Lý do và lợi ích của việc giữ gìn Ngũ Giới trong Đạo Phật
Sau khi quy - y Tam bảo rồi, người Phật tử tại gia phải sống đúng theo quy luật mà Đức Phật đã chế ra để tiến bước trên đường Đạo. Quy luật ấy là Ngũ giới. Người theo Đạo Phật phải sống theo Tam quy, Ngũ giới, không thể chỉ thụ Tam quy mà không trì Ngũ giới. Người đã phát tâm quy y Tam bảo là đã bước chân lên nấc thang giải thoát, nhưng nếu không giữ năm giới là chỉ mới bước một nấc đầu rồi dừng lại, không thể tiến đến giải thoát thật sự được.
Năm giới này không những đưa người mạnh tiến trên đường giải thoát, mà còn đem lại trật tự an vui, hoà bình cho gia đình, quốc gia, xã hội nữa. Ngũ giới chính là giềng mối chắc thật tạo hạnh phúc cho cá nhân và đoàn thể, chính là người thầy ngăn ngừa chúng ta làm điều sai trái. Vì thế, đức Phật Thích Ca đã có lời di giáo trước khi Ngài nhập Niết bàn:
“Sau khi ta diệt độ, người tu hành phải tôn kính giới luật làm thầy; dầu ta còn tại thế để dạy dỗ các ngươi mấy ngàn đời đi nữa, ta cũng không thêm điều nào ngoài giới luật”
1. Định nghĩa:
Ngũ giới là năm điều răn cấm mà Phật đã chế ra, để ngăn những tưởng niệm ác, nói năng chẳng lành, hành động bất chính. Năm điều răn ấy là: Không được giết hại, không được trộm cắp, không được tà dâm, không được nói dối, không được uống rượu.
Năm điều này y cứ trên tâm từ bi, bình đẳng, trên phương diện dứt trừ tội lỗi cá nhân và đem lại trật tự, an vui cho xã hội mà thành lập. Đức Phật không bắt buộc chúng ta phải triệt để tuân theo và cũng không hăm doạ nếu chúng ta không tuân theo thì sẽ bị Ngài trừng phạt. Sự giữ giới là hoàn toàn do chúng ta định đoạt lấy. Đạo Phật khác với các tôn giáo khác chính là ở điểm Đức Phật không phải là một quan toà tối cao giữ quyền thưởng phạt. Một ý nghĩ, một lời nói, một hành động tốt hay xấu chính đã mang theo nó một cái mầm thưởng phạt rồi. Đức Phật chỉ là người thầy dẫn đường rất từ bi và rất sáng suốt: Ngài chỉ cho chúng ta con đường nào là con sáng và con đường nào là con đường nguy hiểm không nên đi.
NĂM GIỚI
I. Giới thứ nhất: Không được giết hại.
Điều răn cấm thứ nhất mà Đức Phật khuyên chúng ta là không được giết hại sinh mạng, từ loài người cho đến các loài vật. Sinh mạng có giá trị quý báu lớn nhất đó là sinh mạng người; giết sinh mạng kia để tô bồi sinh mạng này là một điều ác, không hợp lý đạo.
Phật giáo cấm sát sinh bởi nhiều lý do sau:
a. Tôn trọng sự công bằng:
Chúng ta ai cũng coi sinh mạng mình là quý, là một của báu tuyệt đối. Nếu ai mưu hại là mình chống trả triệt để bảo vệ mạng sống. Mình đã biết quý trọng sinh mạng mình, tại sao lại muốn chà đạp sinh mạng người ? Suy rộng ra, các loài vật cũng biết quý trọng mạng chúng. Như khi một con bò hay một con lợn sắp bị đập đầu, chọc tiết, ta thấy sự phản kháng mãnh liệt, sự đau thưong cùng cực của chúng bằng những tiếng kêu la, những cái giẫy giụa. Theo lẽ công bằng, điều ta không muốn ai làm cho ta đau khổ thì ta cũng đừng làm cho người khác hay loài khác phải khổ đau. Đức Phật dạy “Ai ai cũng sợ gươm đao, ai ai cũng sợ sự chết chóc. Vậy nên lấy lòng mình suy lòng người, chớ giết, chớ bảo giết!”.
b. Tôn trọng Phật tính bình đẳng:
Chúng sinh mỗi loài tuy thân hình khác nhau nhưng vẫn đồng một Phật tính. Phật tính đã bình đẳng thì không thể viện một lý do gì để nói rằng Phật tính ở người có giá trị hơn ở động vật, ở giai cấp này, màu da này, có giá trị hơn ở giai cấp kia, màu da kia. Sát hại một sinh vật là sát hại Phật tính.
c. Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Đức Phật xem mọi loài như con nên Ngài không đồng ý cho đệ tử sát hại sinh vật trong bất cứ trường hợp nào. Bởi vì đang tâm giết hại sinh mạng là lòng độc ác đã cực thịnh, tâm từ bi bị bóp nghẹt. Nhẫn tâm vô cớ giết một con vật thì tính bạo ác không kém giết một mạng người. Nhẫn tâm làm cho kẻ khác hay vật khác phải giãy giụa, rên siết, quằn quại trong máu đào, trong lệ nóng trước khi trút hơi thở cuối cùng là tự giết lòng từ bi của mình, là bóp chết cái mầm thương yêu quý báu trong tâm hồn chúng ta. Như thế khó mà tu hành để thành chính quả được. Đức Khổng Tử có nói: “Văn kỳ thanh, bất nhẫn thực kỳ nhục, kiến kỳ sinh, bất nhẫn kiến kỳ tử’. (Nghe tiếng kêu la của con vật không nỡ ăn thịt nó; thấy nó sống, không đành thấy nó chết). Như vậy, người có tâm từ bi hay lòng nhân ái đều không nỡ sát hại người hay vật.
d. Tránh nhân quả báo ứng oán thù:
Khi ta giết một người hay một con vật thì sự oán hận của họ tràn trề, khó dập tắt được. Họ vì thân cô thế cố, vì yếu sức nên bị ta giết hại. Trong khi ấy, họ ốm khối căm hận, chờ dịp báo thù, hay con cái, thân thích của họ sẽ báo thù lại. Cứ thế, mỗi ngày ta đều gieo căm hờn cho người và vật, tích luỹ lâu ngày khối oan gia ấy to hơn sức ta, chừng ấy ta sẽ bị nó sát hại lại. Càng tạo nghiệp sát, càng lao mình vào vòng đau khổ. Đức Phật dạy: “Thường sinh tâm sát hại, càng tăng trưởng nghiệp khổ, mãi xoay vần trong sinh tử, không có ngày ra khỏi” (Kinh Lăng già).
Lợi ích của sự không giết hại
Vì những lý do trên, đức Phật cấm Phật tử giết hại. Không giết hại, sẽ có những điều lợi sau đây:
a. Về phương diện cá nhân:
Một người không tàn nhẫn sát nhân, hại vật, không độc ác làm đổ máu, không lóc da, xẻ thịt, chặt đầu, cắt cổ…, thì trong lòng không bức rứt hối hận, thân tâm được nhẹ nhàng, thư thái, giấc ngủ được an lành, nét mặt được hiền hoà, trong sáng.
b. Về phương diện xã hội:
Nếu tất cả nhân loại trên thế giới này đều giữ đúng luật thứ nhất này của đạo Phật thì chiến tranh sẽ không có mà các nghiệp sinh tử luân hồi cũng được giải thoát. Cho nên lời Tổ xưa có dạy:
Nhất thiết chúng sinh vô sát nghiệpThập phương hà xứ động đao binh?
Gia gia, hộ hộ đồng tu thiện,
Thiên hạ hà sầu bất thái bình?
Nghĩa là:Hết thảy chúng sinh không nghiệp giết
Mười phương nào có nổi đao binh?
Mỗi nhà, mỗi chốn đều tu thiện,
Thiên hạ lo gì chẳng thái bình?
Hạn chế: Vẫn biết giết hại là tạo nhân khổ, nhưng người tại gia còn ăn mặn, còn làm công kia việc nọ, thì khó tránh khỏi phạm giới sát. ở đây không bắt buộc chúng ta phải triệt để, chỉ cần giữ phần quan trọng là không giết người và các con vật lớn như: trâu, bò, ngựa, chó, lợn, dê. Còn những con vật nhỏ, nếu tránh giết được bao nhiêu thì quí bấy nhiêu. Chúng ta nên đi từ từ thì chắc chắn hơn. Nhất là không nên giết hại sinh vật một cách vô ích, giết để thoả lòng thích giết.
Trong khi giữ giới sát, chúng ta nên đề phòng hai điều sau đây:
a. Không nên để cho ác ý sinh khởi:
Giết một con vật lớn mà vì vô tình hay vì tự vệ, thì cái quả báo của nó còn nhẹ hơn là giết một con sâu cái kiến với ác ý muốn giết cho vui tay.
b. Nên tránh sự huân tập trong hoàn cảnh giết hại:
Những đứa trẻ lên 5, lên 3 ra sân gặp chuồn chuồn, bươm bướm chụp bắt rồi ngắt đầu, rứt cánh... nếu cha mẹ thấy mà không trách mắng ; đến 12, 13 tuổi, chúng sắm lưới giăng câu bắn chim, bắt cá; đến 20, 25 tuổi, chúng chọc tiết lợn, giết chó... vẫn không bị ngăn cấm, thì sau này quen với tính hung bạo, trong cơn giận giữ, chúng có thể giết người không gớm tay. Vậy không những chúng ta không nên để tự do cho con cái quen với sự giết hại sinh vật, mà cũng không nên cho chúng tận mắt nhìn những cảnh chém giết ở các rạp chiếu phim hay ở giữa đời thường.
II. Giới thứ hai: Không được trộm cướp.
Ai cũng biết trộm cướp là lấy những vật thuộc quyền sở hữu của người khác mà không có sự ưng thuận, hay cưỡng ép người ta ưng thuận bằng vũ lực hoặc quyền hành. Những vật quý giá như nhà cửa, ruộng vườn, tiền bạc, ngọc ngà, cho đến vật hèn mọn như lá rau, trái ớt v.v người ta không cho mà mình cố tình lấy đều là trộm cướp.
Nếu vì nghèo nàn túng thiếu, vợ ốm con đau, thiếu gạo, thiếu thuốc, nên phải buộc lòng gian xảo, thì tội còn được trông trước chứ đã giàu có, ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa mà còn lường gạt người lấy của, cướp công để sống một cách vương giả trên mồ hôi nước mắt của kẻ nghèo đói, thì tội ác thật nặng nề.
Vì lý do gì Đức Phật cấm trộm cướp? Đức Phật cấm trộm cướp vì những lý do sau đây:
a. Tôn trọng sự công bằng:
Chúng ta không muốn ai lấy của mình tại sao lại chăm chăm muốn đoạt của người? Quyền sở hữu cá nhân của ta, ta biết tôn trọng, thì tại sao ta lại chà đạp lên quyền sở hữu của người? Làm như thế là trái lẽ công bằng. Một xã hội mà thiếu công bằng thì không thể tồn tại lâu dài được.
b. Tôn trọng sự bình đẳng:
Mỗi người đều có Phật tính như nhau, tại sao ta lại muốn làm khổ người khác để ta được sung sướng? Tại sao ta lại muốn hưởng những đặc ân bất chính trong khi ta cũng chỉ là một con người như bao con người khác?
c. Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Một khi vô ý đánh mất một vật gì hay một số tiền, ta buồn khổ, ăn không ngon, ngủ không yên vậy tại sao lại nỡ tâm lấy của người để cho người phải khóc than đau khổ vì ta? Người ta thường nói: “Tiền tài là huyết mạch”. Như vậy kẻ cướp đoạt của người tức là cướp đoạt xương máu người, sát hại sinh mạng người vậy. Chỉ những người không có lòng thương người, tán tận lương tâm mới làm nhũng việc đen tối như vậy. Còn ta, đã là Phật tử, đang cố gắng nuôi dưỡng lòng từ bi, ta không thể trộm cướp của ai được.
d. Tránh nghiệp báo oán thù:
Trong xã hội có tổ chức, tôn trọng lẽ công bằng, thì tội trộm cưóp bao giờ cũng bị trừng trị. Ăn trộm thì bị đưa ra toà án Tiểu hình, ăn cướp thì ra toà Đại hình. Khi chưa bị bắt, kẻ trộm cướp phải tìm trăm phương ngàn kế để trốn tránh, sống chui rúc trong bóng tối. Khi bị bắt, kẻ trộm cướp phải bị trói buộc, tra khảo, giam cầm. Phận mình đã đành hao thân khổ trí, nhưng gia đình mình, cha mẹ, vợ con cũng buồn rầu, xấu hổ và mất hết cả hy vọng ở tương lai.
Nhưng nếu luật pháp thế gian không trừng trị thì người trộm cướp cũng không thoát khỏi luật nhân quả nghiệp báo. Trộm cướp của người thì sẽ bị người trộm cướp lại, gây bao thù oán khổ đau. Đức Phật dạy:
Tạc bích xuyên tường ý bất hưu
Thiên ban bách kế, khổ vinh cầu
Kim sinh cầu đắc tha nhân vật,
Bất giác chung thiên thụ mã ngưu
Dịch nghĩa:
Khoét vách đào tường chi những đâu,
Ngàn mưu trăm kế luống tham cầu
Của người dầu có đời nay được,
Đời khác luôn luôn kiếp ngựa trâu.
Lợi ích của sự không trộm cướp.
a. Về phương diện cá nhân:
Người không gian tham thì đời sống hiện tại được an ổn, không bị bắt bớ giam cầm, tù tội, đi đâu cũng được mọi người tin cậy, giao phó cho mình nhũng địa vị quan trọng. Người không gian tham thì đời sau được hưởng phúc báo giàu sang, an vui, và con cháu nhiều đời cũng thừa hưởng nhờ dư phúc của ông bà, cha mẹ mà được vinh hiển.
b. Về phương diện đoàn thể:
Nếu một ngày nào trong xã hội không ai có tâm gian tham, trộm cướp thì nhà nhà không cần đóng cửa, của cải chẳng phải giữ gìn, vật đánh rơi không mất, thật không còn gì sung sướng hơn! Người ta khổ bởi không có của, nhưng kẻ có của nhiều cũng vẫn khổ, vì phải lo giữ gìn. Người không trộm cướp tức là đã âm thầm ban cho người khác sự yên ổn rồi.
Nhà Nho có câu: “Nhân phỉ nghĩa hất giao, vật phi nghĩa bất thu”. Huống chi chúng ta là Phật tử lại đi trộm cướp hay sao?
III. Giới thứ ba: Không được tà dâm.
Tà dâm tức là muốn nói về sự dâm dục phi lễ, phi pháp. Luật dạy người xuất gia ly tục phải dút hẳn dâm dục, còn người tại gia thì không được tà dục. Khi vợ chồng có cưới hỏi đủ lễ gọi là chính; ngoài ra, lén lút lang chạ làm việc phi pháp gọi là Tà. Nhưng nếu vợ chồng chính thức đi nữa mà ăn nằm không phải chỗ, gần gũi nhau không chừng mực thì cũng thuộc về tà dâm cả. Đó là nói về mặt thô thiển. Nói một cách tế nhị hơn, thì phàm những sự phóng tâm đắm sắc, nghĩ ngợi bất chính, chơi bời lả lơi, cũng đều thuộc về loại tà dâm.
Phật cấm tà dâm vì những lý do sau đây:
a. Tôn trọng sự công bằng:
Mỗi người ai cũng muốn gia đình mình đầm ấm, yên vui, vợ con mình đoan chính thì sao lại đi phá hại gia cương, làm nhục nhã tông môn người, đưa vợ con người vào con đường dâm loạn.
b. Bảo vệ hạnh phúc gia đình:
Không gì đau khổ, đen tối hơn khi trong một gia đình mà người chồng hoặc vợ có lòng dạ riêng tư, tà dâm. Hạnh phúc đâu còn khi chồng vợ không tin nhau? Khi một gia đình lâm vào cảnh ấy, thì con cái sẽ nhếch nhác, xấu hổ, bê tha, côi cút, bà con không đoái hoài đến, sự nghiệp thì tan tành, làng xóm chê bai, danh giá hoen ố. Điều kiện thiết yếu để giữ vững hạnh phúc gia đình chính là lòng chung thuỷ của hai vợ chồng. Người ta thường bảo: "Thuận vợ thuận chồng, tát bể Đông cũng cạn". Vì sự tà dâm của một trong hai người bạn đường mà trong gia đình thường xảy ra những sự ghen tuông, cãi vã đánh đập có khi dẫn đến án mạng. Có khi để trả thù, người ta thường thấy xảy ra cảnh "Ông ăn chả, bà ăn nem". Một người chồng để tâm dòm ngó vợ con người thì chính vợ con họ cũng lăm le vạch rào sang nhà kẻ khác rồi. Họ phá hạnh phúc gia đình người thì chính hạnh phúc gia đình họ cũng tan rã trước. Cho nên cấm tà dâm là một điều kiện cần thiết để xây dựng hạnh phúc cho gia đình mình và gia đình người.
c. Tránh oán thù và quả báo xấu xa:
Đức Phật dạy: "Người ôm lòng ái dục cũng như kẻ cầm đuốc đi ngược gió, ắt bị nạn cháy tay" (Kinh Tứ Thập Nhị Chương). Thật vậy, người có tâm xấu xa đắm mê sắc dục không chóng thì chầy quyết sẽ bị hại, không tan nhà mất nước thì cũng gãy chân mất mạng bởi mũi súng, ngọn gươm. Xưa nay, những kết quả thảm khốc đen tối do sự đắm mê sắc dục gây ra không thiếu gì, chúng ta chỉ cần dở những chồng sách lịch sử hay những trang báo hàng ngày sẽ thấy nhan nhản trong mỗi bài, mỗi đoạn.
Trong các sự oán thù, không có sự oán thù nào mãnh liệt bằng sự oán thù do sự lừa dối hay phụ bạc về tình ái gây ra. Các cuộc án mạng xảy ra hàng ngày, phần lớn là kết quả của tà dâm.
Lợi ích của sự không tà dâm
Giữ giới cấm tà dâm sẽ có những lợi ích sau đây:
a. Về phương diện cá nhân:
Kinh Thập Thiện nói: "Người thế gian khô mị tà hạnh thì được hưởng bốn điều lợi như sau:
- Sáu căn (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý) đều được vẹn toàn.
- Trọn đời được người kính trọng.
- Đoạn trừ hết cả phiền luỵ quấy nhiễu.
- Cuộc tình duyên trọn đời không ai dám xâm phạm.
b. Về phương diện đoàn thể:
Trong một xã hội mà cũng không tà hạnh thì gia đình được yên vui hạnh phúc, những sự thường luân bại lý sẽ tiêu tan, những cảnh thù hiềm, chém giết không xảy ra nữa; con cái được chăm sóc mạnh khoẻ, nâng niu, xã hội sẽ cường thịnh.
Nói tóm lại, cõi Sa bà ô trược, đau khổ này, sẽ biến thành thế giới thanh tịnh, an vui.
IV. Giới thứ 4. Không được nói sai sự thật.
Nói sai sự thật có 4 cách: Nói dối, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác.
b. Nói thêu dệt: là việc ít nói ra nhiều làm cho người nghe nổi sân hận; trau chuốt lời nói, lên hơi xuống giọng cho êm ái mượt mà để cám dỗ người nghe, làm cho người say mê đắm nhiễm; cũng có khi là nói biếm, nói châm, nói chích làm cho người nghe phải khổ sở. Tóm lại bao nhiêu lời nói không đúng nghĩa chân thật, thêm bớt, cho đến văn chương phù phiếm bóng bẩy làm cho kẻ nghe phải loạn tâm, sinh phiền não đều gọi là nói thêu dệt cả.
c. Nói lưỡi hai chiều: hay nôm na hơn là nói "đòn xóc hai đầu" nghĩa là đến chỗ này thì về hùa với bên này để nói xấu bên kia, đến bên kia thì hùa về bên ấy để nói xấu bên này, làm cho bạn bè đang thân nhau trở lại chống nhau, kẻ ân người nghĩa chống đối, oán thù nhau.
d. Nói lời hung ác: là nói những tiếng thô tục, cộc cằn, chửi rủa thô tháo, làm cho người nghe phải đau khổ, buồn rầu, sợ hãi.
Vì sao Đức Phật cấm nói sai sự thật? Đức Phật cấm nói sai sự thật vì những lý do sau đây:
a. Tôn trọng sự thật:
Đạo Phật là Đạo như thật; người tu theo đạo Phật phải tôn trọng sự thật. Người quen với dối trá, không biết tìm về sự thật thì khó có thể chứng quả được. Chúng ta đang sống trong vọng tưởng, công việc chính của người tu hành là cố gắng phá tan vọng tưởng ấy để thấy được bản nguyên; nếu không làm được như thế mà trái lại còn chồng chất thêm cái vọng tưởng ấy với những sự dối trá lừa phỉnh nữa, thì thật là vô cùng trái Đạo.
b. Nuôi dưỡng lòng từ bi:
Cái động lực chính của sự dối trá là lòng ích kỷ, ác độc, muốn hại người để thoả lòng dục vọng đen tối của mình. Người bị lừa dối, phỉnh gạt phải đau khổ vì mình, có khi phải mắc thù vương oán, có khi phải tán gia bại sản. Người tu hành mà làm như thế là đã tán tận lương tâm, đã bóp chết tình thương trong lòng họ rồi. Một khi lòng từ bi không có nữa, nghĩa là cái động lực chính đã mất, thì sự tu hành chỉ còn là giả dối, lừa bịp người và tất nhiên không bao giờ có kết quả tốt.
c. Bảo tổn sự trung tín trong xã hội:
Trong một gia đình, một đoàn thể, một xã hội mà không ai tin ai, thì mọi công cuộc từ nhỏ đến lớn đều thất bại. Đạo Nho, Đức khổng Tử có dạy: một trong năm đức tính căn bản là lòng tin: "Nhân vô tin bất lập". Hạnh phúc gia đình và xã hội không thể có được trong sự dối trá, nghi ngờ, đố kỵ.
d. Tránh nghiệp báo khổ đau:
Lời nói tuy không phải là lưỡi kiếm nhưng nó nguy hiểm hơn lưỡi kiếm vì nó có hai mũi nhọn, một mũi đâm vào người khác và một mũi đâm vào chính người sử dụng nó. Ai ai chắc cũng chưa quên câu chuyện cậu bé chăn cừu muốn đánh lừa làng xóm bằng cách la “Lửa! Lửa!” nhưng nó chỉ đánh lừa người được một lần; lần sau nhà cậu cháy thật, mặc dù cậu kêu la thảm thiết cũng không ai thèm đến chữa nữa. Đấy, người dối trá chỉ gây hoạ cho mình, do đó Đức Phật dạy: "Phù sĩ xử thế phủ tại khẩu trung, sở dĩ trảm thân do kỳ ác ngôn", nghĩa là: Phàm kẻ ở đời, lưỡi bủa bén nằm sẵn trong miệng, sở dĩ chém mình là do lời nói ác. Đã đành nói ly gián nói xuyên tạc là để hại người, nhưng khi đã làm hại người thì thế nào người cũng hại lại. "Ác lai ác báo" là thế. Để tránh sự thù hằn, tránh nghiệp dữ, chúng ta không nên dối trá, điêu ngoa.
Lợi ích của sự không dối trá.
a. Về phương diện cá nhân:
Được người trọng nể, tin cậy, không ai oán hận thù hiềm; đi đâu cũng được người chung quanh dành cho một tình cảm thân tín, niềm nỏ đón tiếp. Trong nghề nghiệp làm ăn, người chân thật được nhiều thân chủ và được giao phó cho nhiều trọng trách quý báu.
b. Về phương diện đoàn thể:
Gia đình và xã hội được đoàn kết trong sự tin cậy. Mọi công cuộc chung được xúc tiến có kết quả tốt. Nhân loại thương yêu, thông cảm nhau hơn.
Hạn chế: Nói dối là một tai hoạ lớn lao cho mình và xã hội. Tuy nhiên, cũng có vài trường hợp nên nói dối. Đó là khi nào vì lòng từ bi mà phải nói dối để cứu người hay vật. Nói dối phạm tội là trong trường hợp do lòng tham, sân, si làm động cơ thúc đẩy. Ngược lại nếu do lòng từ bi thúc đẩy mà phải nói dối thì không phạm tội.
V. Giới thứ 5: Không được uống rượu
Tất cả những thứ có chất men làm say người hay chất độc hại người đều không được ống. Chính mình không uống đã đành mà cũng không được ép người khác uống, ép nài, khuyến khích người khác uống, tội lại nặng hơn cả chính mình uống nữa. Lúc lâm bệnh nặng, uống các thứ thuốc không lành, lương y phải dùng rượu 'hoà vào thuốc thì tạm dùng. Nhưng trước khi dùng phải bạch cho chúng Tăng biết. Khi hết bệnh, không được tiếp tục uống thuốc có hoà rượu ấy nữa.
Vì những lý do gì Đức Phật cấm uống rượu? Đức Phật cấm uống rượu vì những lý do sau đây:
a. Bảo toàn hạt giống trí tuệ:
Rượu còn nguy hiểm hơn thuốc độc. Một chén thuốc độc ta uống vào chết ngay, nhưng chỉ chết một thân hiện tại chứ rượu uống vào làm mất giống trí tuệ, phải chết đi sống lại vô số kiếp. Vì thế, để bảo toàn hạt giống trí tuệ quý báu nên Đức Phật cấm uống rượu.
b. Ngăn ngừa những nguyên nhân sinh ra tội lỗi:
Bản thân Rượu không phải là một tội lỗi như sát sinh, trộm cướp, tà dâm nhưng nó có thể làm nhân cho những tội lỗi kia sinh ra. Khi đã uống rượu vào say sưa thì tội nào cũng có thể phạm được. Dưới đây là một câu chuyện để chứng minh cho điều đó.
Một anh nông dân kia đang cày ruộng giữa đồng, bỗng thấy hiện ra sừng sững trước mặt mình một hung thần to lớn, kỳ dị hăm doạ giết anh. Anh kinh sợ, khóc lóc xin tha mạng. Vị hung thần báo:- Nếu người làm một trong ba việc này thì ta tha chết cho: hoặc là giết cha ngươi, hoặc là đánh mẹ ngươi hay uống hết lít rượu để trên bàn nhà ngươi.
Anh nông dân suy nghĩ một hồi rồi trả lời:
- Xin ngài cho con được uống lít rượu kia.
Hung thần nghe xong, có vẻ hài lòng rồi biến mất.
Trưa hôm ấy, anh nông dân về nhà, thấy lít rượu mà Người cha mua để ở trên bàn chuẩn bị đãi khách, vì nhà sắp có giỗ, anh ta vội vàng chộp lấy, tu cạn một hơi. Cha anh thấy đứa con hỗn láo, nắm gậy xông lại đánh mắng con. Ma men đã thấm, anh ta không còn biết phải trái, giựt gậy của cha, đánh trả một cái chết liền. Bà mẹ chạy đến ôm con la làng, anh ta chưa hả cơn giận đánh mẹ túi bụi. Làng xóm chay lại bắt anh dẫn lên quan vì tội giết cha đánh mẹ.
Tỉnh lại anh mới biết uống rượu là tội nặng nhất trong ba điều mà hung thần đã bắt anh làm.
Tóm lại: Rượu gây ra rất nhiều tội lỗi. Sau đây là 10 tai hại của rượu mà trong; kinh đã nói đến:
- Của cải rơi mất;
- Tăng trưởng lòng giết hại;
- Trí tuệ kém dần;
- Sự nghiệp chẳng thành;
- Thân tâm nhiều khổ;
- Thân hay tật bệnh;
- Tâm sân hận bồng bột, ưa tranh cãi nhau;
- Phúc đức tiêu mòn;
- Tuổi thọ giảm bớt;
- Mạng chung đoạ vào địa ngục.
Lợi ích của sự cấm uống rượu
a. Về phương diện cá nhân:
Người không uống rượu thì tránh được 10 điều hại vừa kể trên: không mất tiền của, thân ít bệnh tật, không sinh lòng ác độc, giết hại, bớt nóng giận, trí tuệ tăng trưởng, tuổi thọ càng cao v.v…
b. Về phương diện đoàn thể:
Gia đình được yên vui, con cái ít bệnh tật, xã hội được hoà thuận, nòi giống được hùng cường.
KẾT LUẬN CHUNG
1. Người Phật tử không giữ giới không phải là Phật tử.
Chúng ta đã thấy công dụng thiết thực lợi ích của năm giới về phương diện cá nhân và đoàn thể. Nếu Tam quy là nền tảng thì Ngũ giới là năm nấc thang của Phật tử tại gia để bước dần lên Phật quả. Trong bước đầu, người Phật tử nếu có thể phát nguyện giữ cả Năm giới thì càng tốt; nếu vì nhiều sự ràng buộc chưa thể giữ cả được Năm giới thì có thể giữ vài giới mà mình thấy có thể thực hành được như: không uống rượu, không nói dối. Rồi với sự tinh tiến và Bồ đề tâm dũng mãnh, ta tiếp tục phát nguyện giữ thêm những giới khác như không trộm cắp, không tà dâm... Nhưng đã phát nguyện giữ giới nào thì phải giữ giới ấy cho kiên cố, đừng có một bước tiến tới, hai bước thoái lui, dùng dằng như thế mãi không bao giờ đi đến đâu cả.
Nếu người Phật tử mà không giữ được giới nào, thì sao gọi được là Phật tử? Người thường, không theo đạo Phật mà còn có thể giữ đúng tư cách như không uống rượu, không trộm cắp tha huống hồ là Phật tử ? Ta đến với đạo Phật là vì muốn vượt lên trên đời tầm thường của thế nhân. Nếu chúng ta vào Đạo rồi mà vẫn tiếp tục cuộc đời trôi nổi cũ, hay còn tệ hơn cuộc đời thường của thế nhân, thì đó là chúng ta muốn làm hoen ố Đạo chứ không phải là ngưỡng mộ Đạo. Cho nên, người Phật tử phải cố gắng giữ giới để cho xứng đáng với danh nghĩa của mình, để đem lại hạnh phúc đến cho mình và cho chúng sinh.
2. Người không theo đạo Phật cũng nên giữ giới.
Năm giới cấm nói trên không có gì là cao siêu, huyền bí. Đó là một bài học công dân thông thường mà bất cứ một xã hội nào, một quốc gia nào muốn phồn thịnh, hùng cường cũng không thể bỏ sót được. Cho nên 5 điều luật ấy không chỉ để áp dụng riêng cho giới Phật tử mà còn chung cho tất cả những ai muốn sống một cuộc sống lành mạnh, an vui, có lễ nghĩa và tiến bộ.
Một xã hội mà mọi phần tử đều thực hiện được Năm giới cấm ấy, thì đó là một xã hội gương mẫu, công bằng, văn minh và phồn thịnh nhất thế giới.
(Trích “Khai thị phép Tam quy - Ngũ giới”
Tác giả: Thượng tọa Thích Viên Thành. Giáo hội Phật giáo Việt Nam)
Phật nói về năm việc Ác và năm điều Thiện
- 15216
Viết bình luận