Bồ Tát Địa Tạng và nhân duyên sâu nặng với chúng sinh cõi Ta bà | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Bồ Tát Địa Tạng và nhân duyên sâu nặng với chúng sinh cõi Ta bà

Bồ Tát Địa Tạng là vị Bồ Tát có nhân duyên sâu nặng với chúng sinh trong thế giới Ta bà. Ngài là vị Bồ Tát được Đức Phật giao phó trọng trách làm giáo chủ cõi Ta bà trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn nhập diệt, Bồ Tát Di Lặc chưa thành Phật.

Trong kinh Địa Tạng, phẩm Phân thân tập hội thứ 2, Đức Phật Thích Ca trước khi nhập Niết bàn đã có lời phó chúc: “Địa Tạng ghi nhớ! Hôm nay Ta ở cung trời Đao Lợi, trong đại hội có tất cả chư Phật, trời, rồng, bát bộ nhiều đến trăm ngàn muôn ức không thể nói, đem trời, người các chúng sinh chưa ra khỏi tam giới, còn ở trong nhà lửa giao phó cho ông. Ông chớ để các chúng sinh đó rơi vào đường ác cho dù trong một ngày đêm”. Lời huyền ký đó đã xác lập vị trí cũng như niềm tin tưởng vững chắc của Đức Phật đối với Bồ Tát Địa Tạng, bởi Phật biết rằng trong giai đoạn "tiền Phật - hậu Phật" này, khi Phật pháp ngày càng suy vong, chúng sinh cang cường khó độ, thì chỉ có bi tâm, nguyện lực kiên cố như Bồ Tát Địa Tạng mới có thể kham lãnh nổi việc giáo hóa độ sinh.

1. Ý nghĩa danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng

Danh xưng Địa Tạng theo các kinh luận giải thích đã toát lên được bi tâm, nguyện lực kiên cố của Bồ Tát. Bài Tựa kinh Địa Tạng nói: “Địa là dày chắc, Tạng chứa đủ”. Địa Tạng thập luận nói: “An nhẫn bất động như đại địa, vắng lặng sâu kín giống như kho tàng nên gọi là Địa Tạng”. Kinh Phương quảng thập luận nói: “Địa Tạng là kho báu giấu kín trong lòng đất”. Tóm thâu ý nghĩa của danh xưng Địa Tạng, “Địa” là đất, dụ cho bản thể chân tâm khéo làm nơi nương tựa và sinh trưởng vạn pháp. “Tạng” là hầm báu, kho báu. “Địa Tạng” ý nghĩa là trong bản thể chân tâm có chứa vô lượng báu vật Phật pháp, có thể đem bố thí khắp khiến chúng sinh đồng được vô lượng công đức.

2. Các Hóa thân của Bồ Tát Địa Tạng trong cõi Ta bà

Bồ Tát thường tùy nguyện ứng hiện vào thế giới Ta bà bằng nhiều hình tướng sai khác để hóa độ chúng sinh. Tuy nhiên đa phần chúng ta biết đến Ngài qua hình ảnh một vị Tỳ kheo thân tướng trang nghiêm, tay phải cầm tích trượng, tay trái cầm hạt minh châu, đầu đội mũ tỳ lư quán đảnh, đứng hoặc ngồi trên con Đế thính.

Sở dĩ Ngài hiện thân tướng Tỳ kheo, do vì bản nguyện của Ngài là cứu độ chúng sinh ra khỏi cảnh giới sinh tử, nên hình ảnh Ngài là một vị xuất gia giải thoát. Tay phải cầm tích trượng, trên đầu tích trượng có mười hai khoen để nói lên ý nghĩa Ngài luôn dùng pháp Thập nhị nhân duyên để giáo hóa chúng sinh. Tay trái Bồ Tát cầm hạt minh châu biểu thị trí tuệ. Bồ Tát với trí tuệ rộng lớn thường soi sáng tất cả chốn u minh khiến cho chúng sinh hiện đang bị giam cầm trong ngục tối trông thấy ánh sáng đều được thoát ngục hình. Bồ Tát cỡi con Đế thính là loài linh thú, khi mọp xuống đất trong giây lát thì biết rõ tất cả sự vật trong trời đất, biểu trưng cho Ngài là vị đã nhiếp tâm thanh tịnh, an lập các pháp thức thành tựu cảnh giới thiền định.

Kinh Địa Tạng có nói đến tiền thân hành Bồ Tát đạo của Ngài. Có kiếp Bồ Tát là con một vị trưởng giả, vì muốn được thân tướng trang nghiêm tốt đẹp như chư Phật mà phát thệ nguyện độ tất cả chúng sinh bị khổ nạn. Hoặc có kiếp Ngài làm một cô gái dòng Bà la môn, có người mẹ bất tín Tam bảo, không tin nhân quả, Ngài đã thành tâm cầu thỉnh Phật cứu độ thân mẫu. Có kiếp Ngài làm vua một nước nhỏ kết bạn với vua nước lớn, hai vua thấy nhân dân làm ác mà phát thệ nguyện độ tận nỗi khổ chúng sinh. Hoặc có kiếp Ngài làm cô gái Quang Mục, vì muốn cứu độ mẹ thoát địa ngục mà phát tâm cúng dường vị La hán và phát đại thệ nguyện độ sinh để dẫn dắt mẹ từ cảnh địa ngục vào đạo Bồ đề.

Qua tiền thân trong khi hành Bồ Tát đạo, phát thệ nguyện cứu khổ chúng sinh, chúng ta thấy được hạnh nguyện vĩ đại của Ngài. Hạnh nguyện nổi bật đó không ngoài hai điểm: tinh thần hiếu đạo và tâm nguyện độ tận pháp giới chúng sinh.

3. Hạnh nguyện độ sinh vĩ đại của Bồ Tát Địa Tạng

Nếu Ngài Mục Kiền Liên được tôn xưng là đại hiếu, khi thấy mẹ đọa vào trong cảnh khổ địa ngục liền thỉnh Phật nói pháp Vu lan bồn, sắm sửa trai diên cung thỉnh chư Đại đức Tăng trong mười phương sau ba tháng an cư kiết hạ để nhờ thần lực chú nguyện của chúng Tăng mà mẹ được giải thoát thì việc thể hiện hiếu đạo của Bồ Tát Địa Tạng cao hơn, cứu độ cha mẹ bằng cách phát thệ nguyện độ tận tất cả những nỗi khổ chúng sinh.

Phải chăng, qua sự báo hiếu bằng việc phát nguyện độ tận chúng sinh của Bồ Tát, Đức Phật muốn nói lên tinh thần báo hiếu của chư Phật, Bồ Tát khác với hàng Nhị thừa và mong mỏi chúng sinh trong đời sau nên thực hành tinh thần báo hiếu tối thượng này. Bồ Tát Địa Tạng sơ phát đại nguyện độ sinh cũng không ngoài tinh thần hiếu đạo. Qua bốn lần phát đại nguyện thì trong đó có đến hai lần Bồ Tát vì hiếu đạo cứu độ mẹ mà phát thệ nguyện.

Các vị Đại Bồ Tát trong khi tu tập đều phát lập thệ nguyện nhưng so với thệ nguyện của Bồ Tát Địa Tạng thì sâu dày hơn. Điều này đã được xác quyết trong kinh Địa Tạng, phẩm Thần đất Kiên Lao thứ mười một. Thần đất Kiên Lao đã đối trước Phật nói rõ điều này: “Bạch Thế Tôn, từ trước đến nay con đã từng đỉnh lễ chiêm ngưỡng vô lượng vị Đại Bồ Tát, đều là những bậc trí tuệ thần thông lớn không thể nghĩ bàn, độ khắp tất cả loài chúng sinh. Tuy nhiên ngài Địa Tạng Bồ Tát đây so với các vị Bồ Tát khác chỗ thệ nguyện rộng sâu hơn”.

Bồ Tát Địa Tạng trong khi hành Bồ Tát đạo đã phát thệ nguyện vĩ đại. Nội dung bốn lần phát thệ nguyện của Bồ Tát trong khi hành Bồ Tát đạo đều tóm thâu trong: “Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Do Bồ Tát với trí tuệ rộng lớn như hư không và lòng từ bi bao la ngập tràn như đại dương vô tận, Ngài luôn thấy tất cả chúng sinh là cha mẹ trong hiện tại và chư Phật trong vị lai. Vì thế, trong khi hành Bồ Tát đạo, Ngài đã phát thệ nguyện độ hết nỗi khổ chúng sinh, khi nào trên cuộc đời này không còn một chúng sinh đau khổ, đều thành tựu Phật đạo thì Ngài mới yên tâm thọ dụng cảnh giới Niết bàn.

Có thể nói, Bồ Tát Địa Tạng đã đến với thế giới Ta bà ác trược này chỉ vì một tâm nguyện duy nhất là cứu vớt tất cả chúng sinh đang ngụp lặn trong đại dương sinh tử đưa lên bờ Niết bàn. Cho dù chúng sinh có cang cường, nan điều nan phục đến mấy, Bồ Tát vẫn kiên trì không thoái chuyển tâm nguyện, không bao giờ xa lìa ý niệm cứu độ chúng sinh. Tâm nguyện độ sinh của Ngài vững chắc như núi cao, công hạnh lợi ích nhân thiên rộng sâu như biển cả. Chúng ta không thể tán thán hết được công hạnh của Bồ Tát, thật đúng như hai câu kệ trong bài tán Phật đã nói: “Xưng dương nhược tán thán, ức kiếp mạc năng tận”.


Bồ Tát Địa Tạng với viên minh châu nêu biểu trí tuệ

Mỗi khi niệm danh hiệu Bồ Tát, hàng Phật tử chúng ta lại nhớ đến hình ảnh và hạnh nguyện độ sinh vĩ đại của Ngài. Chúng ta hãy cùng nhau học và đồng phát lập thệ nguyện: “Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ đề. Địa ngục vị không thệ bất thành Phật”. Có phát lập được thệ nguyện như thế, chúng ta mới có thể biến Ta bà thành Tịnh độ, khiến tất cả phàm phu đều thành tựu quả vị Vô thượng Bồ đề và để báo đáp thâm ân của Ngài trong muôn một.

(Nguồn: Giác ngộ Online)

Hãy cùng chúng tôi trì tụng Kinh Địa Tạng Bồ Tát bản nguyện để cầu nguyện hồi hướng cho dịch bệnh sớm qua mau, người dân khắp nơi đều bình an, đón nhận ân phúc gia trì không thể nghĩ bàn của Đức Bồ Tát Địa Tạng!

Địa chỉ phát trực tiếp

Facebook: https://www.facebook.com/daibaothap.mandala.taythien

Youtube: https://youtube.com/drukpavietnamtv

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6335199
Số người trực tuyến: