7. Quyển Bảy | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

7. Quyển Bảy

Quyển Bảy

III. Mục 3: Phật khai thị về Mật giáo, thầm giúp cho những người tu hành

"A-nan, ông hỏi cách nhiếp-trì tâm-niệm, thì tôi đã nói rằng: Người muốn vào Tam-ma-đề, tu-học pháp-môn nhiệm-mầu, cầu đạo Bồ-tát; trước hết cần giữ 4 thứ luật-nghi đó trong-sáng như giá, như sương, tự không thể sinh ra được tất-cả ngành lá; ba ý-nghiệp, bốn khẩu-nghiệp ác chắn không còn có nhân mà sinh được. A-nan, nếu giữ 4 việc như vậy không thiếu-sót, thì tâm còn không duyên với sắc, hương, vị, xúc, tất-cả ma-sự làm sao mà phát-sinh được. Nếu có tập-khí cũ không thể diệt-trừ, ông dạy người đó nhất-tâm tụng chú vô-thượng "Phật-đỉnh quang-minh ma-ha tát-đát-đa bát-đát-ra" của tôi, đó là cái tâm-chú do Vô-vi-tâm-Phật của Vô-kiến-đỉnh-tướng Như-lai, từ nơi đỉnh hiện ra, ngồi trên hoa sen báu mà nói.

Vả lại, ông cùng nàng Ma-đăng-già, do nhân-duyên nhiều kiếp đời trước thành tập-khí ân-ái, không phải một đời hay là một kiếp; song, một phen tôi tuyên-dương chú, thì Nàng Ma-đăng-già thoát hẳn khỏi lòng yêu, thành quả A-la-hán. Nàng kia, còn là dâm-nữ, không có tâm tu-hành, do sức chú giúp, cũng mau chứng quả vô-học; thế thì bọn ông, những hàng Thanh-văn trong Hội này, cầu Tối-thượng-thừa, thì quyết-định sẽ thành Phật, cũng ví-như bụi bay gặp gió thuận, có khó-khăn gì?

Nếu có người, trong đời mạt-pháp, muốn ngồi đạo tràng tu-hành, trước hết phải giữ cấm-giới tỷ-khưu thanh-tịnh và cần phải lựa-chọn những vị sa-môn giữ-giới thanh-tịnh bậc nhất để làm thầy mình; nếu không gặp được tăng-chúng thật thanh-tịnh, thì giới-luật-nghi chắc không thành-tựu được. Sau khi giới được thành-tựu rồi, người đó đắp-y mới, sạch-sẽ, đốt hương, ở riêng một mình, tụng chú, do tâm-Phật nói, một trăm tám biến; về sau, kết-giới dựng-lập đạo tràng, cầu các đức vô-thượng Như-lai, hiện ở trong các cõi-nước mười phương, phóng hào-quang đại-bi đến rọi nơi đỉnh-đầu mình.

A-nan, những hàng thanh-tịnh tỷ-khưu, hoặc tỷ-khưu-ni, hoặc bạch-y đàn-việt như vậy, trong đời mạt-pháp, tâm diệt được tham-dâm, giữ giới thanh-tịnh của Phật, ở trong đạo tràng, phát-nguyện Bồ-tát, khi ra, khi vào, khi tắm, khi rửa, cả trong sáu thời đều hành-đạo như vậy, không ngủ, đến ba lần bảy ngày, thì tôi tự hiện-thân đến trước người ấy, xoa đỉnh an-ủi, khiến cho khai-ngộ".

IV. Mục 4: Khai thị những pháp tắc lập đạo tràng tu trì

1. Đoạn 1: Ông A-nan xin hỏi về quy tắc đạo tràng

Ông A-nan bạch Phật rằng: Thưa Thế-tôn, tôi nhớ lời từ-bi dạy-bảo vô-thượng của đức Như-lai, tâm đã khai-ngộ, tự biết con đường tu-chứng thành-quả vô-học, song, những người tu-hành, trong đời mạt-pháp, muốn lập đạo tràng, cần kết-giới thế nào, cho hợp với quy-tắc thanh-tịnh của chư Phật Thế-tôn?"

2. Đoạn 2: Khai thị nghi thức đạo tràng

Phật bảo ông A-nan: "Nếu người trong đời mạt-pháp, muốn lập đạo tràng, trước hết, phải lấy phân con đại-lực-bạch-ngưu ở núi Tuyết-sơn, bạch-ngưu này, ăn cỏ-thơm ngon-tốt trong núi và chỉ uống nước trong trên núi Tuyết-sơn, nên cái phân mịn-màng; nên lấy cái phân nó, hòa-hợp với hương chiên-đàn để quét trên mặt đất. Nếu, không phải ở Tuyết-sơn, thì phân bạch-ngưu hôi-nhớp, không thể trát đất được. Vậy thì, phải riêng ở nơi bình-nguyên, đào bỏ các lớp đất trên mặt, lấy thứ đất vàng từ 5 thước trở xuống; rồi lấy 10 thứ hương lá chiên-đàn, trầm-thủy, tô-hợp, huân-lục, uất-kim, bạch-giao, thanh-mộc, linh-lăng, cam-tùng và kê-thiệt, nghiền-rây thành bột, trộn với đất ấy thành bùn, để trát trên mặt đất đạo tràng, mỗi bề 1 trượng 6, thành cái đàn bát-giác. Giữa trung-tâm đàn, an-trí một hoa sen làm bằng vàng, bạc, đồng, cây, giữa hoa để một cái bát, trong bát đựng trước nước mù-sương tháng Tám và trong nước ấy tùy-ý cắm các hoa lá hiện có. Rồi lấy 8 cái gương tròn, mỗi cái để một phía, chung-quanh hoa sen và bát hoa. Bên ngoài những gương ấy, an-trí 16 hoa sen và giữa các hoa sen để 16 lư-hương cho trang-hoàng. Trong lư-hương đốt toàn hương trầm-thủy, không cho thấy lửa. Lấy sữa bạch-ngưu để trong 16 khí-mãnh; lấy sữa làm bánh-nướng và các thứ đường-cát, bánh-rán, bột-sữa, tô-hộp, mứt-gừng, mật-ong, bơ tốt, mật tốt, mỗi thứ 16 khí-mãnh, đặt ở ngoài hoa sen và quanh vòng hoa sen; để cúng-dâng chư Phật và các vị Đại-bồ-tát.

Trong mỗi thời ăn cơm và ở giữa đêm, lấy nửa thăng mật và 3 cáp bơ, trước đàn để riêng một lư lửa nhỏ; lấy hương đâu-lâu-bà, nấu lấy nước thơm, rửa than cho sạch; rồi đốt than đỏ hồng trong lư và rót mật bơ vào, đốt cho hết khói để cúng-dường chư Phật, Bồ-tát.

Ở 4 phía ngoài, treo khắp phan và hoa; ở trong phòng đàn, an-trí hình-tượng hiện có của thập phương Như-lai và các vị Bồ-tát nơi 4 vách. Nên ở chính-giữa để hình-tượng Phật Lô-xá-na, Phật Thích-ca, Phật Di-lặc, Phật A-xơ, Phật Di-đà và các hình-tượng đại-biến-hóa của Ngài Quán-âm, lại thêm, hình-tượng các vị Kim-cương-tạng Bồ-tát để ở hai bên; những tượng của Đế-thích, Phạm-vương, Ô-sô-sắt-ma, Lam-địa-ca, Quân-trà-lỵ, Tỳ-câu-chi và Tứ-thiên-vương, Tần-na, Dạ-ca, vân vân..., treo ở hai bên cửa; lại lấy 8 cái gương treo úp trên hư-không, mặt gương này đối-chiếu với 8 gương trước, đã để trong đàn-tràng, làm cho các hình-ảnh lồng-nhau nhiều lớp.

3. Đoạn 3: Khai thị tu trì được chứng

Trong tuần 7 ngày đầu, chí-thành đỉnh-lễ danh-hiệu thập phương Như-lai, các vị Đại-bồ-tát và A-la-hán, thường trong 6 thời tụng-chú đi quanh đàn, chí-tâm hành-đạo, một thời thường là 108 biến. Trong tuần 7 ngày thứ 2, một mặt chuyên-tâm phát-nguyện Bồ-tát, tâm không gián-đoạn; trong luật-nghi đạo, ta đã có chỉ-dạy về nguyện. Trong tuần 7 ngày thứ 3, trong cả 12 thời, một mặt trì-chú Bát-đát-ra của Phật; đến ngày thứ 7, thì thấy thập phương Như-lai một thời xuất-hiện, trong chỗ ánh-sáng các mặt gương giao-xen và được Phật xoa đỉnh. Rồi, liền ở nơi đạo tràng đó, tu phép Tam-ma-đề, có thể khiến cho những người tu-học như vậy, trong đời mạt-pháp, thân tâm được sáng-suốt, trong-sạch như ngọc lưu-ly.

A-nan, nếu trong các thầy truyền-giới cho vị tỷ-khưu ấy, hay trong 10 vị tỷ-khưu đồng-hội, có một người giới-hạnh không thanh-tịnh, thì những đạo tràng như thế, phần nhiều là không thành-tựu.

Từ sau 3 tuần 7 ngày, ngồi nghiêm-chỉnh an-cư, trải qua một trăm ngày, thì những người có lợi-căn, không rời khỏi chỗ ngồi, đã được quả Tu-đà-hoàn; dầu cho nơi thân tâm thánh-quả chưa thành, nhưng đã quyết-định tự biết sẽ thành Phật, không sai-chạy. Ông hỏi về đạo tràng, thì cách dựng-lập như vậy".

V. Mục 5: Tuyên nói tâm chú, rộng khai thị những lợi ích

1. Đoạn 1: Phóng hào quang, khắp thị hiện

Ông A-nan đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Từ khi xuất-gia, tôi ỷ-lại nơi lòng thương-yêu của Phật; vì cầu tuệ đa-văn, chưa chứng quả vô-vi, nên bị tà-thuật Phạm-thiên kia bắt-buộc; tâm tuy rõ-ràng, nhưng sức không tự-do, nhờ gặp ngài Văn-thù, khiến cho tôi được giải-thoát. Tuy tôi thầm nhờ sức của chú Phật-đỉnh Như-lai, nhưng chính mình còn chưa được nghe chú ấy, xin nguyện đức Đại-từ tuyên-nói lại cho, thương-xót cứu-giúp các hàng tu-hành trong Hội này và những người đời sau, còn trong luân-hồi, được nhờ mật-âm của Phật, mà thân-ý được giải-thoát". Lúc bấy giờ, tất-cả đại-chúng trong Hội thảy đều làm lễ, chờ nghe những câu chú bí-mật của Như-lai.

Lúc đó, đức Thế-tôn, từ nơi nhục-kế phóng ra trăm thứ hào-quang báu, trong hào-quang hiện ra hoa sen báu ngàn cánh, có hóa-thân Như-lai ngồi trong hoa sen, trên đình phóng ra mười đạo hào-quang bách-bảo; trong mỗi mỗi đạo hào-quang, đều hiện ra những vị Kim-cương mật-tích, số-lượng bằng mười số cát sông Hằng, xách núi, cầm xử, khắp cõi hư-không. Đại-chúng ngửa lên xem, vừa yêu vừa sợ, cầu Phật thương-xót che-chở, một tâm nghe đức Phóng-quang Như-lai, nơi Vô-kiến-đỉnh-tướng của Phật, tuyên-nói câu chú:

2. Đoạn 2: Tuyên đọc chú Phật đỉnh Thủ Lăng Nghiêm

1.- Na mô tát dát tha tô già đa gia a la ha đế tam diểu tam bồ đà tả.

2.- Tát đát tha Phật đà câu chi sắt ni sam.

3.- Na mô tát bà bột đà bột địa tát đá bệ tệ.

4.- Na mô tát đa nẫm tam diểu tam bồ đà câu chi nẫm.

5.- Sa xá ra bà ca tăng già nẫm.

6.- Na mô lô kê a la hán đá nẫm.

7.- Na mô tô lô đa ba na nẫm.

8.- Na mô sa yết rị đà già di nẫm.

9.- Na mô lô kê tam diểu già đá nẫm.

10.- Tam diểu già ba ra để ba đa na nẫm.

11.- Na mô đề bà ly sắt xiển.

12.- Na mô tất đà gia tỳ địa gia đà ra ly sắt xiển.

13.- Xá ba nô yết ra ha sa ha sa ra ma tha nẫm.

14.- Na mô bạt ra ha ma nê.

15.- Na mô nhân đà ra gia.

16.- Na mô bà già bà đế.

17.- Rô đà ra gia.

18.- Ô ma bát đế.

19.- Sa hê dạ gia.

20.- Na mô bà già bà đế.

21.- Na ra dã noa gia.

22.- Bàn giá ma ha tam mộ đà ra.

23.- Na mô tất yết rị đa gia.

24.- Na mô bà già bà đế.

25.- Ma ha ca ra gia.

26.- Địa rị bát lạt na già ra.

27.- Tỳ đà ra ba noa ca ra gia.

28.- A địa mục đế.

29.- Thi ma xá na nê bà tất nê.

30.- Ma đát rị già noa.

31.- Na mô tất yết rị đa gia.

32.- Na mô bà già bà đế.

33.- Đa tha già đá câu ra gia.

34.- Na mô bát đầu ma câu ra gia.

35.- Na mô bạt xà la câu ra gia.

36.- Na mô ma ni câu ra gia.

37.- Na mô già xà câu ra gia.

38.- Na mô bà già bà đế.

39.- Đế rị trà thâu ra tây na.

40.- Ba ra ha ra noa ra xà gia.

41.- Đá tha già đa gia.

42.- Na mô bà già bà đế.

43.- Na mô a di đa bà gia.

44.- Đá tha già đa gia.

45.- A ra ha đế.

46.- Tam diểu tam bồ đà gia.

47.- Na mô bà già bà đế.

48.- A sô bệ gia.

49.- Đá tha già đa gia.

50.- A ra ha đế.

51.- Tam diểu tam bồ đà gia.

52.- Na mô bà già bà đế.

53.- Bệ sa xà gia câu rô phệ trụ rị gia.

54.- Bát ra bà ra xà gia.

55.- Đá tha già đa gia.

56.- Na mô bà già bà đế.

57.- Tam bổ sư bí đa.

58.- Tát lân nại ra lạt xà gia.

59.- Đá tha già đa gia.

60.- A ra ha đế.

61.- Tam diểu tam bồ đà gia.

62.- Na mô bà già bà đế.

63.- Xá kê dã mẫu na duệ.

64.- Đá tha già đa gia.

65.- A ra ha đế.

66.- Tam diểu tam bồ đà gia.

67.- Na mô bà già bà đế.

68.- Lạt đá na kê đô ra xà gia.

69.- Đá tha già đa gia.

70.- A ra ha đế.

71.- Tam diểu tam bồ đà gia.

72.- Đế biều na mô tát yết rị đa.

73.- Ế đàm bà già bà đa.

74.- Tát đát tha già đô sắt ni sam.

75.- Tát đát đa bát đát lam.

76.- Na mô a bà ra thị đam.

77.- Bát ra đế dương kỳ ra.

78.- Tát ra bà bộ đa yết ra ha.

79.- Ni yết ra ha yết ca ra ha ni.

80.- Bạt ra bí địa gia sất đà nễ.

81.- A ca ra mật rị trụ.

82. Bát rị đát ra gia nãnh yết rị.

83.- Tát ra bà bàn đà na mục xoa ni.

84.- Tát ra bà đột sắt tra.

85.- Đột tất phạp bát na nễ phạt ra ni.

86.- Giả đô ra thất đế nẫm.

87.- Yết ra ha sa ha tát ra nhã xà.

88.- Tỳ đa băng sa na yết rị.

89.- A sắt cha băng xa đế nẫm.

90.- Na xoa sát đát ra nhã xà.

91.- Ba ra tát đà na yết rị.

92.- A sắt cha nẫm.

93.- Ma ha yết ra ha nhã xà.

94.- Tỳ đa băng tát na yết rị.

95.- Tát bà xá đô rô nễ bà ra nhã xà.

96.- Hô lam đột tất phạp nan giá na xá ni.

97.- Bí sa xá tất đát ra.

98.- A cát ni ô đà ca ra nhã xà.

99.- A bát ra thị đa cụ ra.

100.- Ma ha bát ra chiến trì.

101.- Ma ha điệp đa.

102.- Ma ha đế xà.

103.- Ma ha thuế đa xà bà ra.

104.- Ma ha bạt ra bàn đà ra bà tất nễ.

105.- A rị gia đa ra.

106.- Tỳ rị câu chi.

107.- Thệ bà tỳ xà gia.

108.- Bạt xà ra ma lễ đễ.

109.- Tỳ xá rô đa.

110.- Bột đằng dõng ca.

111.- Bạt xà ra chế hát na a giá.

112.- Ma ra chế bà bát ra chất đa.

113.- Bạt xà ra thiện trì.

114.- Tỳ xá ra giá.

115.- Phiến đa xá bệ đề bà bổ thị đa.

116.- Tô ma rô ba.

117.- Ma ha thuế đa.

118.- A ri gia đa ra.

119.- Ma ha bà ra a bát ra.

120.- Bạt xà ra thương yết ra chế bà.

121.- Bạt xà ra câu ma rị.

122.- Câu lam đà rị.

123.- Bạt xà ra hát tát đa giá.

124.- Tỳ địa gia kiền giá na ma rị ca.

125.- Hốt tô mẫu bà yết ra đá na.

126.- Bệ rô giá na câu rị gia.

127.- Dạ ra thỏ sắt ni sam.

128.- Tỳ chiết lam bà ma ni giá.

129.- Bạt xà ra ca na ca ba ra bà.

130.- Rô xà na bạt xà ra đốn trĩ giá.

131.- Thế đa giá ca ma ra.

132.- Sát xa thi ba ra bà.

133.- Ế đế di đế.

134.- Mẫu đà ra yết noa.

135.- Sa bệ ra sám.

136.- Quật phạm đô.

137.- Ấn thỏ na mạ mạ tả.

138.- Ô huân.

139.- Rị sắt yết noa.

140.- Bát lạt xá tất đa.

141.- Tát đát tha già đô sắt ni sam.

142.- Hổ luân.

143.- Đô rô úng.

144.- Chiêm bà na.

145.- Hổ huân.

146.- Đô rô úng.

147.- Tất đam bà na.

148.- Hổ huân.

149.- Đô rô úng.

150.- Ba ra sắt địa gia tam bát xoa noa yết ra.

151.- Hổ huân.

152.- Đô rô úng.

153.- Tát bà dược xoa hát ra sát sa.

154.- Yết ra ha nhã xà

155.- Tỳ đằng băng tát na yết ra.

156.- Hổ huân.

157.- Đô rô úng.

158.- Giả đô ra thi để nẫm.

159.- Yết ra ha sa ha tát ra nẫm.

160.- Tỳ đằng băng tát na ra.

161.- Hổ huân.

162.- Đô rô úng.

163.- Ra xoa.

164.- Bà già phạm.

165.- Tát đát tha già đô sắt ni sam.

166.- Ba ra điểm xà cát rị.

167.- Ma ha sa ha cát ra

168.- Bột thụ sa ha tát ra thất rị sa.

169.- Câu chi sa ha tát nê đế lệ.

170.- A tệ đề thị bà rị đa.

171.- Cha cha anh ca.

172.- Ma ha bạt xà rô đà ra.

173.- Đế rị, bồ bà na.

174.- Mạn trà ra.

175.- Ô huân.

176.- Sa tất đế bạc bà đô.

177.- Mạ mạ.

178.- Ấn thỏ na mạ mạ tả.

179.- ra xà bà dạ.

180.- Chủ ra bạt dạ.

181.- A kỳ ni bà dạ.

182.- Ô đà ca bà dạ.

183.- Tỳ sa bà dạ.

184.- Xá tát đa ra bà dạ.

185.- Bà ra chước yết ra bà dạ.

186.- Đột sắt noa bà dạ.

187.- A xá nễ bà dạ.

188.- A ca ra mật rị trụ bà dạ.

189.- Đà ra ni bộ di kiếm ba già ba đà bà dạ

190.- Ô ca ra bà đa bà dạ.

191.- Lạt xà đàn trà bà dạ.

192.- Na già bà dạ.

193.- Tỳ điều đát bà dạ.

194.- Tô ba ra noa bà dạ.

195.- Dược xoa yết ra ha.

196.- Ra xoa tư yết ra ha.

197.- Tất rị đa yết ra ha

198.- Tỳ xá giá yết ra ha.

199.- Bộ đa yết ra ha.

200.- Cưu bàn trà yết ra ha.

201.- Bổ đan na yết ra ha.

202.- Ca cha bổ đan na yết ra ha.

203.- Tất kiền độ yết ra ha.

204.- A bá tất ma ra yết ra ha.

205.- Ô đàn ma đà yết ra ha.

206.- Sa dạ yết ra ha.

207.- Hê rị bà đế yết ra ha.

208.- Xã đa ha rị nẫm.

209.- Yết bà ha rị nẫm.

210.- Rô địa ra ha rị nẫm.

211.- Mang sa ha rị nẫm.

212.- Mế đà ha rị nẫm.

213.- Ma xà ha rị nẫm.

214.- Xà đa ha rị nữ.

215.- Thị tỷ đa ha rị nẫm.

216.- Tỳ đa ha rị nẫm.

217.- Bà đa ha rị nẫm.

218.- A thâu giá ha rị nữ.

219.- Chất đa ha rị nữ.

220.- Đế sam tát bệ sam.

221.- Tát bà yết ra ha nẫm.

222.- Tỳ đà da xà sân đà dạ di.

223.- Kê ra dạ di.

224.- Ba rị bạt ra giả ca hất rị đảm.

225.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

226.- Kê ra dạ di.

227.- Trà diễn ni hất rị đảm.

228.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

229.- Kê ra dạ di.

230.- Ma ha bát thâu bát đát dạ.

231.- Rô đà ra hất rị đảm.

232.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

233.- Kê ra dạ di.

234.- Na ra dạ noa hất rị đảm.

235.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

236.- Kê ra dạ di.

237.- Đát đỏa già rô trà tây hất rị đảm.

238.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

239.- Kê ra dạ di.

240.- Ma ha ca ra ma đát rị già noa hất rị đảm.

241.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

242.- Kê ra dạ di.

243.- Ca ba rị ca hất rị đảm.

244.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

245.- Kê ra dạ di.

246.- Xà gia yết ra ma độ yết ra.

247.- Tát bà ra tha sa đạt na hất rị đảm.

248.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

249.- Kê ra dạ di.

250.- Giả đốt ra bà kỳ nễ hất rị đảm.

251.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

252.- Kê ra dạ di.

253.- Tỳ rị dương hất rị tri.

254.- Nan đà kê sa ra già noa bát đế.

255.- Sách hê dạ hất rị đảm.

256.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ ri.

257.- Kê ra dạ di.

258.- Na yết na xá ra bà noa hất rị đảm.

259.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

260.- Kê ra dạ di.

261.- A la hán hất rị đảm tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

262.- Kê ra dạ di.

263.- Tỳ đa ra già hất rị đảm.

264.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

265.- Kê ra dạ di bạt xà ra ba nễ.

266.- Cụ hê dạ cụ hê dạ.

267.- Ca địa bát đế hất rị đảm.

268.- Tỳ đà dạ xà sân đà dạ di.

269.- Kê ra dạ di.

270.- Ra xoa võng.

271.- Bà già phạm.

272.- Ấn thỏ na mạ mạ tả.

273.- Bà già phạm.

274.- Tát đát đa bát đát ra.

275.- Na mô tụy đô đế.

276.- A tất đa na ra lạt ca.

277.- Ba ra bà tất phổ tra.

278.- Tỳ ca tát đát đa bát đế rị.

279.- Thập Phật ra thập Phật ra.

280.- Đà ra đà ra.

281.- Tần đà ra tần đà ra sân đà sân đà.

282.- Hổ huân.

283.- Hổ huân.

284.- Phấn tra.

285.- Phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra phấn tra.

286.- Sa ha.

287.- Hê hê phấn.

288.- A mưu ca gia phấn.

289.- A ba ra đề ha đa phấn.

290.- Bà ra ba ra đà phấn.

291.- A tố ra tỳ đà ra ba ca phấn.

292.- Tát bà đề bệ tệ phấn.

293.- Tát bà na già tệ phấn.

294.- Tát bà dược xoa tệ phấn.

295.- Tát bà càn thát bà tệ phấn.

296.- Tát bà bổ đan na tệ phấn.

297.- Ca tra bổ đan na tệ phấn.

298.- Tát bà đột lang chỉ đế tệ phấn.

299.- Tát bà đột sáp tỷ rê hất sắt đế tệ phấn.

300.- Tát bà thập bà rị tệ phấn.

301.- Tát bà a bá tất ma rê tệ phấn.

302.- Tát bà xá ra bà noa tệ phấn.

303.- Tát bà địa đế kê tệ phấn.

304.- Tát bà đát ma đà kế tệ phấn.

305.- Tát bà tỳ đà gia ra thệ giá rê tệ phấn.

306.- Xà dạ yết ra ma độ yết ra.

307.- Tát bà ra tha sa đà kê tệ phấn.

308.- Tỳ địa dạ giá rê tệ phấn.

309.- Giả đô ra phộc kỳ nễ tệ phấn.

310.- Bạt xà ra câu ma rị.

311.- Tỳ đà dạ ra thệ tệ phấn.

312.- Ma ha ba ra đinh dương xoa kỳ rị tệ phấn.

313.- Bạt xà ra thương yết ra dạ.

314.- Ba ra trượng kỳ ra xà gia phấn.

315.- Ma ha ca ra dạ.

316.- Ma ha mạt đát rị ca noa.

317.- Na mô sa yết rị đa dạ phấn.

318.- Bí sắt noa tì duệ phấn.

319.- Bột ra ha mưu ni duệ phấn.

320.- A kỳ ni duệ phấn.

321.- Ma ha yết rị duệ phấn.

322.- Yết ra đàn trì duệ phấn.

323.- Miệt đát rị duệ phấn.

324.- Rạo đát rị duệ phấn.

325.- Giá văn trà duệ phấn.

326.- Yết lã ra đát rị duệ phấn.

327.- Ca bát rị duệ phấn.

328.- A địa mục chất đa ca thi ma xá na.

329.- Bà tư nễ duệ phấn.

330.- Diễn cát chất.

331.- Tát đỏa bà tả.

332.- Mạ mạ ấn thỏ na mạ mạ tả.

333.- Đột sắt tra chất đa.

334.- A mạt đát rị chất đa.

335.- Ô xà ha ra.

336.- Già bà ha ra.

337.- Rô địa ra ha ra.

338.- Bà sa ha ra.

339.- Ma xà ha ra.

340.- Xà đa ha ra.

341.- Thị bí đa ha ra.

342.- Bạt lược dạ ha ra.

343.- Càn đà ha ra.

344.- Bố sử ba ha ra.

345.- Phả ra ha ra.

346.- Bà tả ha ra.

347.- Bát ba chất đa.

348.- Đột sắt tra chất đa.

349.- Lạo đà ra chất đa.

350.- Dược xoa yết ra ha.

351.- Ra sát sa yết ra ha.

352.- Bế lệ đa yết ra ha.

353.- Tỳ xá giá yết ra ha.

354.- Bộ đa yết ra ha.

355.- Cưu bàn trà yết ra ha.

356.- Tất càn đà yết ra ha.

357.- Ô đát ma đà yết ra ha.

358.- Sa dạ yết ra ha.

359.- A bá tát ma ra yết ra ha.

360.- Trạch khư cách trà kỳ ni yết ra ha.

361.- Rị Phật đế yết ra ha.

362.- Xà di ca yết ra ha.

363.- Xá câu ni yết ra ha.

364.- Mỗ đà ra nan địa ca yết ra ha.

365.- A lam bà yết ra ha.

366.- Càn độ ba ni yết ra ha.

367.- Thập phạt ra yên ca hê ca.

368.- Trụy đế dược ca.

369.- Đát lệ đế dược ca.

370.- Giả đột thác ca.

371.- Nặc đề thập phạt ra bí sam ma thập phạt ra.

372.- Bạc để ca.

373.- Tị để ca.

374.- Thất lệ sắt mật ca.

375.- Sa nễ bát đế ca.

376.- Tát bà thập phạt ra.

377.- Thất rô cát đế.

378.- Mạt bà bệ đạt rô chế kiếm.

379.- A ỷ rô kiềm.

380.- Mục khư rô kiềm.

381.- Yết rị đột rô kiềm.

382.- Yết ra ha yết lam.

383.- Yết noa thâu lam.

384.- Đạn đa thâu lam.

385.- Hất rị dạ thâu lam.

386.- Mạt mạ thâu lam.

387.- Bạt rị thất bà thâu lam.

388.- Bí lật sắt tra thâu lam.

389.- Ô đà ra thâu lam.

390.- Yết tri thâu lam.

391.- Bạt tất đế thâu lam.

392.- Ô rô thâu lam.

393.- Thường già thâu lam.

394.- Hát tất đa thâu lam.

395.- Bạt đà thâu lam.

396.- Sa phòng áng già bát ra trượng già thâu lam.

397.- Bộ đa bí đá trà.

398.- Chà kỳ ni thập bà ra.

399.- Đà đột rô ca kiến đốt rô cát tri bà lộ đa tỳ.

400.- Tát bát rô ha lăng già.

401.- Thâu sa đát ra sa na yết ra.

402.- Tỳ sa dụ ca.

403.- A kỳ ni ô đà ca.

404.- Mạt ra bê ra kiến đá ra.

405.- A ca ra mật rị đốt đát liễm bộ ca.

406.- Địa lật lạt tra.

407.- Bí rị sắt chất ca.

408.- Tát bà na câu ra.

409.- Tứ dẫn già tệ yết ra rị dược xoa đát ra sô.

410.- Mạt ra thị phệ đế sam sa bệ sam.

411.- Tất đát đa bát đát ra.

412.- Ma ha bạt xà rô sắt ni sam.

413.- Ma ha bát lạt trượng kỳ lam.

414.- Dạ ba đột đà xá dụ xà na.

415.- Biện đát lệ noa.

416.- Tỳ đà gia bàn đàm ca rô di.

417.- Đế thù bàn đàm ca rô di.

418.- Bát ra tỳ đà bàn đàm ca rô di.

419.- Đá điệt tha.

420.- Úm.

421.- A na lệ.

422.- Tỳ xá đề.

423.- Bệ ra bạt xà ra đà rị.

424.- Bàn đà bàn đà nễ.

425.- Bà xà ra báng ni phấn.

426.- Hổ huân đô rô úng phấn.

427.- Sa bà ha.

3. Đoạn 3: Khai thị xuất sinh chư Phật, hàng phục tà ma, rộng ban ơn cho chúng sinh

"A-nan, những câu nhiệm-mầu, những kệ bí-mật "Tất-đát-đa-bát-đát-ra" của hóa-thân nơi hào-quang đỉnh-Phật, sinh ra tất-cả chư Phật thập phương. Thập phương Như-lai nhân chú-tâm này, thành được Vô-thượng-chính-biến-tri-giác. Thập phương Như-lai nắm chú-tâm này, uốn-dẹp các ma, chế-phục các ngoại-đạo. Thập phương Như-lai vận chú-tâm này, ngồi hoa sen báu, ứng-hiện trong các cõi-nước như số vi-trần. Thập phương Như-lai ngậm chú-tâm này, nơi cõi-nước như số vi-trần, xoay bánh xe Pháp lớn. Thập phương Như-lai giữ chú-tâm này, có thể nơi mười phương xoa đỉnh thụ-ký, tự mình quả-vị chưa thành, cũng có thể nơi mười phương nhờ chư Phật thụ-ký. Thập phương Như-lai nương chú-tâm này, có thể nơi mười phương cứu-vớt các khổ như địa-ngục, ngạ-quỷ, súc-sinh, đui, điếc, ngọng, câm; các khổ oán-tăng-hội, ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, ngũ-ấm-xí-thịnh; những tai-nạn lớn nhỏ đồng-thời được giải-thoát; nạn giặc, nạn binh, nạn vua, nạn ngục, nạn gió, lửa, nước, cho đến đói-khát bần-cùng, liền được tiêu-tan. Thập phương Như-lai theo chú-tâm này, có thể nơi mười phương, phụng-sự thiện-tri-thức, trong bốn uy-nghi, cúng-dường được như-ý; trong Pháp-hội hằng-sa Như-lai, được suy-tôn là vị Đại-pháp-vương-tử. Thập phương Như-lai dùng chú-tâm này, có thể nơi mười phương, nhiếp-thụ các nhân-thân, khiến cho các hàng Tiểu-thừa nghe tạng bí-mật, không sinh lòng kinh-sợ. Thập phương Như-lai tụng chú-tâm này, thành-đạo Vô-thượng-giác, ngồi dưới cây Bồ-đề, vào Đại-niết-bàn. Thập phương Như-lai truyền chú-tâm này, sau khi diệt-độ rồi, phó-chúc Pháp-sự của Phật, được trụ-trì rốt-ráo; giới-luật nghiêm-tịnh, thảy đều trong-sạch."

4. Đoạn 4: Khai thị chú tâm, nói rộng không hết

"Nếu tôi nói chú "Phật-đỉnh-quang-tụ bát-đát-ra" này, từ sáng đến tối, các tiếng nối nhau, trong đó những chữ, những câu cũng không trùng-điệp, trải qua kiếp-số như cát sông Hằng, rốt-cuộc không thể hết được. Chú này cũng gọi tên là Như-lai-đỉnh."

5. Đoạn 5: Khai thị sức của chú này thành tựu được thế gian và xuất thế gian, thêm trí tuệ, tiêu nghiệp chướng

"Hàng hữu-học các ông chưa hết luân-hồi, phát-lòng chí-thành tu chứng quả A-la-hán, nếu không trì-chú này, khi ngồi đạo tràng, mà khiến thân tâm xa-rời được các ma-sự, thì không thể được.

A-nan, nếu trong các thế-giới, có những chúng-sinh, tùy cõi-nước mình sinh ra, nào vỏ cây hóa, nào lá cây bối, nào giấy trắng, nào bạch-diệp, dùng để viết-chép chú này, đựng trong túi thơm; nếu người đó tối-tăm chưa tụng, chưa nhớ được, mà hoặc đeo trên mình, hoặc viết trong nhà ở, thì nên biết người ấy, trọn đời tất-cả các thứ độc không thể hại được.

A-nan, nay tôi vì ông tuyên lại chú này, cứu-giúp trong thế gian được đại-vô-úy và thành-tựu trí xuất-thế-gian cho chúng-sinh.

Nếu sau khi tôi diệt-độ rồi; chúng-sinh trong đời mạt-pháp, có người biết tự mình tụng, hoặc dạy người khác tụng-chú này, nên biết những chúng-sinh trì-tụng như vậy, lửa không đốt được, nước không đắm được, độc lớn, độc nhỏ không thể hại được, cho đến các hàng thiên, long, quỷ, thần, tinh, kỳ, ma, mị, có những chú-dữ, đều không làm gì được. Tâm người ấy được chính-thụ; tất-cả chú-trớ, yểm-cổ, thuốc-độc, kim-độc, ngân-độc và độc-khí muôn vật như cỏ, cây, sâu, rắn, vào miệng người ấy đều thành vị cam-lộ. Tất-cả ác-tinh với các quỷ-thần, lòng dữ hại người, đối với người ấy, cũng không thể khởi ra ác-niệm; Tần-na, Dạ-ca và các quỷ-vương dữ khác, cùng với quyến-thuộc, đều lĩnh-ơn sâu, thường gìn-giữ ủng-hộ.

A-nan, nên biết chú này, thường có 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa câu-chi chủng-tộc Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, mỗi mỗi đều có những chúng Kim-cương làm quyến-thuộc, ngày đêm theo hầu. Giả-sử có chúng-sinh, với tâm tán-loạn, chứ không phải Tam-ma-đề, tâm nhớ niệm-trì chú này; thì các Kim-cương-vương đó, cũng thường theo bên thiện-nam-tử kia, huống nữa, là những người có tâm Bồ-đề quyết-định; đối với những người này, các vị Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát đó, dùng tịnh-tâm thầm xúc-tiến, phát-huy thần-thức; người ấy liền khi đó, tâm nhớ lại được 84.000 hằng-ha-sa kiếp, rõ-biết cùng khắp, được không nghi-hoặc. Từ kiếp thứ nhất cho đến thân cuối-cùng, đời đời người ấy không sinh vào các loài Dược-xoa, La-sát, Phú-đan-na, Ca-tra-phú-Đan-na, Cưu-bàn-trà, Tỳ-xá-già, v.v..., cùng các loài ngạ-quỷ, có hình, không hình, có tưởng, không tưởng và những chỗ dữ như thế. Thiện-nam-tử đó, hoặc đọc, hoặc tụng, hoặc viết, hoặc chép, hoặc đeo, hoặc giữ, hoặc cúng-dường nhiều cách chú này, thì kiếp kiếp không sinh vào những nơi bần-cùng hạ-tiện, không thể ưa-thích.

Các chúng-sinh đó, dù cho chính mình không làm việc phúc, thập phương Như-lai có các công-đức đều cho họ hết, do đó, họ được trong những kiếp hằng-sa vô-số, không thể nói, không thể nói hết, thường cùng chư Phật đồng sinh một chỗ; vô-lượng công-đức nhóm-lại như trái ác-xoa, đồng một chỗ huân-tu, hằng không phân-tán. Vậy nên, có thể khiến người phá giới, mà giới-căn cũng được thanh-tịnh; người chưa được giới, khiến cho được giới; người chưa tinh-tiến, khiến cho tinh-tiến; người không trí-tuệ, khiến được trí-tuệ; người không thanh-tịnh, mau được thanh-tịnh; người không giữ trai-giới, tự thành có trai-giới. A-nan, thiện-nam-tử ấy, khi trì-chú này, giả-sử có phạm cấm-giới khi chưa thụ-trì, thì sau khi trì-chú, các tội phá giới, không luận nặng nhẹ, một thời, đều tiêu-diệt, dù đã uống rượu, ăn thứ ngũ tân và các thứ không sạch, tất-cả chư Phật, Bồ-tát, Kim-cương, Thiên-tiên, Quỷ-thần không cho là có lỗi; dù mặc y-phục rách-nát không sạch, thì một cái đi, một cái đứng, thảy đồng như thanh-tịnh; dù không lập đàn, không vào đạo tràng, cũng không hành-đạo mà tụng-trì chú này, thì công-đức cũng như vào đàn, hành-đạo, không có khác vậy; dù gây những tội nặng ngũ-nghịch, vô-gián và phạm những tội tứ-khí, bát-khí của tỷ-khưu và tỷ-khưu-ni, thì khi tụng-chú này rồi, cũng như gió mạnh thổi-tan đống cát, những nghiệp nặng như vậy, đều diệt-trừ hết, không còn chút mảy-may. A-nan, nếu có chúng-sinh, từ vô-lượng vô-số kiếp đến nay, có tất-cả những tội-chướng nhẹ, nặng mà trong các đời trước, chưa kịp sám-hối, nếu biết đọc, tụng, viết, chép chú này, giữ đeo trên thân mình hay để nơi chỗ ở, như trang, trạch, viên, quán, thì những nghiệp chứa-nhóm từ trước như vậy, đều tiêu-tan như nước sôi tiêu tuyết, chẳng bao lâu, đều ngộ được vô-sinh-nhẫn.

6. Đoạn 6: Khai thị trì chú thì được mãn nguyện và được sinh vào nơi tốt

"Lại nữa, A-nan, nếu có người đàn-bà chưa sinh con trai, con gái, mong-cầu có thai, mà biết chí-tâm nhớ niệm-chú, hoặc ở trên mình đeo chú Tất-đát-đa-bát-đát-ra này, thì liền sinh những con trai, con gái có phúc-đức trí-tuệ; người cầu sống lâu, thì được sống lâu, người cầu quả-báo mau được viên-mãn, thì mau được viên-mãn, cho đến về thân-mệnh, sắc-lực, thì cũng được viên-mãn như vậy; sau khi mệnh-chung, tùy nguyện được vãng-sinh trong thập phương quốc-độ, chắc-chắn không sinh nơi biên-địa hạ-tiện, huống nữa là các tạp-hình.

7. Đoạn 7: Khai thị sức chú có thể tiêu quốc nạn, dân tai

"A-nan, nếu các cõi-nước, các châu, các huyện, các làng-xóm bị nạn đói-kém, dịch-lệ, hoặc ở những nơi có đao-binh, tặc-nạn, đánh nhau, cãi nhau và tất-cả những nơi có ách-nạn khác, viết chú này, để trên bốn cửa thành, cùng các tháp hay trên các thoát-xà và khiến chúng-sinh hiện có trong cõi-nước, kính-rước chú này, lễ-bái cung-kính nhất-tâm cúng-dường, khiến trong nhân-dân, mỗi mỗi người đeo chú trong mình, hoặc để nơi chỗ ở, thì tất-cả tai-ách thảy đều tiêu-diệt. A-nan, chúng-sinh trong cõi-nước, chỗ nào, chỗ nào có được chú này, thì thiên-long vui-mừng, mưa-gió thuận-thời, ngũ-cốc được mùa, dân-chúng an-vui; lại có thể trấn được tất-cả ác-tinh, nó tùy nơi, biến ra những điều quái-dị; tai-chướng không khởi lên, người không hoạnh-tử, chết-yểu, gông-cùm, xiềng-xích không dính vào mình, ngày đêm ngủ yên, thường không ác-mộng. A-nan, cõi Sa-bà này có 84.000 ác-tinh tai-biến, 28 đại-ác-tinh làm thượng-thủ, lại có 8 đại-ác-tinh làm chủ, xuất-hiện trên đời với nhiều hình-trạng, có thể sinh ra các tai-nạn dị-kỳ cho chúng-sinh; chỗ nào có chú này, thì tất-cả đều tiêu-diệt, lấy 12 do-tuần làm vòng kết-giới, các tai-biến hung-dữ, hẳn không thể vào được.

8. Đoạn 8: Bảo hộ hàng sơ tâm rời ma chướng, chóng khai ngộ

"Vậy nên Như-lai tuyên-dạy chú này, bảo-hộ cho những người tu-hành sơ-học, trong đời vị-lai, vào Tam-ma-đề, thân tâm thư-thái, được đại-an-ẩn, không còn tất-cả các ma, quỷ-thần, và những oan-khiên đời trước, nghiệp cũ, nợ xưa, từ vô-thủy tới nay, đến khuấy-hại nhau. Ông với những người hữu-học trong chúng và những kẻ tu-hành đời vị-lai, y như lời-dạy của tôi mà lập đàn-trường, đúng theo pháp mà trì-giới, gặp được tăng-chúng thanh-tịnh chủ-trì việc thụ-giới, đối với chú-tâm này, không sinh lòng nghi-hối; những thiện-nam-tử như thế, chính nơi cái thân cha mẹ sinh ra, mà không được tâm-thông, thì thập phương Như-lai bèn là vọng-ngữ".

9. Đoạn 9: Kim cương Thiện thần trong hội phát nguyện bảo hộ rộng rãi

Phật dạy lời ấy rồi, vô-lượng trăm ngàn Kim-cương trong Hội, một thời đứng trước Phật, chắp tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Như lời Phật dạy, chúng tôi phải thành tâm bảo-hộ những người tu-đạo Bồ-đề như vậy".

Khi bấy giờ, Phạm-vương và Thiên-đế-thích, Tứ-thiên đại-vương cũng ở trước Phật, đồng-thời đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Xét có người lành tu-học như vậy, chúng tôi phải hết lòng chí-thành bảo-hộ, khiến cho trong một đời, tu-hành được như nguyện".

Lại có, vô-lượng Đại-tướng-dược-xoa, các vua La-sát, vua Phú-đan-na, vua Cưu-bàn-trà, vua Tỳ-xá-già, các Đại-quỷ-vương như Tần-na, Dạ-ca, và các Quỷ-xoái, cũng ở trước Phật, chắp tay đỉnh-lễ mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi cũng thệ-nguyện hộ-trì cho người đó, khiến cho tâm Bồ-đề mau được viên-mãn".

Lại có, không lường Nhật, Nguyệt thiên-tử, Phong-sư, Vũ-sư, Vân-sư, Lôi-sư cùng với Điện-bá và các Niên-tuế-tuần-quan, chư tinh và quyến-thuộc, v.v..., cùng ở trong Hội, đỉnh-lễ chân Phật mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi bảo-hộ người tu-hành ấy, lập ra đạo tràng, được không e sợ".

Lại có, vô-lượng Sơn-thần, Hải-thần, tất-cả tinh-kỳ, đất-đai muôn vật, thủy, lục, không, hành, với Phong-thần-vương và Chư-thiên Vô-sắc-giới, ở trước Như-lai, đồng-thời cúi đầu bạch Phật rằng: "Chúng tôi cũng bảo-hộ người tu-hành ấy, được thành Bồ-đề, hẳn không ma-sự".

Khi bấy giờ, 84.000 na-do-tha hằng-hà-sa Câu-chi Kim-cương-tạng-vương Bồ-tát, ở trong đại Hội, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Thế-tôn, như bọn chúng tôi, công-nghiệp tu-hành, đã thành đạo Bồ-đề lâu rồi, mà không nhận-lấy Niết-bàn, thường theo chú này, cứu-giúp những người chân-chính tu-hành pháp Tam-ma-đề trong đời mạt-pháp. Bạch Thế-tôn, những người tu-tâm vào chính định như thế, dù ở đạo tràng, hay là những lúc kinh-hành, cho đến khi tán-tâm đi chơi trong làng-xóm, đồ-chúng chúng tôi thường phải đi theo thị-vệ người ấy, dù cho Ma-vương, Đại-tự-tại-thiên muốn được phương-tiện khuấy-phá, cũng không thể được; các quỷ-thần nhỏ, phải cách xa người lành ấy, ngoài 10 do-tuần, trừ khi, họ phát-tâm thích người tu-thiền. Bạch Thế-tôn, những ác-ma như thế, hay quyến-thuộc của ma, muốn đến xâm-lấn khuấy-phá người lành ấy, chúng tôi dùng bảo-xứ đập-nát cái đầu như vi-trần, thường khiến cho người ấy tu-hành được như nguyện."

VI. Mục 6: Khai thị những vị trí tu chứng trước sau

1. Ông A-nan xin khai thị về những danh mục thứ bậc tu hành

Ông A-nan, liền từ chỗ ngồi đứng dậy đỉnh-lễ nơi chân Phật mà bạch Phật rằng: "Chúng tôi ngu-độn, ưa tuệ đa-văn, đối với các tâm hữu-lậu, chưa cầu thoát-ly, nhờ Phật từ-bi dạy-bảo được lối huân-tu chân-chính, thân tâm khoan-khoái, được lợi-ích lớn. Bạch Thế-tôn, những người tu-chứng pháp Tam-ma-đề của Phật như thế, chưa đến Niết-bàn, thì thế nào gọi là Can-tuệ-địa, trong 44 tâm, đến thứ-bậc nào, mới được danh-mục tu-hành, đến phương-sở nào, mới gọi là nhập-địa, thế nào, gọi là Đảng-giác Bồ-tát?" Nói lời ấy rồi, năm vóc gieo xuống đất, trong đại-chúng đều nhất-tâm, chăm-chỉ mong-đợi từ-âm của Phật.

2. Đoạn 2: Khen ngợi và hứa sẽ chỉ trước cho

Khi bấy giờ, đức Thế-tôn khen ông A-nan rằng: "Hay thay! Hay thay! Các ông lại biết, vì cả đại-chúng và hết thảy chúng-sinh tu Tam-ma-đề, cầu pháp Đại-thừa trong đời mạt-pháp, xin tôi chỉ trước đường tu-hành vô-thượng chân-chính từ phàm-phu đến Đại-niết-bàn; nay ông hãy nghe cho chín, tôi sẽ vì ông mà nói".

Ông A-nan và đại-chúng chắp tay sạch lòng, yên-lặng thụ-giáo.

3. Đoạn 3: Khai thị hai cái nhân điên đảo

Phật dạy: "A-nan, nên biết diệu-tính là viên-minh, rời các danh-tướng, bản-lai không có thế-giới chúng-sinh. Nhân cái vọng mà có sinh, nhân cái sinh mà có diệt, sinh-diệt gọi là vọng, diệt vọng gọi là chân, ấy gọi là hai hiệu chuyển-y vô-thượng Bồ-đề và Đại-niết-bàn của Như-lai.

A-nan, nay ông muốn tu pháp Chân-tam-ma-đề, đến thẳng Đại-niết-bàn của Như-lai, trước hết, phải biết hai cái nhân điên-đảo của thế-giới và chúng-sinh này; điên-đảo không sinh, đó là Chân-tam-ma-đề của Như-lai.

A-nan, thế nào gọi là điên-đảo về chúng-sinh? Do cái tâm bản-tính là minh và tính-minh ấy viên-mãn cùng khắp, nên nhân tính-minh phát ra hình-như có tính; mà vọng-kiến nhận là có tính sinh ra, từ chỗ rốt-ráo là không, lại thành rốt-ráo là có. Có cái sở-hữu như thế, là do phi-nhân làm nhân và những tướng năng-trụ, sở-trụ rốt-ráo không có cỗi-gốc. Rồi gốc nơi cái vô-trụ đó, mà kiến-lập ra thế-giới và các chúng-sinh.

Vì mê, không nhận được tính viên-minh sẵn có, nên sinh ra hư-vọng, tính hư-vọng không có tự-thể, không phải thật có chỗ nương-đứng. Hầu muốn trở lại chân-tính, thì cái muốn chân đó, đã không phải là tính chân-như chân-thật. Cầu trở lại không đúng chân-lý, thì hiện-thành ra những phi-tướng: không phải sinh gọi rằng sinh, không phải trụ gọi rằng trụ, không phải tâm gọi rằng tâm, không phải pháp gọi rằng pháp.

Xoay-vần phát-sinh và sinh-lực phát-huy, huân-tập thành ra nghiệp-báo; đồng-nghiệp thì cảm với nhau, nhân đó, lại cảm ra các nghiệp diệt nhau, sinh nhau, do đó, mới có điên-đảo về chúng-sinh.

A-nan, thế nào gọi là điên-đảo về thế-giới? Do có cái sở-hữu đó, nên từng phần, từng đoạn giả-dối sinh ra, vì thế, mà không-gian thành-lập; do phi-nhân làm nhân, không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không có năng-trụ, sở-trụ, nên dời-đổi mãi, không an-trụ, vì thế, mà thời-gian thành-lập. Ba đời bốn phương, hòa-hợp can-thiệp cùng nhau, chúng-sinh biến-hóa thành 12 loài. Vậy nên trong thế-giới, nhân động có tiếng, nhân tiếng có sắc, nhân sắc có hương, nhân hương có xúc, nhân xúc có vị, nhân vị biết pháp, sáu vọng-tưởng càn-loạn thành ra nghiệp-tính, do đó, 12 cách đối-hiện xoay-vần mãi mãi. Vậy nên trong thế-gian, những thanh, hương, vị, xúc biến-đổi cùng-tột, đến 12 lần xoay trở lại.

Dựa trên những tướng điên-đảo, xoay-vần đó, nên trong thế-giới có những loài noãn-sinh, thai-sinh, thấp-sinh, hóa-sinh, hữu-sắc, vô-sắc, hữu-tưởng, vô-tưởng, hoặc phi-hữu-sắc, hoặc phi-vô-sắc, hoặc phi-hữu-tưởng, hoặc phi-vô-tưởng.

A-nan, nhân trong thế-giới có hư-vọng luân-hồi, điên-đảo về động, nên hòa-hợp với khí, thành ra 84.000 loạn-tưởng bay-lặn, vì vậy, nên có mầm-trứng trôi-lăn trong cõi-nước; cá, chim, rùa, rắn, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có tạp-nhiễm luân-hồi, điên-đảo về dục, nên hòa-hợp với tư, thành ra 84.000 loạn-tưởng ngang dọc; vì vậy, nên có bọc-thai trôi-lăn trong cõi-nước; người, súc, rồng, tiên, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có chấp-trước luân hồi, điên-đảo về thú, nên hòa-hợp với noãn, thành ra 84.000 loạn-tưởng nghiêng-ngửa vì vậy, nên có tế-thi thấp-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; nhung-nhúc, quậy-động, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có biến-dịch luân-hồi, điên-đảo về giả, nên hòa-hợp với xúc, thành ra 84.000 loạn-tưởng mới cũ; vì vậy, nên có yết-nam hóa-sinh trôi-lăn trong cõi-nước; chuyển-thoái, phi-hành, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có lưu-ngại luân-hồi, điên-đảo về chướng, nên hòa-hợp với trước, thành ra 84.000 loạn-tưởng tinh-diệu; vì vậy, nên có yết-nam sắc-tướng trôi-lăn trong cõi-nước; hưu-cửu, tinh-minh, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có tiêu-tán luân-hồi, điên-đảo về hoặc, nên hòa-hợp với ám, thành ra 84.000 loạn-tưởng thầm-ẩn, vì vậy, nên có yết-nam vô-sắc trôi-lăn trong cõi nước; không tán tiêu trầm, các loại đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có võng-tượng luân-hồi, điên-đảo về ảnh, nên hòa-hợp với ức, thành ra 84.000 loạn-tưởng tiềm-kết; vì vậy, nên có yết-nam hữu-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; thần-quỷ tinh-linh, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có ngu-độn luân-hồi, điên-đảo về si, nên hòa-hợp với ngoan, thành ra 84.000 loạn-tưởng khô-cảo; vì vậy, nên có yết-nam vô-tưởng trôi-lăn trong cõi-nước; tinh-thần hóa làm đất, cây, vàng, đá, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có tương-đãi luân-hồi, điên-đảo về ngụy, nên hòa-hợp với nhiễm, thành ra 84.000 loạn-tưởng nhân-y; vì vậy, nên có yết-nam, không phải có sắc mà có sắc, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống thủy-mẫu, dùng tôm làm mắt, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có tương-đẫn luân-hồi, điên-đảo về tính, nên hòa-hợp với chú, thành ra 84.000 loạn-tưởng hô-triệu; vì vậy, nên có yết-nam, không phải vô-sắc mà vô-sắc, trôi-lăn trong cõi-nước, chú-trớ, yếm-sinh, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có hợp-vọng luân-hồi, điên-đảo về võng, nên hòa-hợp với dị, thành ra 84.000 loạn-tưởng hồi-hỗ; vì vậy, nên có yết-nam, không phải có tưởng mà có tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; những giống tò-vò, mượn chất khác thành cái thân của mình, các loài đầy rẫy.

Nhân trong thế-giới có oán-hại luân-hồi, điên-đảo về sát, nên hòa-hợp với quái, thành ra 84.000 tư-tưởng ăn thịt cha-mẹ; vì vậy, nên có yết-nam, không phải vô-tưởng mà vô-tưởng, trôi-lăn trong cõi-nước; như con thổ-kiêu, ấp khối đất làm con, và chim phá-kính; ấp quả cây-độc làm con, con lớn lên, thì cha mẹ đều bị chúng ăn thịt, các loài đầy rẫy.

Ấy gọi là mười hai chủng-loại chúng-sinh.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6327897
Số người trực tuyến: