp ba cõi tất cả lục đạo chúng sinh, ba cõi này bản tính rời lìa rốt ráo tịch diệt đồng như hư không, không danh, không thức, dứt hẳn các cõi, bản lai bình đẳng không có tưởng niệm cao hạ, không thấy nghe, không hay biết, không hệ phược, không giải thoát, không chúng sinh, không thọ mạng, không sinh không diệt, chẳng phải thế gian chẳng phải chẳng thế gian, Niết Bàn sinh tử đều không thể được, trước sau bình đẳng vì bình đẳng với các pháp, nhàn cư tịnh trụ không có chỗ thi vi, an trí rốt ráo quyết định bất khả đắc, từ pháp vô trụ pháp tính thi vi, dứt tất cả tướng, trọn không chỗ có. Pháp tướng như vậy, ai biết rõ thời gọi là người xuất thế, kẻ chẳng biết như vậy thời gọi là đầu mối sinh tử. Đại chúng phải dứt vô minh, diệt đầu mối sinh tử!
Bảo xong, Đức Thế Tôn nhập thiền định siêu việt: Từ sơ thiền xuất liền nhập tam thiền, xuất tam thiền nhập không xứ định, xuất không xứ định nhập vô sở hữu xứ định, xuất vô sở hữu xứ định nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhập phi tưởng phi phi tưởng xứ định, xuất phi tưởng xứ định nhập thức xứ định, xuất thức xứ định nhập tứ thiền, xuất tứ thiền nhập nhị thiền, xuất nhị thiền nhập sơ thiền.
Đức Thế Tôn nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, lại bảo đại chúng: “Ta dùng Ma Ha Bát Nhã xem khắp ba cõi tất cả nhân pháp hữu tình vô tình thảy đều rốt ráo, không hệ phược, không giải thoát, không chủ, không y, không thể nhiếp trì, chẳng ra ba cõi, chẳng vào các cõi, bổn lai thanh tịnh không cấu nhơ, không phiền não, đồng như hư không, chẳng bình đẳng chẳng phải chẳng bình đẳng, dứt hết những động niệm tư tưởng tâm thức. Pháp tướng như vậy gọi là Đại Niết Bàn, thấy rõ được pháp tướng này thời gọi là giải thoát, phàm phu chẳng thấy biết thời gọi là vô minh.
Nói xong Đức Phật lại nhập thiền định siêu việt xuất sơ thiền nhập tam thiền nhẫn đến nhập diệt tận định, xuất diệt tận định nhẫn đến nhập sơ thiền.
Nghịch thuận nhập thiền định siêu việt xong, Đức Thế Tôn lại bảo đại chúng: “Ta dùng Phật nhãn xem khắp ba cõi tất cả các pháp, thể tính của vô minh vốn là giải thoát, tìm khắp mười phương trọn không thể được. Vì cội gốc đã không nên nhánh lá thảy đều giải thoát. Vì vô minh giải thoát nên hành đến lão tử đều được giải thoát. Do đây nên ngày nay ta an trụ thường tịnh diệt quang gọi là Đại Niết Bàn.
Lúc đó A Nan quá sầu khổ bi ai tâm trí cuồng loạn, như người quá say không còn biết những việc xung quanh, chẳng thấy đại chúng, cũng chẳng biết Như Lai đã nhập Niết Bàn hay chưa.
Đức Thế Tôn nhập siêu thiền định thuận nghịch ba lần, xem khắp pháp giới ba phen phổ cáo đại chúng, Đức Như Lai lần lượt nhập các thiền định hai mươi bảy lần như vậy.
Vì chẳng biết, nên khi Phật nhập một thiền định A Nan liền hỏi một lần, hai mươi bảy lần hỏi ngài A Nâu Lâu Đà: Phật nhập Niết Bàn hay chưa?
Ngài A Nâu Lâu Đà đà rõ biết Như Lai nhập các thiền định, hai mươi bảy lần đều trả lời với A Nan rằng Phật chưa nhập Niết Bàn.
Sau khi ba lần thuận nghịch nhập các thiền định cùng phổ cáo đại chúng, đức Thế Tôn nằm nghiêng bên hữu trên giường thất bảo: Gối đầu phương bắc, chân chỉ thẳng phương Nam, mặt hướng về phương Tây, lưng day qua phương Đông.
Bốn phía giường, tám cây Ta La chia làm bốn cặp: Một cặp phương Tây ở trước mặt Như Lai, một cặp phương Đông che sau lưng Như Lai, một cặp phương Bắc che trên đầu Như Lai, một cặp phương Nam đứng phía chân Như Lai.
Lúc đó đúng giữa đêm Đức Như Lai nằm trên giường thất bảo trong rừng Ta La nhập tứ thiền yên lặng mà Bát Niết Bàn.
Liền đó bốn cặp cây Ta La: Cặp hướng Đông, cặp hướng Tây ngọn bốn cây hiệp làm một tàng, cặp hướng Nam, cặp hướng Bắc ngọn bốn cây hiệp làm một tàng, che giường thất bảo trùm trên thân Như Lai. Những cây Ta La đó, tất cả lá biến thành sắc trắng như bạch hạc, nhánh lá bông trái da và thân cây thảy đều rụng rớt nức nẻ, lần lần khô héo gãy rớt.
Đồng thời trong lúc đó vô lượng thế giới ở mười phương đều chấn động vang ra tiếng rằng: “ Khổ thay! Khổ thay! Thế giới trống rỗng”.
Lại vang ra tiếng buồn than diễn nói nghĩa vô thường, khổ, không.
Tất cả những núi trong mười phương thế giới: Núi Mục Chân Lân Đà, núi Đại Mục Chân Lân Đà, núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi, Hắc Sơn, Hương Sơn, Kim Sơn, Bảo Sơn, núi Tu Di đồng thời rúng động vang ra tiếng lớn: Khổ thay! Khổ thay! Tại sao một mai mà thế gian bơ vơ, huệ nhật tắt mất vào núi Đại Niết Bàn, tất cả chúng sinh mất cha lành, mất chỗ chiêm ngưỡng.
Tất cả biển lớn trong mười phương thế giới đều đục ngầu, sóng cuồn cuộn nổi lên vang ra các thứ tiếng: Khổ thay! Khổ thay! Đấng vô thượng chính giác đã diệt, chúng sinh phải tội khổ trôi mãi trong biển lớn sinh tử, mê mất con đường chân chính không do đâu để giải thoát được.
Tất cả sông rạch khe suối, mương rãnh, giếng ao thảy đều nghiêng ngửa khô cạn.
Mười phương thế giới vắng lặng tối tăm. Sầu não tối tăm bao trùm cả thế giới. Lúc đó bỗng có gió to thổi bay bụi cát, khắp nơi đều mờ tối. Tất cả cỏ cây trên mặt đất gãy ngã rơi rụng. Tât cả chư thiên vân tập chật cả hư không, than thở kêu khóc tiếng động cả cõi đại thiên, rưới vô số trăm ngàn hoa trời hương trời cúng dường Đức Như Lai, lại rải vô số thiên tràng, thiên phan, thiên anh lạc, thiên bảo cái, thiên bảo châu biến thành bửu đài giữa hư không để cúng dường Đức Như Lai. Chư thiên lại ở trên hư không tấu vô số thiên nhạc xướng rằng: Khổ thay! Khổ thay! Đức Phật đã nhập Niết Bàn. Thế giới trống rỗng, chúng sinh đã mất con mắt, quỉ La Sát phiền não lan tràn khắp nơi, sự khổ nối luôn xoay vần chẳng dứt.
Lúc đó A Nan mê muội, chẳng biết Đức Như Lai đã nhập Niết Bàn hay chưa nhập, chỉ nghe thấy những cảnh những tiếng lạ thường nên lại hỏi .
Ngài A Nâu Lâu Đà đáp rằng: “Đấng Đại Giác Thế Tôn đã nhập Niết Bàn”.
Nghe lời này, A Nan té xỉu xuống đất, mất thở như người chết.
Ngài A Nâu Lâu Đà lấy nước lạnh rải trên mặt A Nan đỡ dậy nhiều lời an ủi rằng: Thảm thay! Thảm thay! Rất đáng đau khổ. Nhưng ông chớ quá buồn rầu mà tâm trí điên loạn. Hóa duyên của Đức Như Lai đã hoàn tất, tất cả trời, người không ai cầm lại được. Khổ thay! Biết làm sao được! Nào ngờ ngày nay Đấng Thiên Nhân Sư việc làm đã rốt ráo không ai cầm lại được. Ông cùng tôi phải đồng dằn sự buồn khổ. Đức Phật dầu nhập Niết bàn, nhưng còn Xá Lợi và Pháp Bảo vô thượng thường trụ nơi thế gian, có thể làm chỗ quy y cho chúng sinh. Các ông cùng tôi phải tinh tấn đem Pháp Bảo của Phật truyền lại cho chúng sinh, khiến họ thoát khổ, dùng đây để báo ân đức của Như Lai.
An Nan nghe lời an ủi trên, lần lần tỉnh ngộ nghẹn ngào buồn khóc.
Trong rừng Ta La nơi thành Câu Thi Na rộng mười hai do tuần, đại chúng trời người chật khắp trong đó. Chỗ nhỏ bằng đầu mũi kim dung thọ vô lượng chúng, không một chút hở trống, dầu vậy nhưng chẳng trở ngại, chẳng che khuất nhau.
Vô số ức Bồ Tát cùng đại chúng nhân thiên đều mê muội loạn tâm, thấy thế giới biến động khác thường và nghe ngài A Nâu Lâu Đà bảo là Đức Phật đã nhập Niết Bàn, có nhiều người ngất xỉu té xuống đất. Trong đó có người nhập diệt theo Phật, có người mất trí, có người thân tâm rung rẩy, có người nghẹn ngào nước mắt tuôn rơi, có người đấm ngực kêu to, có người cào đầu bức tóc. Hoặc than khổ thay khổ thay, hoặc kêu sao Đức Như Lai nhập Niết Bàn quá mau, hoặc khóc tôi đã mất đấng tôn kính, hoặc than thế giới trống rỗng, con mắt chúng sinh đã mất, hoặc than quỉ phiền não lan tràn hoặc than mầm lành của chúng sinh đã chết, hoặc nói ma vương mừng rỡ cởi khôi giáp ra nghỉ, hoặc tự trách thân tâm suy gẫm vô thường hoặc chính quán được giải thoát, hoặc cảm thương mất chỗ quy y. Có người máu ửng đỏ khắp thân chảy lan ra đất. Tất cả đại chúng kêu khóc tiếng động khắp thế giới.
Lúc đó Khi Thí Đại Phạm Thiên Vương biết Phật đã nhập Niết Bàn, liền cùng chư thiên từ cõi sắc bay xuống khóc to nghẹn ngào xỉu té trước Như Lai, giây lâu tỉnh lại buồn than nói kệ rằng:
Thuở xưa Thế Tôn có lời nguyện,
Vì chúng tôi mà ở Ta Bà,
Ẩn giấu vô lượng sức tụ tại,
Đem pháp phương tiện độ chúng sinh,
Tùy theo cơ nghi mà thuyết pháp,
Chúng sinh thọ pháp được an lạc,
Dìu dắt ra khỏi ba cõi khổ,
Rốt ráo đều đến đạo Niết Bàn.
Phật là mẹ lành nuôi chúng sinh,
Khắp cho uống sữa Đại Từ Bi,
Nào ngờ nay lại sớm xả ly,
Trời người bơ vơ mất nương cậy.
Thương thay mầm lành của chúng sinh,
Không có cam lồ để tăng trưởng,
Mầm lành lần lần héo mất rồi,
Tội nghiệp kéo nhau đọa ác đạo.
Thế giới trống rỗng biết làm sao,
Huệ nhãn chúng sinh nay đã tắt,
Đi trong đường hắc ám vô minh,
Đọa lạc ba cõi trôi chìm khổ.
Chúng sinh tội ác không ai cứu,
Nguyện nương Xá Lợi cầu giải thoát,
Nhờ sức Đại Bi của Như Lai,
Cứu giúp chúng tôi thoát chốn khổ.
Ngờ đâu giữa cõi đời ác trược,
Phật bỏ chúng tôi nhập Niết Bàn.
Lúc đó Thích Đề Hoàn Nhân cùng chư thiên từ hư không xuống than thở khóc lóc ngất xỉu trước Như Lai, giây lâu tỉnh lại nghẹn ngào rơi lệ quì trước Phật nói kệ than thở:
Như Lai nhiều kiếp tu khổ hạnh,
Vì lợi ích quần sinh chúng tôi,
Được thành đạo chính giác vô thượng,
Đồng thương chúng sinh như con mật,
Ban cho thuốc pháp thuốc vô thượng,
Y Sư trị bệnh là Y Vương,
Mây đại từ bi che chúng sinh,
Mưa huệ cam lồ rưới tất cả.
Ánh sáng huệ nhật soi vô minh,
Chúng sinh vô minh thấy thánh đạo,
Từ quang thánh nguyệt chiếu lục thú,
Ba cõi được soi thoát các khổ.
Nào ngờ hôm nay bỏ đại bi,
Đã nhập Niết Bàn chẳng còn thấy,
Bản thệ Đại Bi nay ở đâu,
Rời bỏ chúng sinh như mũi dãi.
Tất cả hàng chúng sinh chúng tôi,
Như nghé mất mẹ ắt phải chết,
Đại chúng cầm tay nhau kêu khóc,
Đấm ngực buồn than động Đại Thiên.
Khổ thay mọi người trong ba cõi,
Cớ gì một mai đều côi cút,
Chúng tôi hết phước rất là khổ,
Mầm lành cháy không nước nhuần.
Nguyện ánh sáng pháp bảo Xá Lợi,
Chiếu đến tôi thoát khỏi ba cõi,
Buồn thay khổ thay cho chúng tôi,
Bao giờ lại được thấy Như Lai.
Lúc bấy giờ ngài A Nâu Lâu Đà buồn than rơi lệ quì trước Phật nói kệ than rằng:
Chính pháp Pháp Vương nuôi chúng tôi,
Cho uống Pháp nhũ lớn khắp thân,
Chúng sinh Pháp thân chưa thành lập,
Lại thêm huệ mạng thiếu tư lương,
Dùng tám phạm âm thường diễn thuyết.
Đại chúng nghe rồi đều ngộ đạo,
Thường phóng Đại Bi ngũ sắc quang,
Đại chúng được soi đều giải thoát.
Hôm nay sao lại nhập Niết Bàn,
Chúng sinh tội khổ nương về đâu,
Khổ thay Thế Tôn bỏ Đại Bi,
Chúng tôi cô cùng ắt phải chết,
Dầu biết Thế Tôn hiện phương tiện,
Chúng tôi không thể chẳng buồn thương,
Đại chúng mê muội mất bản tâm,
Khóc động trời đất rúng ba cõi.
Riêng mình Thế Tôn ở an lạc,
Chúng sinh quá khổ sao bỏ đi,
Thuở xưa Thế Tôn vì chúng tôi,
Bỏ đầu chặt tay trong nhiều kiếp.
Được thành đạo chính giác vô thương,
Chẳng ở đời lâu vội Niết Bàn,
Đại chúng, chúng tôi ở vô minh,
Ma vương mừng rỡ cởi khôi giáp,
Nguyện sức từ bi của Thế Tôn,
Xá Lợi phóng quang nhiếp chúng tôi,
Cúi xin Thế Tôn thương tứ chúng,
Pháp bảo lưu truyền mãi chẳng cùng,
Chúng tôi không thể liều tự chết,
Mạng sống thừa nầy được bao lâu,
Khổ thay đau đớn khó chịu nổi,
Bao giờ lại thấy Đức Như Lai.
Lúc bấy giờ A Nan ngất xỉu lần lần tỉnh lại giơ tay vỗ đầu đấm ngực nghẹn ngào buồn khóc rơi lệ quì trước Phật nói kệ buồn than:
Xưa tôi cùng Phật đồng thệ nguyện,
May mắn đồng sinh trong giòng Thích,
Như Lai đặng thành đạo chính giác,
Tôi làm thị giả hai mươi năm,
Hết lòng cúng dường chưa thỏa lòng,
Nay Phật bỏ tôi vào Niết Bàn,
Than ôi, than ôi sao quá khổ,
Từ đây mãi mãi lòng đớn đau.
Thân tôi chưa thoát lưới ba cõi,
Vỏ trứng vô minh chưa ra khỏi,
Mỏ huệ Thế Tôn chưa mổ vỡ,
Sao lại bỏ tôi vội Niết Bàn.
Tôi như trẻ nít vừa mới sinh,
Mất mẹ chẳng lâu ắt phải chết,
Cớ gì Thế Tôn bỏ rơi tôi.
Để riêng hưởng vui ngoài ba cõi.
Nay tôi sám hối với Thế Tôn,
Hầu Phật đến nay hai mươi năm,
Trong lúc đứng ngồi nhiều biếng trễ,
Không được vui đẹp lòng Thế Tôn,
Nguyện đấng chính giác Đại Từ Bi,
Ban pháp cam lộ tôi an vui,
Tôi nguyện cùng tận thuở vị lai,
Thường gặp Thế Tôn làm thị giả.
Ngưỡng mong Thế Tôn đại từ quang,
Tất cả thế giới nhiếp thọ tôi,
Than ôi khổ thay nói chẳng được,
Ơn Phật nghẹn ngào chẳng thể bày.
Lúc bấy giờ vô số hằng hà sa Bồ Tát tất cả đại chúng trời người buồn khóc rơi lệ chẳng xiết than thở. Mọi người khuyên nhủ nhau dằn bớt lòng buồn khổ, lo sắm sửa vô số hương hoa vi diệu: Hoa mạn đà la, hoa ma ha mạn đà la, hoa mạn thù sa, hoa ma ha mạn thù sa, hương hải thử ngạn, chiên đàn, trầm thủy, hòa hương, hương thủy, hương nê, cùng trăm ngàn muôn thứ lọng báu, tràng báu, phan báu, chuỗi ngọc, chân châu đem đến cúng dường Như Lai.
Nhân dân nam nữ lớn nhỏ trong thành Câu Thi Na đều buồn khóc rơi lệ, sắm sửa vô số hương hoa phan lọng tốt đẹp đem đến cúng dường Như Lai.
Tứ Thiên Vương cùng thiên chúng buồn than rơi lệ, sắm sửa vô số hương hoa phan lọng đem đến cúng dường Như Lai.
Đao Lợi Thiên Vương, Dạ Ma Thiên Vương, Đâu Suất Thiên Vương, Hoá Lạc Thiên Vương, Tha Hoá Thiên Vương, Sắc Giới Thiên Vương, Vô Sắc Giới Thiên đều cùng thiên chúng buồn thương than thở mang vô số hoa hương phan lọng vi diệu đến cúng dường Như Lai.
- 162
Viết bình luận