4. Bài thứ 4: Chương Kim Cương Tạng | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

4. Bài thứ 4: Chương Kim Cương Tạng

Bài thứ 4

CHƯƠNG KIM CƯƠNG TẠNG


1. NGÀI KIM CƯƠNG TẠNG BỒ TÁT HỎI PHẬT

Khi ấy ngài Kim Cương Tạng Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, và kính cẩn chắp tay, đảnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch rằng:

- Bạch đức Ðại bi Thế Tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát nói rõ tính “Viên Giác thanh tịnh” của Như Lai, và chỉ dạy những phương tiện, tuần tự tu hành để nhập tính Viên Giác. Ngài đã vén mở mây vô minh mờ ám cho các chúng sinh. Thính chúng trong pháp hội này, nhờ lòng từ bi của Phật khai hóa, mà mắt Trí huệ được sáng tỏ.

Bạch đức Thế Tôn:

1. Nếu các chúng sinh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì tại làm sao lại có tất cả vô minh để trở lại làm chúng sinh nữa?

2. Nếu chúng sinh sẵn có các vô minh, thì do nhân duyên gì mà đức Như Lai lại nói: “Chúng sinh đã thành Phật từ xưa đến nay”?

3. Nếu 10 phương chúng sinh đã thành Phật từ xưa, về sau lại sinh ra vô minh; vậy thì các đức Như Lai hiện nay đã thành Phật rồi, chừng nào các Ngài sinh trở lại phiền não nữa?

Cúi xin đức Ðại bi Thế Tôn, vì các vị Bồ tát hiện tại và tất cả chúng sinh đời sau, nhổ sạch gốc rễ nghi lầm, khiến cho chúng sinh dược ngộ nhập đạo vô thượng.

Lược giải:

Ðại ý đoạn này, ngài Kim Cương Tạng Bồ tát nghi: Có vô minh thì gọi là chúng sinh, không vô minh mới kêu là Phật; thế mà Ðức Như Lai lại nói: “Chúng sinh đã thành Phật từ xưa đến nay”.

Nếu chúng sinh đã thành Phật từ xưa đến nay, thì phải không còn vô minh. Nếu không còn vô minh, thì không còn gọi là chúng sinh nữa. Tại làm sao Phật còn gọi: “Chúng sinh”?

Lại nữa, nếu chúng sinh sẵn có vô minh thì không thể nói “Nguyên lai thành Phật”. Tại sao Phật lại nói: “Chúng sinh nguyên lai đã thành Phật”.

Chúng sinh tu hành phải trải qua ba vô số kiếp mới thành Phật. Nếu khi được thành Phật rồi, vô minh trở lại khởi lên làm chúng sinh nữa, thì tu biết chừng nào cho rồi! Lại nữa, chư Phật hiện nay đã thành Phật, vậy chừng nào các Ngài nổi vô minh trở lại làm chúng sinh nữa?

Ðoạn này giống như trong kinh Lăng Nghiêm, khi ngài Phú Lâu Na Di Ða La Ni Tử hỏi Phật: “Chân tâm vốn đã thanh tịnh tại sao lại thoạt sinh ra sơn hà đại địa và các chúng sinh?”

2. PHẬT KHEN NGÀI KIM CƯƠNG TẠNG BỒ TÁT

Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Kim Cương Tạng Bồ tát và dạy rằng:

- Này Thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sinh đời sau thưa hỏi Như Lai những đạo lý diệu huyền.

Nay ta vì các ông nói giáo pháp Ðại thừa, nghĩa lý rốt ráo và cao thượng, khiến cho các vị Bồ tát tu học trong mười phương, và tất cả chúng sinh đời sau, đều đoạn trừ hết các điều nghi ngờ, đặng tín tâm chắc chắn. Vậy các ông nên chăm chú nghe lời ta chỉ dạy.

Khi đó Ngài Kim Cương Tạng Bồ tát và đại chúng đều vui mừng, kính cẩn vâng nghe lời Phật chỉ giáo.

Lược giải:

Kim Cương là chất ngọc quý, cứng rắn nhất trong loại ngọc. Nó đã cứng mà lại bén (sắc), hay phá hoại các vật, mà các vật không phá hoại được nó.

Ðoạn này ngài Kim Cương Tạng Bồ tát đứng lên thưa hỏi những chỗ khó khăn, là tiêu biểu phải dùng Kim Cương trí mới phá trừ nổi những mê lầm (vô minh) sâu sắc.

Ngài Kim Cương Tạng Bồ tát cũng là một vị Thượng thủ trong hàng Bồ tát.

3. PHẬT DẠY: NGƯỜI MÊ NÓI NGỘ, NGỘ ẤY THÀNH MÊ

- Này Thiện nam! Tất cả các pháp, có thủy chung, sinh diệt, tiền hậu, hữu vô, nào tụ tán, khởi dừng, xoay vần, qua lại, các món thủ xả, mỗi niệm nối luôn. Những loại kể trên đều là luân hồi cả. Người chưa ra khỏi luân hồi mà nghĩ bàn đến Viên Giác, thì tính “Viên Giác” đó cũng trở thành luân hồi (Vị xuất luân hồi nhi biện Viên Giác, bĩ Viên Giác tính tức đồng lưu chuyển). Nếu người ra khỏi luân hồi (hết mê vọng rồi) thì không còn thấy có các việc hư vọng ấy nữa.

Lược giải:

Ðại ý đoạn này Phật nói: Người còn ở trong vòng “mê” mà nói việc “ngộ” thì cái “ngộ’ ấy cũng thành “mê”. Dùng tâm chúng sinh nghĩ bàn đến cảnh giới Phật, thì cảnh giới Phật cũng thành chúng sinh. Dùng tâm luân hồi mà nghĩ bàn đến tính Viên Giác, thì tính “Viên Giác” cũng trở thành luân hồi.

Phật bảo ngài Kim Cương Tạng Bồ tát: Nếu ông đứng trong vòng hư vọng, tương đối, có thánh có phàm, có chúng sinh, có Phật v.v... mà luận đến cảnh giới tuyệt đối, bất tư nghị của chư Phật thì không thể được. Bởi thế nên người muốn hiểu chỗ cao siêu của đạo Phật, thì cần phải tu, chớ không thể nói suông mà hiểu được.

4. PHẬT DÙNG THÍ DỤ ĐỂ GIẢI THÍCH NGHĨA TRÊN

- Này Thiện nam! Thí như: vì con mắt nháy mà thấy nước dợn sóng; vì mắt xem không kịp mà thấy thành vòng lửa; nhân mây bay mà thấy mặt trăng chạy; vì thuyền đi mà thấy bờ trôi. Trong lúc các vật đây động, như mắt nháy, mây bay, thuyền chạy v.v… mà các vật yên tịnh kia như nước đứng, lửa đốm, trăng dừng, còn thấy chuyển động thay, huống chi ông dùng tâm cấu nhiễm sinh tử luân hồi mà quan sát tính Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì tính Viên Giác này làm sao chẳng cấu nhiễm. Thế nên ông mới sinh ra ba điều nghi vấn trên.

Lược giải:

Trong đoạn này, Phật dùng những việc tầm thường trong đời làm thí dụ, như mắt nháy, may bay, thuyền đi v.v... mà thấy nước dợn, trăng bay, bờ chạy v.v... để chỉ rõ: vì dùng tâm cấu nhiễm mê vọng của chúng sinh mà quan sát nghĩ ngợi đến cảnh giới của Phật, nên cảnh Phật trở thành tương đối mê vọng.

Vì ngài Kim Cương Tạng Bồ tát dùng tâm phân biệt đối đãi có không, sinh diệt, thánh phàm v.v... nên thấy có chúng sinh chưa thành Phật và có Phật đã thành. Bởi thế nên Ngài sinh ra ba điều nghi ngờ trên. Nếu Ngài nhập được tính Viên Giác thanh tịnh rồi thì những tướng đối đãi như thánh phàm nhiễm tịnh, sinh tử và Niết bàn, chúng sinh và Phật đều không còn. Lúc bấy giờ Ngài không còn nghi ngờ như trên nữa. Vì vậy nên đoạn sau Phật quở: “… những lời ông thưa hỏi đó, chẳng có đúng đắn...”

5. PHẬT DẠY: CÁC PHÁP HƯ HUYỄN, KHÔNG CÓ THẬT SINH VÀ THẬT DIỆT

- Này Thiện nam! Thí như người bệnh lòa mắt, trông noi hư không vọng thấy có các hoa đốm lăng xăng. Ðến khi bệnh lòa nhặm hết rồi, thì hoa đốm kia tự diệt. Lúc bấy giờ, người ấy không nên hỏi: “Cái bệnh lòa nhặm này đã diệt rồi, vậy chừng nào sinh trở lại nữa?” Tại sao thế? Vì cái lòa nhặm nó vọng huyễn không có thật thể vậy.

Và, cũng không nên hỏi: “Những chỗ hoa đốm diệt ở nơi hư không kia, vậy chừng nào hoa đốm ấy sinh trở lại nữa?” Tại sao thế? Vì trong hư không vốn không có hoa đốm, cho nên nó không có sinh ra hoa đốm hay diệt hoa đốm vậy.

Sinh tử và Niết bàn đối với tính Viên Giác, cũng đồng như hoa đốm sinh diệt trong hư không. Tính Viên Giác vẫn nhiệm mầu viên mãn, yên lặng chiếu soi, lìa cái nhặm vô minh và cảnh giới hoa đốm.

Này Thiện nam! Nên biết hư không kia còn không phải tạm có và tạm không, huống chi tính Viên Giác của Như Lai là bản tính của hư không, nó bình đẳng tùy thuận các duyên, mà lại tạm có và tạm không hay sao.

Lược giải:

Ðại ý đoạn này nói: Vô minh và các vọng cảnh, đều hư huyễn không thật, cũng như hoa đốm và mắt nhặm. Vì hoa đốm với nhặm, đều không phải thật vật, cho nên nó không thật có sinh và diêt. Bởi thế, khi hết nhặm rồi, không nên hỏi: “Chừng nào nhặm trở lại nữa?” Hay hoa đốm đã diệt rồi, cũng không nên hỏi: “Chừng nào nó sinh trở lại nữa?”

Hoa đốm và bệnh nhặm, mặc tình nó vọng sinh vọng diệt, mà hư không lúc nào cũng vẫn thanh tịnh và yên lặng. Cũng như Vô minh và Vọng cảnh, mặc tình vọng khởi và vọng diệt, mà tính Viên Giác vẫn thanh tịnh viên mãn và xa lìa các Vô minh cùng Vọng cảnh.

Tính hư không bình đẳng tùy thuận các đồ vật, mà hiện ra có tướng Vuông và Tròn. Cũng như tính Viên Giác bình đẳng, tùy thuận các duyên mà hiện ra tất cả Pháp.

Hư không, không phải nhân lúc hoa đốm diệt mà nó tạm có, cũng không phải nhân lúc hoa đốm sinh mà nó tạm không; bởi tính hư không thường có và bình đẳng, tùy hoa đốm mặc tình sinh diệt, nhưng hư không vẫn không thay đổi.

Cũng thế, tính Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thường còn bình đẳng và tùy thuận các Pháp. Không phải nhân lúc Vô minh diệt mà nó tạm có, hay Vô minh sinh mà nó tạm không, nó tùy thuận tất cả, không có chướng ngại.

6. PHẬT DÙNG THÍ DỤ, ĐỂ CHỈ RÕ KHI THÀNH PHẬT RỒI, KHÔNG TRỞ LẠI LÀM CHÚNG SINH

- Này Thiện nam! Thí như chất kim khoáng, sau khi được nấu lọc, bỏ hết quặng rồi, thì chỉ còn vàng y. Chất vàng này không phải do nấu lọc mới sinh, vì nó có sẵn từ trước kia rồi, và khi đã thành vàng y, cũng không bao giờ trở lại thành quặng nữa, dầu trải qua bao nhiêu năm, nó cũng không hư hoại.

Tính Viên Giác thanh tịnh của Như Lai cũng thế.

Lược giải:

Phật dùng vàng để thí dụ tính Viên Giác, dùng khoáng dụ chúng sinh. Khi vàng còn ở trong khoáng, cũng như Phật tính (Viên Giác) ở trong cái vỏ chúng sinh. Vì y nơi Phật tính sẵn có, nên Phật nói: “Chúng sinh đã thành Phật”.

Khi chất kim khoáng được đem ra nấu luyện, lọc bỏ hết quặng chỉ còn vàng y, thì vàng này không còn trở lại làm khoáng nữa.

Cũng như chúng sinh, sau khi trải qua thời gian tu luyện, gạn lọc hết vô minh, phiền não, tính Viên Giác hiện ra, được thành Phật rồi; lúc bấy giờ không còn khởi vô minh phiền não trở lại làm chúng sinh nữa.

Dầu chưa được nấu luyện, lọc bỏ quặng ra, lúc ấy chất vàng vẫn sẵn có. Ðến khi nấu luyện, lọc bỏ hết quặng thành vàng y rồi, không phải lúc bấy giờ vàng mới có. Tính Viên Giác cũng thế, khi làm chúng sinh, nó vẫn sẵn có, nên nói: “Chúng sinh đã thành Phật”. Trải qua thời gian tu luyện trừ hết vô minh phiền não, tính Viên Giác hiện ra, không phải lúc bấy giờ nó mới sinh.

Khi tính Viên Giác đã hoàn toàn hiện rồi, thì vô minh phiền não không còn sinh trở lại nữa, nên nói: “Thành Phật rồi, không còn trở lại làm chúng sinh”.

7. TÍNH VIÊN GIÁC PHI TẤT CẢ TƯỚNG

- Này Thiện nam! Tính Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai vốn không có Bồ đề, và Niết bàn, không có thành Phật và chẳng thành Phật, cũng không có luân hồi và phi luân hồi.

Lược giải:

Ðứng về phương diện tương đối mà nói: Vì có phiền não nên có Bồ đề, có sinh tử nên có Niết bàn, có luân hồi nên mới có giải thoát, có chúng sinh mới có Phật.

Song đứng về phương diện lý tính tuyệt đối, tức là tâm Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai mà nói, thì phiền não đã không, nên Bồ đề chẳng có, sinh tử đã không, nên Niết bàn chẳng có, cho đến chúng sinh đã không, nên Phật cũng chẳng có.

Ðến cảnh giới này, thì nói năng không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm. Hành giả phải tự chứng nhập.

8. TÍNH VIÊN GIÁC KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN

- Này Thiên nam! Rất đỗi như cảnh giới Niết bàn thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn (1) Tiểu thừa kia, còn không thể dùng tâm phân biệt mà thân chứng được, huống chi cảnh giới Viên Giác thanh tịnh của Như Lai mà lại dùng tâm suy nghĩ so đo của chúng sinh, làm sao nhập được.

Cũng như người dùng lửa đom đốm, để đốt núi Tu di, làm sao đốt được. Người dùng tâm luân hồi, sinh vọng chấp luân hồi, mà muốn vào biển Niết bàn tịch tịnh của Như Lai thì không thể được.

Thế nên ta dạy: Tất cả các vị Bồ tát và chúng sinh đời sau, trước phải đoạn hết căn bản sinh tử luân hồi từ vô thỉ.

Lược giải:

Cảnh giới Niết bàn của Thanh Văn là cảnh giới Tiểu thừa (Trầm không thú tịch khôi thân diệt trí) mà còn không thể nghĩ ngợi được, huống chi cảnh giới của Phật cao siêu tột bực, mà lại dùng tâm suy nghĩ và lời nói luận bàn được sao. Nếu người dùng cái vọng tâm sinh tử luân hồi của phàm phu và trí của Tiểu thừa để suy nghĩ phân biệt cảnh giới Viên Giác của Như Lai, thì quyết không thể hiểu được (Dĩ luân hồi tâm, sinh luân hồi kiến, nhập ư Như Lai đại tịch diệt hải, chung bất năng chí). Cũng như người dùng lửa của con đom đóm để đốt núi Tu Di thì không thể được.

Bởi thế nên Phật dạy: “Trước phải đoạn hết căn bản sinh tử luân hồi từ vô thỉ”, tức là diệt vọng tâm phân biệt. Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy phải rành rõ hai món căn bản là:

1. Phải đoạn căn bản của sinh tử luân hồi là vọng tâm.

2. Phải y trụ nơi căn bản của Bồ đề Niết bàn là chân tâm.

9. KHÔNG THỂ DÙNG TÂM CHÚNG SINH, PHÂN BIỆT ĐƯỢC CẢNH PHẬT

- Này Thiện nam! Nếu có suy nghĩ phân biệt là từ vọng tâm (thức) khởi, nên tất cả suy nghĩ, đều là cái vọng tưởng phân biệt duyên theo bóng dáng của sáu trần. Nó hư vọng như hoa đốm trong hư không, chẳng phải là chân tâm. Nếu ông dùng cái vọng tâm suy nghĩ này, mà suy nghĩ cảnh giới của chư Phật, thì cảnh giới ấy cũng lẩn quẩn trong vòng vọng tưởng của chúng sinh mà thôi. Cũng như người ngồi trông đợi cho hoa đốm giữa hư không kết thành ra quả, thì không có thể được.

Này Thiện nam! Ông dùng tâm hư vọng thô phù, sinh ra các lối chấp xảo quyệt, (chấp càn) cho nên ông không thể nhập được cảnh Viên Giác chân thật của Như Lai. Bởi thế, nên những lời ông hỏi trên, đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi đúng đắn chân thật.

Lược giải:

Ðức Thế Tôn, sau khi trải qua thời gian ba vô số kiếp tu hành, được thành Phật hiệu là Thích Ca Mâu Ni rồi, Ngài dạy rằng: “Nói thành Phật thật ra không thành cái chi khác, mà chỉ trở lại với tính Phật sẵn có đó thôi”. Trong kinh nói: “Thành mà vẫn không thành”, hay câu: “Ngộ liễu đồng vị ngộ, vô pháp diệc vô tâm”. (Giác ngộ rồi cũng đồng như khi chưa giác ngộ, vì không có Pháp và cũng không có Tâm gì khác).

Tính Phật này, không riêng gì một mình Ngài có, mà tất cả chúng sinh đều có sẵn có. Vì căn cứ theo Phật tính sẵn có này, nên Ngài nói: “Tất cả chúng sinh đều có tính Phật” hay trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Tất cả chúng sinh đều sẵn có đầy đủ trí huệ đức tướng của Như Lai”. (Nhất thế chúng sinh cụ hữu Như Lai trí huệ đức tướng). Bởi thế nên Ngài nói: “Chúng sinh đã thành Phật từ lâu”.

Vậy, người muốn hiểu đến lý này, phải nhập cảnh giới Phật, trình độ phải gần như Phật mới hiểu được. Nếu chỉ dùng tâm cấu nhiễm thô phù phân biệt của chúng sinh, mà so tính đến cảnh giới Phật, thì làm sao hiểu được. Cũng như người muốn hiểu câu nói của cụ già tám mươi, ít nhất trình độ cũng gần như cụ già mới hiểu. Nếu dùng trí non nớt của trẻ con năm, mười tuổi, mà suy nghĩ câu nói của cụ già thì làm sao hiểu được. Bởi thế nên Phật nói: “Những lời ông hỏi trên đều là hư vọng phân biệt, không phải lời hỏi chân thật”.

10. PHẬT NÓI BÀI KỆ ĐỂ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN

Khi ấy đức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói kệ rằng:

Kim cương Tạng! Nên biết:

Như Lai tính vắng lặng,

Chưa từng có chung thủy,

Nếu dùng tâm luân hồi,

Suy nghĩ cảnh giới Phật,

Cảnh Phật thành luân hồi.

Người ở bờ luân hồi,

Không thể vào biển Phật.

Phật tính tuy sẵn có,  

Phải tu mới hiển hiện.

Cũng như vàng sẵn có,

Phải lọc quặng mới thành.

Khi đã thành vàng y,

Không trở lại làm quặng.

Sinh tử và Niết bàn,

Phàm phu cùng chư Phật,

Thảy đều như hoa đốm.

Tâm suy nghĩ đã huyễn,

Nên lời hỏi cũng huyễn,

Làm sao nhập được chân.

Nếu rõ được tâm này,

Mới cầu được Viên Giác.


Lược giải:

Bài kệ này tóm lại các nghĩa trên. Ðại ý nói: Tính Viên Giác của Phật thanh tịnh vắng lặng, không có thánh, phàm, chúng sinh và Phật v.v... Nếu dùng tâm phân biệt của chúng sinh mà phân biệt cảnh giới Phật, thì cảnh Phật cũng thành cảnh chúng sinh.

Chúng sinh tuy sẵn có Phật tính, nhưng phải nhờ có tu mới hiển. Cũng như chất vàng tuy sẵn có trong khoáng, nhưng phải nhờ lọc hết quặng mới thành vàng y. Khi đã thành vàng y rồi thì không còn trở lại làm quặng nữa. Cũng như khi đã thành Phật rồi thì không còn trở lại làm chúng sinh.

Bởi đứng trong vòng vọng nhiễm tương đối, nên thấy có sinh tử và Niết bàn, chúng sinh và Phật; chớ đứng về tính Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì các pháp trên đây đều như hoa đốm giữa hư không.

Ngài Kim cương Tạng Bồ tát vì muốn đại diện cho phàm phu, nên đã dùng tâm vọng nhiễm của chúng sinh mà suy nghĩ so đo, thấy có chúng sinh và Phật, và giả thốt ra các lời hỏi hư vọng ấy. Những lời hỏi này, đối với cảnh Viên Giác chân thật của Như Lai, thì chẳng nhằm chi cả. Bởi thế nên Phật quở rằng: “Những lời ông hỏi đều không chân chính”.

Vậy nên, hành giả phải rời các vọng niệm phân biệt, mới hiểu được tính Viên Giác.

Chú thích:

(1) Thân tâm đoạn diệt của Thinh Văn: Hàng Thinh Văn Tiểu thừa rất sợ việc hóa đạo độ sinh, vì sợ gặp những nghịch cảnh rồi vô minh phiền não nổi lên, mà phải bị thối chuyển. Bởi thế nên các Ngài cứ lo tu giải thoát một mình. Từ đời này cho đến kiếp nọ, ưa ở chỗ thanh vắng tịch mịch, say đắm cảnh Niết bàn của Tiểu thừa, giữ tâm yên tịnh luôn không dám khởi niệm, say mê với cảnh thiền, thân không lay động cũng như tro nguội, nên nói: “Thân tâm đoạn diệt”. Chỗ khác gọi rằng: “Trầm không thú tịch khôi thân diệt trí”, nghĩa là: say sưa với cảnh không, thích thú nơi tịch mịch, thân yên lặng như tro nguội, tâm trí diêt, không móng niệm.

Bởi thế nên Phật quở hàng Tiểu thừa là loại giống khô, mộng héo (tiêu nha bại chủng), nghĩa là thứ giống khô rụi, không thể nứt mộng sinh chồi nữa được.

Phật lại dạy rằng: Không ai đem giống gieo trồng trên hư không được, mà phải gieo trồng trên mặt đất. Giống Bồ đề cũng thế, không thể gieo trồng nơi chỗ trống không được, mà phải gieo trồng nơi đất chúng sinh. Bởi thế nên muốn thành quả Phật Bồ đề, thì phải hóa độ chúng sinh.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6327951
Số người trực tuyến: