Hòa thượng Thích Viên Thành - Chân dung bậc chân tu hiến trọn cuộc đời cho Đạo pháp
Bằng tấm lòng của kẻ yêu thơ, trọng Đạo, Nhà giáo ưu tú Vũ Dương Quỳ đã viết lên cảm xúc chân thật khi có phúc duyên được hạnh ngộ Hòa thượng Thích Viên Thành và đọc những vần thơ Ngài chấp tác trong “Thiền môn thi ký”. Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên xin gửi tới Quý vị lời tâm sự của Nhà giáo Vũ Dương Quỳ như một lời tri ân sâu sắc hướng lên cố Thượng tọa, một bậc Thầy giác ngộ với hạnh nguyện vô ngã, vị tha vì sự hưng thịnh của Đạo pháp và Dân tộc.
Do duyên trời và uy đức của Đức Phật, vào một ngày thượng tuần tháng Năm, năm Mậu Dần (1998), tôi được đọc tập thơ “Thiền Môn Thi Ký” và được tiếp kiến Thượng tọa Thích Viên Thành tại Thiền viện Mỗ Lao, Hà Tây. Yêu thích và giảng dạy văn chương cho các em học sinh gần bốn chục năm nay, lại là người Hà Tây, nên sau khi đọc xong những bài thơ viết về đạo Thiền của một Thiền sư đồng hương cũng đang làm công tác giáo dục (Thượng tọa Thích Viên Thành là “Phó ban giáo dục Tăng ni Trung ương), tôi vô cùng thích thú. Ngỡ như được nghe tiếng nói tâm tình chân thực của một tri kỷ, tri âm từng trải qua nhiều năm gian khổ, mang bao nhiêu nỗi buồn, vui trên chặng đường đi tìm một lẽ sống cho cuộc đời.
Đúng như tên tập thơ “Thiền Môn Thi Ký”, các bài thơ được viết từ năm 1962 khi ấy tác giả mới 12 tuổi, tạm biệt quê hương để đi “cầu chính Pháp”, đến năm 1978, lúc đã trưởng thành, tập thơ gồm hơn 60 bài viết theo thể Đường thi thất ngôn tứ tuyệt và thất ngôn bát cú, đã ghi lại cả một quá trình rèn luyện, phấn đấu, học hỏi, tìm tòi suốt gần 20 năm trời với những tâm tư, tình cảm cụ thể trong những quan hệ cụ thể, khá phong phú của một tuổi trẻ mang khát vọng chân như, hoài bão chính giác thật mạnh mẽ.
“Thơ viết trên đường vào cửa Phật”, tôi muốn gọi bằng một cái tên nôm na mà gần gũi tất cả những bài thơ ấy theo cảm nhận của người đọc tập “Nhật ký bằng thơ”, nương theo những chặng đường tâm tưởng từ cõi chúng sinh đầy những ưu bi, lầm lỗi để bước vào từng bậc của Thiền, mà ngộ đạo, mà tỉnh giác, để được thanh thản trong cõi tâm linh. Viết nhật ký bằng thơ vốn xưa nay hiếm. Đọc tập “Thiền môn thi ký”tôi nhận ra khá rõ nét “một bức chân dung tự họa con người tinh thần” của một Thiền sư trẻ tuổi rất thành tâm và kiên định hướng về Đạo Phật. Thêm nữa, tác giả sử dụng thể Đường thi và cho biết cũng đã từng đọc thơ Thiền thời Lý, Trần nên vóc dáng, thần thái nhiều bài trong tập thơ đã hài hoà chất Thiền cổ điển với chất trữ tình nghệ sĩ hiện đại. Xin thử phác ra vài nét chính về nội dung và nghệ thuật của tập thơ.
Hòa Thượng Thích Viên Thành - Ước nguyện thanh cao mạnh mẽ từ thuở thiếu thời
Những bài thơ mở đầu được khơi nguồn cảm hứng sáng tác khi tác giả tạm biệt gia đình quê hương đi tìm lẽ sống. Tuổi còn trẻ quá, mới 12 tuổi, “bụi hồng chưa bợn tấm thanh y” (Bài Tạm biệt quê hương). Vậy mà tiếng thơ đã chững chạc làm sao. Chia tay người chú ruột, Nhà thơ đã gửi lại những lời nói thật cứng cỏi:
Chú ơi! Xin chú hiểu lòng tôi
Giờ phút chia tay đã đến rồi
Vẫn biết gia phong cần giữ đấy
Nhưng vì chân lý phải đành thôi.
(Bài “Từ biệt chú đi tu” Số 1, tháng 1 – 1962)
Mối quan hệ giữa cái nhỏ - “giữ gia phong” – và cái lớn – “vì chân lý” đã được nhận thức rành mạch. Sự lựa chọn cũng thật dứt khoát. Và mục đích sống cũng được xác định rõ ràng.
Chú ơi! Ơn nghĩa cháu không quên
Nguyện chứng chân như sẽ báo đền
Chú ở lại nhà xây tổ nghiệp
Cháu đi cầu Pháp cứu oan khiên
Kẻ vun cội đức cho tươi tốt
Người đắp nền nhân thật vững bền
Chú cứ yên tâm đừng có ngại
Cháu thề cố gắng quyết tu lên
(Bài “Từ biệt chú đi tu” số 2, tháng 1 – 1962)
Một cậu bé mới chớm tuổi học phổ thông cấp hai, chưa hề đặt bàn chân tới một thềm bậc cửa Thiền mà đã biết hướng tới “Chân lý”, đã có khát vọng “cứu oan khiên”, “đắp nền nhân vững bền”...là điều hiếm thấy! Quả thật, lúc đầu đọc những câu thơ trên, tôi hơi sững sờ, e rằng đó chỉ là những câu thơ mang tính sách vở. Nhưng rồi, đọc tiếp 2 bài “Thư gửi mẹ”, được viết sau 2 năm xa quê hương, chính thức sống cảnh muối dưa đạm bạc chốn tu hành, tôi thực sự cảm phục một nhân cách thơ, một nhân cách Thiền, tuy non trẻ song khá đĩnh đạc:
Am mây, viện trúc, say mầu đạo
Áo vải, cơm chay, giữ hạnh thiền
Đừng thấy người bàn sinh ái ngại
Chớ nghe ai nói, hóa lo phiền
Mẹ ơi! Con đã vì chân lý
Giông tố khôn lay, chí vững bền
(Bài “Thư gửi mẹ” số 1, năm 1964)
Hình ảnh “am mây, viện trúc”, “áo vải cơm chay” phác ra một nếp sống đậm chất thiền của bậc chân tu. Và đây, phong cách sống ấy được khắc họa thêm:
Sắt son dạ đã quen mưa nắng
Sành sỏi thân từng dạn gió xương
Huyên náo nhức đầu, ưa tĩnh mịch
Đỉnh chung lợm giọng, mến dưa tương
(Bài “Thư gửi mẹ” số 2, năm 1964)
Từng cặp câu thơ song đối “Sắt son >< Sành sỏi” và “Quen mưa nắng >< dạn gió xương”, cùng tiểu đối trong từng câu thơ “huyên náo >< tĩnh mịch” và “đỉnh chung>< dưa tương” chứng tỏ tác giả nắm niêm luật của Đường thi khá vững vàng. Từ chất thiền ở bài trên, xuống bài dưới đã mộc mạc một âm điệu dân dã đạm chất đời, chan chứa một niềm vui tự nguyện. Đọc lên, nghe phảng phất hồn thơ triết lý nhàn tản Nguyễn Bỉnh Khiêm xưa “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ. Người khôn, người đến chốn lao xao”.
Nhưng nhà tu hành trẻ Thích Viên Thành không phải bậc trí giả muốn ẩn mình trong nhàn tản, mà tự nguyện lánh xa mọi người “huyên náo, đỉnh chung” để hiến mình cho đạo pháp, rèn rũa phẩm chất trước cửa thiền. Vì thế âm điệu thơ tuy có chút giống người xưa, song hồn thơ luôn gắn với cuộc đời thường nhật ngày nay. Đọc truyện “Tây du ký” nhà thơ cất tiếng ca ngợi “Tôn Ngộ Không”:
Một gậy tung hoành khắp cõi thiên
Dọc ngang cho tỏ chúa hầu viên
Quan phong Bật Mã, lòng nào thoả
Danh tới Tề Thiên, ý chửa yên
Biển động, trời nghiêng lòng mới hả
Lò nung, núi ép, tính chưa hiền ...
(Bài “Đọc Tây du ký, Tôn ngộ Không”. Viết cuối năm 1964)
Vịnh Tôn Ngộ Không, hay cũng là một cách tự dặn mình hãy kiên định ước nguyện thanh cao, đẹp đẽ mà mình đã lựa chọn?
Có thể nói, những bài thơ viết từ đầu năm 1962 đến cuối năm 1964 (8 bài) là tiếng lòng của một tuổi trẻ quyết tâm đi tìm lý tưởng “Cầu Chính pháp” hướng tới “Chân như”, vì chân lý vì “nền nhân” ... Người làm thơ còn rất trẻ nhưng ngòi bút khá vững vàng và hồn thơ, cái tôi tác giả khá rõ nét, phảng phất một chất thiền trong phong cách nhân sinh, chân thanh, tự nguyện. Những vần thơ thanh cao trong trẻo ấy đã nhịp bước theo tăng nhân, mở cánh cửa “Thiền môn” vào cõi thiêng đất Phật, để học tập, luyện rèn không phút nào ngơi nghỉ.
Hòa Thượng Thích Viên Thành - Bản lĩnh của bậc chân tu vượt qua mọi khó khăn hướng về giác ngộ
Sau hai năm xuất gia cầu đạo, người Tăng nhân - Thi sĩ bước tiếp trên con đường đạt đến giác ngộ chân như. Tuy chưa thâm nhập hết mọi lẽ huyền vi của Phật pháp, song hồn thơ phảng phất một chất thiền, một phong cách thanh cao đầy nhân sinh và từ ái, một khí phách hiên ngang, vững vàng và tự tin dù trước mặt là muôn vàn khó khăn, thử thách.
Từ cuối năm 1964 đến cuối năm 1968, Nhà thơ - Người tu hành bước vào những năm tháng học tập, rèn luyện đầy gian khổ. Trước hết là những gian khổ trong dùi mài kinh sách, giáo lý. Nhiều bài thơ trực tiếp ghi lại những cảm nhận khá thông minh của người đồng tử ham học và mạnh dạn tìm tòi, khám phá. Như bài “Học”, bài “Đọc kinh Pháp Bảo Đàn”, bài “Nguyện”, bài “Tỉnh ngủ buổi trưa” ....
Gió hút vào song rét tháng mười
Ngồi bên cửa sổ học không ngơi
Đầm đìa trước mặt, quên mưa hắt
Nhí nhéo ngoài hiên mặc khách chơi..
(Bài “Học”)
Những câu thơ tả thực đậm chất đời thường, đọc lên, thấy hiện rõ một dáng hình, một tư thế, một quyết tâm thật đẹp. Người đồng tử ấy đã đem tất cả sức lực tâm trí gửi vào đèn sách, mặc mưa gió, bão bùng, mặc những trò vui trần thế. Nhiều lúc, người ấy đã nguyện trước Phật đài:
Thắp trước Phật đài một nén nhang
Rì rầm nguyện dưới bóng từ lương
Hữu tình tăm tối thề dong đuốc
Hàm thức mê man quyết dẫn đường!
Biến cõi trầm luân thành Tịnh độ
Bắc cầu hành nguyện tới Tây Phương
Dù gian khó vẫn không lùi bước
Khoác áo Như Lai Lai để tự cường.
---
Đã vì chân lý tới am mây
Còn có lo gì đắng với cay
Sắt thép bền tâm thề giữ đạo
Đá vàng vững chí nguyện ăn chay
Gió to sóng cả từng quen thuộc
Nhẫn nhục độ sinh theo gót Phật
Làm cho biển phúc được chan đầy!
(Bài “Nguyện”)
Khi đã xác định rõ động cơ học tập đúng đắn thì người học sẽ có đủ sức mạnh tinh thần và thể lực để vượt khó, để vươn lên. Với động cơ học tập thật rõ ràng, đúng đắn. Học để nêu cao đuốc tuệ, để soi sáng, dẫn đường cho chúng sinh vượt qua vòng sân si u tối, đi tới “biển phúc chan đầy”. Qua học tập kinh sách mà cái tôi của một người tu hành dần hòa quyện với cái ta của hàm thức, đại chúng. Xác định rõ việc học của mình là “dong đuốc ... dẫn đường cho hàm thức mê man ... đi tới” cũng là thức tỉnh cho chính bản thân mình. Trong "Kinh Pháp Cú” Đức Phật từng dạy “chỉ có ta lầm điều tội lỗi, chỉ có ta làm cho ta ô nhiễm, chỉ có ta tránh điều tội lỗi, chỉ có ta gột rửa sạch cho ta”. Phật pháp mênh mông sâu thẳm biết nhường nào! Vì thế, càng học, người tu hành cũng như người trần thế càng cảm thấy mình còn u tối, cần cố gằng gấp bội phần. Bừng tỉnh sau giấc ngủ buổi trưa, nhà thơ của chúng ta viết:
Ngọ qua mà dạ vẫn chân không
(Bài “Tỉnh ngủ buổi trưa”, năm 1965)
Và đọc kinh “Pháp Bảo Đàn” mà cảm thấy mình còn nhiều bỡ ngỡ!
Căng mắt nhìn theo tay trỏ nguyệt
Chao ơi! Pháp giới thật bao la.
(Bài “Đọc kinh Pháp Bảo Đàn”)
Kèm theo những vần thơ tỉnh thức về những khó khăn, thử thách trong quá trình học tập, tác giả đã ghi lại những lời Phật dạy mà đọc lên ai cũng thấm thía. Đức Phật dạy: “Người tu hành như tuyên chiến cùng ma oán. Hai bên giáp trận chỉ có một cách là: Chiến thắng thì đuổi được kẻ thù, thất bại thì sẽ bị kẻ thù giết chết” ... “Kẻ biết tự trọng không bao giờ che dấu những lỗi lầm của mình. Những cái nhơ nhuốc trong đời người đều bắt nguồn từ cái hoen ố nhỏ nhen”. Tuy vậy, những khó khăn thử thách trong học tập là thuộc cái bản thể ở trong ta.
Người biết tự trọng, có chân tâm, vâng theo lời giáo huấn của đức Phật thì có thể tự mình kiên trì tu tập, rèn luyện, sẽ đạt tới lý tưởng, dần dần tới cõi chân như, đốn ngộ. Còn những thử thách, những cản trở của ngoại giới mới thực sự khắc nghiệt đối với người tu hành. Tăng nhân – thi sĩ, tác giả của “Thiền môn thi ký” đã gặp phải những điều khắc nghiệt ấy.
Tiếp sau những vần thơ thể hiện đức kính kiên trì chăm chỉ học tập kinh sách là những vận thơ cay đắng mà đầy bản lĩnh của một bậc chân tu trước cuộc đời dâu bể.
Từ năm 1965 trở đi, tình hình chính trị, xã hội trên miền Bắc nước ta có nhiều biến động phúc tạp. Giặc Mỹ mở rộng chiến tranh, mang bom đạn ra bắn phá các cơ sở quân sự, kinh tế, chính trị trên toàn lãnh thổ. Cả những vùng dân cư, những nhà thờ Công giáo, những ngôi chùa cảnh Phật..., chúng cũng không tha. Tất cả nhân tài, vật, lực của mọi miền thành thị, thôn quê đều phải tập trung vào nhiệm vụ chống lại bọn ác ma xâm lược. Thượng tọa Thích Viên Thành kể rằng: Vào thời gian này, việc học tập, rèn luyện để hoằng hóa giáo pháp của ông gặp khó khăn, thử thách khắc nghiệt.
Ba bài thơ “Cảnh chiều”, “Cảm xúc chiều đông” và “Từ giã chùa Cao Lá” ra đời giữa năm 1965 ghi lại khá chân thực cảnh ngộ và nỗi lòng của con người trước những khó khăn, thử thách ấy:
Chiều đông cuồn cuộn nổi phong hàn
Tôi đứng sườn non lệ chưa chan
Đau xót nhìn từng cây cỏ héo
Ngậm ngùi trông mỗi cánh hoa tàn...
(Bài “Cảm xúc chiều đông”)
Nhà thơ - Vị Tăng Nhân mười bốn tuổi ấy đứng lặng trên núi cao, ròng ròng hai hàng lệ. Nhìn “từng cây cỏ héo”, trong “mỗi cánh hoa tàn”, mà đau xót, ngậm ngùi, thương cỏ cây hoa lá đang chết dần, tàn tạ dần trong những cơn “phong hàn” ác nghiệt của tạo hoá. Và ngậm ngùi, đau xót hơn nữa là thương cho cảnh ngộ, thân phận của chính mình cũng đang bơ vơ, đang bị dập vùi... trong cơn gió lạnh cuộc đời. Thiên nhiên và con người hòa hợp. Ngoại giới và nội tâm hòa hợp.
Bao trùm tất cả những dòng thơ ấy là một tình thương, một tấm lòng bao dung rộng lớn. Thương mình, thương cỏ cây và ... thương đời, thương chúng sinh, hàm thức. Do đó, tuy câu thơ kế tiếp có đôi chút đắng cay, nhưng tình người vẫn đôn hậu, ấm áp:
Trách đời sinh tử mau ly hợp
Thương cảnh luân hồi chóng tự tan
Hàm thức còn say trong biển nghiệp
Bao giờ chở hết tới nê hoàn ...?
(Bài “Cảm xúc chiều đông”)
Cảnh “luân hồi”, thân “hàm thức”, và “biển nghiệp” ... được nhắc tới như muốn khái quát cái quy luật “khổ hải” của kiếp nhân sinh mà Đức Phật từng chỉ dạy. Nhà thơ như muốn bỏ qua mọi suy nghĩ nặng nề, truy tìm nguyên cứ mình bị đoạ đày, “trục xuất”, để bày tỏ một cách nhìn, cách nghĩ bình tĩnh, theo sự vần xoay trong cái vô thường của tạo hoá. Vì thế câu thơ kết “Hàm thức còn say trong biển nghiệp, bao giờ chở hết tới nê hoàn” không bi thương, trái lại vẫn toát ra một mong muốn tích cực, mong sao cho chúng sinh và bản thân mau chóng vượt qua “biển nghiệp” (Biển đời oan nghiệt) để đến bến “nê hoàn” (Cõi Niết bàn, Cực Lạc giải thoát). Và người tu hành trẻ tuổi ấy đã ra đi, chấp nhận thử thách, quyết tâm tìm về “Bảo sở”, bước tiếp trên con đường mình đã lựa chọn:
Từ giã chùa Cao lúc sớm mai
Gánh kinh oằn oại chuyển trên vai
Có vầng tuệ nhật soi từng bước
Bảo sở đường sang chắc chẳng dài
(Từ giã chùa Cao Lá)
Viết được những câu thơ mang âm hưởng lạc quan kiên định như trên, chắc vị Thượng tọa tương lai đã tâm niệm được sâu sắc lời Phật dạy rằng: “Này các Phật tử, các con là Phật sẽ thành. Ta là Phật đã thành. Khởi được lòng tinh như vậy, đã là đầy đủ được giới phẩm”. Và hẳn Người hằng tự nhắc mình ghi nhớ, noi theo câu ca của những người dân bình thường Việt Nam thành tâm đi theo Phật đạo:
Ở đời muôn sự của chung
Phát tâm Bồ Tát bao dung muôn loài...
Trong truyện cổ Phật giáo có câu chuyện một vị Tôn giả trên đường hành đạo, hướng về “Bảo sở” đã phải trải qua muôn vàn khó khăn gian khổ. Có lúc Người tưởng ngã gục, đành bỏ dở sự nghiệp giữa đường. Bỗng thấy hiện lên trước mặt một toà “Hoá thành” đồ sộ, nguy nga như có ý mời rước kẻ lữ hành tạm nghỉ để ngày mai tiếp tục cuộc hành hương. Tôn giả sung sướng dừng chân nghỉ rồi ngủ thiếp một giấc dài. Lúc tỉnh dậy, tòa lâu đài đã biến mất. Nhưng xung quanh cây cỏ tốt tươi, khí trời mát mẻ vừng dương hồng hào, hoa nở ngào ngạt hương thơm, chim muông nô đùa, ca hót, chào đón… Bao nhiêu mệt nhọc tiêu tan hết. Trong lòng cảm thấy phơi phới, sức lực dồi dào như ngày đầu cất bước, Tôn giả đứng dậy, tiếp tục lên đường. Thì ra có một Thượng sư theo gót Người suốt chặng đường thử thách.
Để động viên, khích lệ đệ tử, Thượng Sư đã hoá hiện ra thành giả. Sau khi nghỉ ngơi xong vị tôn giả lại tiếp tục cuộc hành hướng… và cuộc hoàn hương của vị tôn giả ấy đã trọn vẹn… Đối với người tu hành hậu sinh Thích Viên Thành, sau ngày giã biệt chùa Cao Lá, dấn thân trên con đường gió bụi mặc dù mắt vẫn chăm chắm hướng về Bảo Sở, lòng vẫn một mực trung trinh, nhưng chân tay rã rời, trí lực giảm suy. May sao, Phật tổ đã độ trì, dẫn đường tới chùa Văn Quán, cho ngơi nghỉ ít ngày rồi cho đi hướng tới Hương Sơn ổn định nơi chốn học hành, tu tập. Nghĩ lại chặng đường thử thách ấy tăng nhân thi sĩ đã nhớ tới chuyện Phật để tự khích lệ mình. Tới làng Văn Quán, Ngài có thơ về chùa Văn Quán:
Đương mỏi thì trông thấy Pháp Tràng
Mấy tầng lầu các vẻ phong quang.
Chắc là Phật hoá ra cho nghỉ
Để khách hoàn hương đỡ vội vàng
(Bài “Đến chùa Pháp Tràng Phật Ấn”)
Tới Hương Sơn, vị Tăng sinh ấy có thơ về Chùa Hương:
Chao ôi đã được đến Hương Sơn
Trút hết bao nhiêu nỗi oán hờn
Mưa pháp, gió Từ nhuần thấm mát
Cõi lòng chan chứa một nguồn an.
(Bài “Buổi đầu đến Chùa Hương”)
Kể với tôi về hai bài thơ này Thượng Tọa Viên Thành nói:
“Chùa Văn Quán là tòa thành tráng lệ, mà Thượng sư dẫn tôi vào cho tạm nghỉ để chỉnh đốn lại hành trang, tâm tư, nghị lực. Còn Hương Sơn đích thực là Bảo sở, là kho báu đất Phật giúp tôi trưởng thành”.
Vậy đấy, trong bốn năm từ tuổi 12 đến tuổi 16, nhà thơ - người tu hành vừa rèn luyện tu dưỡng, học tập, vừa sáng tác thơ đều đặn. Mỗi bài là một bước đường phấn đấu kiên trì, bền bỉ, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để vươn tới, từng bước hướng về Bảo sở, Và bước đầu, tuy chưa đạt tới sự đốn ngộ chân như, chính giác nhưng đã thắng lợi. Thắng lợi về sự ổn định nơi tu hành, và cao hơn là sự thắng lợi trong bản thể chân tâm. Sau bài “Cây thông”, tác giả ghi lại mấy lời Phật dạy như để sơ kết một chặng đường. Đức phật dạy rằng: “Những dũng tướng có thể chiến thắng trăm trận, sức địch muôn người, nhưng không dễ gì chiến thắng nổi mình. Chỉ có chiến thắng được mình mới là chiến công oanh liệt nhất”. Một cốt cách Tăng nhân – thi sĩ đang dần bước tới chân như, mở rộng tâm hồn chia sẻ mọi nỗi niềm với chúng sinh, hướng tới thánh đạo, chan hòa cùng thiên nhiên vũ trụ.
Hòa thượng Thích Viên Thành - Một cốt cách của Bậc giác ngộ với lòng từ bi vô lượng hướng về chúng sinh
Tiếp nối ý chí quyết tâm ở những năm đầu mới cất bước, vị Tăng sĩ trẻ tuổi vẫn không ngơi nghỉ việc học tập. Từng ngày, từng tháng, từng năm trưởng thành trong nhận thức, giác ngộ đã được ghi lại thành những lời thơ hàm súc. Trước hết là tự thẩm định lại bản thân mình:
Tam học (1) tuy tu tâm chửa tịnh
Ngũ trần (2) dẫu bớt dạ còn đam
Đàn – Ba – La - mật (3) từ nay nguyện
Hạnh Phổ Hiền Vương quyết chí làm.
(Bài “Tự trách”)
Đến nay phải thụ thân hàm thức
Bởi trước lầm mê tính Phật đà
Cho đến bây giờ tôi mới hiểu
Muôn hình chẳng lọt thức tâm ta.
(Bài “Học duy thức”)
Và sau đó tự chiêm nghiệm để khẳng định bản chất, bản lĩnh của mình:
Hôm nay nghe được Cha hiền dạy
Mới biết trong mình ngọc vẫn đeo.
(Bài” Lần đầu đọc kinh Pháp Hoa”)
Hình ảnh “trong mình ngọc vẫn đeo”, thật đẹp, vừa nôm na, giản dị, dễ hiểu, vừa hàm súc, đa nghĩa, gợi những liên tưởng, suy ngẫm sâu rộng. Phải chăng vị tăng nhân – thi sĩ ấy đã nhìn thấy Phật mãi mãi ở trong lòng mình? Tâm tức Phật. Phật ở trong ta, chân lý Phật pháp thâm hậu, uyên bác đã được nghệ thuật hóa bằng một hình ảnh thơ tươi tắn thật là tài hoa!
Từ sự khẳng định ngọc vẫn sáng trong mình, Phật mãi ở trong ta, nhà thơ tự hào và mạnh dạn bộc lộ những nhận thức, những giác ngộ khá vững vàng lẽ chân như, Phật pháp. Bài “Họa thơ Thức Như”, bài “Nhắn bạn đồng tu nhân ngày thụ giới”, bài “Thăm miếu thần linh”… có những câu thơ như tuyên ngôn về cách sống, rực sáng ngọn đuốc trí tuệ. Đặc sắc nhất là bài “Họa thơ Thức Như:
Sinh, tử ba đời do thức hiện
Thánh, phàm chín cõi bởi tâm ta
Khuyên ai đã biết tin Tam bảo
Trẻ sớm đi tu, chớ để già
Nhắn nhủ cùng ai, trẻ chí già
Tu hành cho thoát kiếp làm ma
Người không tham dục sang hơn cả
Đời chẳng sân si sướng lắm mà
Phiền não chỉ còn vì sự nghiệp chướng
Thanh cao nhờ ở cái “không ta”
Tu là cõi phúc, nên tu lấy
Nhắn nhủ cùng ai trẻ chí già.
Rõ ràng, những câu thơ như thế vừa sâu sắc một chất Thiền, vừa mộc mạc, nhẹ nhõm chất đời, có ý nghĩa răn bảo, giáo dục thiết thực đối với mọi người.
Mở rộng tâm hồn chia sẻ mọi nỗi niềm với chúng sinh
Thiên chức vẻ vang của người tu hành mà đức Phật từng dạy đệ tử là thụ giáo và truyền giáo. Do đó, ngay trong những bài thơ thể hiện niềm vui của người đang bước dần tới chân như, ngộ đạo, tác giả đã “Nhắn nhủ cùng ai trẻ chí già” hướng về “Thiền môn” học theo Phật pháp đề hoà đồng cùng mình, chia sẻ mọi buồn vui, gột rửa mọi điều xấu xa, độc ác, dối trá. Có tới mười bài thơ được viết đều đặn từ 1968 đến 1978 thể hiện nội dung, cảm hứng mang tính chất nhân văn này, như “Tiễn bạn”, “ Tặng ông bạn đông y”, “Gửi bạn đồng niên”, “Họa thơ Thức Như”, “Nhắc bạn đồng tu..”, “Khuyên người đa tình” (2 bài) “Khuyên bạn đồng tu”..v.v...
Khi thấy người tốt thì Hòa thượng ngợi ca, động viên để nêu gương tốt, cũng để cùng nhau hoằng dương đại nghĩa, cứu đời, gặp người còn vướng víu, đắm chìm trong “biển ái” thì Ngài chân thành khuyên răn, giảng giảm để người mau mau tỉnh lại:
Biển ái mênh mông nước đục lờ
Thương ai càng tắm lại càng nhơ
Nổi chìm mơ mộng từ bao kiếp
Sống thác vòng quanh mãi tới giờ
Lửa dục nấu nung thân ảo não
Sóng phiền trôi dạt cõi bơ vơ.
(Bài “Khuyên người đa tình”)
Sau khi vạch ra cái hậu quả đáng buồn của kẻ “đa tình”, vị Tăng nhân gửi một lời cũng là tất cả tấm lòng Từ, Bi, Hỷ, Xả của Phật đạo:
Khuyên ai hãy sớm hồi tâm lại
Từ phụ bên kia vẫn cố chờ
(Bài “Khuyên người đa tình)
Lời thơ và tình người thật nhẹ nhàng, nhân hậu. Đấy là thái độ yêu thương đối với những phàm phu còn nặng căn rễ trong biển ái nhân gian.
Hướng tới thánh đạo, vươn lên trong cõi thiêng huyền để tiếp tục sửa mình trên con đường giác ngộ
Đọc các bài thơ viết theo chủ đề này, tôi có cảm giác có lúc thơ và người như thoát khỏi thân xác để trò chuyện với Táo quân (bài “Nhắn cụ Táo quân lên trời”, với Thổ thần (bài “Thăm miếu thần linh”), bái kiến các Bồ tát (bài “Tán thán Đức Quan Âm”, “Tán thán Bồ tát Địa Tạng”), nghiêng mình trước những anh hùng vì nghĩa quên thân (bài “Vịnh tượng Tướng quân Đinh Công Tráng”)…..
Với Táo quân, người tu hành tâm sự:
Dẫu thế nhưng tôi có nguyện riêng
Không cầu phúc báo cõi nhân thiên
Chỉ mong mau chóng tu thành Phật
Độ hết quần sinh thoát não phiền.
Với Thổ thần, Ngài chân thành cầu nguyện sự giúp đỡ:
Tôi, Cụ ngày nay đã có duyên
Duyên vì đạo pháp khó lòng quên
Tôi cầu Tam bảo gia trì Cụ
Cụ giúp tôi tăng sức thiền
Trước chư vị Bồ tát, Ngài cầu nguyện để noi theo:
Đi cùng Pháp giới cho vô úy
Dạo khắp Sa bà độ hữu duyên
(Bài “Tán thán Đức Quan Âm”)
Cầu nguyện, tôn xưng các vị Bồ tát, người chân tu đồng thời cũng tự dặn mình noi theo, rèn luyện và hành động như các tấm gương lung linh, huyền diệu đó.
Đạt được điều đốn ngộ ấy chính là đang rong ruổi trên con đường “Đi cùng Pháp giới cho vô úy). Vô úy là không sợ hãi, không cúi đầu trước điều ác cũng như trước mọi cường quyền bạo ngược ở đời, trước mọi vần xoay của tạo hóa. Học tập, thiền định, rèn luyện, tu thân như thế nào để đạt tới “Vô bố úy” như lời dạy của sư tổ Vạn Hạnh thì quả là điều hạnh phúc. Càng về cuối tập thơ, vị Tăng nhân – Thi sĩ ấy càng tiến gần bước tới bậc thềm của giác ngộ Chân như, nên thơ đã có nhiều âm hưởng của niềm vui, sự hỷ lạc.
Cuối tập thơ, vị Tăng nhân viết bài “Xuống núi lần đầu” như muốn bày tỏ khát vọng hoằng dương đạo pháp để góp phần cứu vớt chúng sinh:
Bao kiếp xa xưa đắm lục trần
Hôm nay phản vọng được quy chân
Nương thuyền Bát Nhã qua dòng ái
Nhờ nước dương chi đoạn khổ luân
Gió mát trăng thanh kết bạn lữ
Hoa đàm đuốc tuệ mượn tu thân
Nhưng toan yên phận miền sơn dã
Lại xót sinh linh gấp bội phần!
Quả thật như vậy, kể từ năm 1973, Thượng tọa bắt đầu tham gia các chương trình đạo tạo chính khóa và sự nghiệp hoằng dương Phật pháp. Dù ở bất kỳ cương vị nào, Thượng tọa cũng đều tận tâm, nêu gương tiêu biểu trong việc tốt đạo đẹp đời. Ngài nhận lĩnh các công việc, các chức vụ chỉ vì lợi ích cho số đông, cho đồng bào và dân tộc. Vào đời bằng hạnh nguyện Bồ tát, Hòa Thượng tham gia tích cực các công tác từ thiện xã hội để đem lại an lạc, hạnh phúc cho nhân sinh.
Hiện thân giữa trốn bụi hồng
Ưng vô sở trụ tâm không não phiền
Tùy duyên hóa độ vô cầu
Làm Thầy mô phạm dẫn đầu chúng sinh
Nhớ Thầy một thủa ra đi
Danh thơm vẫn để thế gian muôn đời
Pháp thân lồng lộng tuyệt vời
Chiếu soi pháp giới rạng ngời Chân như
- 3109
Viết bình luận