Kinh Từ bi Đạo tràng Mục Liên Sám Pháp (Soạn dịch: Phúc Tuệ) - Quyển 1 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Kinh Từ bi Đạo tràng Mục Liên Sám Pháp (Soạn dịch: Phúc Tuệ) - Quyển 1

MỤC LIÊN SÁM PHÁP

Soạn dịch: Phúc Tuệ

 

TỰA

 

Sau khi đọc hết nội dung của bộ Đại Mục Kiền Liên Sám Pháp này, tôi nhận thấy có hai điểm chính là Sám hối và Báo ân, hay sám hối để báo ân. Công hạnh của ngài Mục Kiền Liên điển hình nhất cho sự sám hối và báo ân ấy.

Kinh Hoa Nghiêm nói: “Bồ Tát tự nghĩ: Ta từ kiếp quá khứ vô thỉ đến nay, do tham, sân, si, mà thân, khẩu, ý phát sinh vô lượng vô biên các nghiệp ác, nếu như các nghiệp ác ấy mà có thể tướng, thì tận cả hư không giới cũng không thể nào dung chứa cho hết được; vì thế mà từ nay, đem hết cả ba nghiệp thanh tịnh, đối trước chư Phật, Bồ tát chúng, thành tâm sám hối, nguyện sau sẽ không dám làm nữa…”

Như trên, các bậc Bồ Tát cũng còn phải nghĩ sám hối nghiệp chướng, nữa là kẻ phàm phu chúng ta, đầy rẫy những tội lỗi? Nếu như không nhờ công phu tinh cần sám hối, để diệt trừ nghiệp ác đã tạo, và chận đứng những nguyên nhân của những nghiệp ác sẽ tạo, thì biết bao giờ mới mong được giải thoát an vui?

Với Sám Pháp này; thật là cái kim chỉ nam cho người thời mạt pháp “tội trọng phúc khinh” nương vào đó để tu hành sám hối diệt tội; Sám Pháp này là con thuyền đưa người qua biển khổ sinh tử đến bờ giải thoát an vui, và Sám Pháp này cũng là ngọn đuốc tuệ soi sáng cho chúng ta vượt qua những con đường vô minh tội lỗi.

Còn nói sám hối để báo ân tất nhiên chúng ta phải nghĩ ngay đến công hạnh báo hiếu của ngài Mục Kiền Liên, một vị đệ tử thần thông bậc nhất của Phật Thích Ca Mâu Ni.

Ngài Mục Kiền Liên, sau khi tu hành chứng đạo, ngài thường nhớ nghĩ đến sự báo đền thâm ân dưỡng dục của mẹ ngài là bà Thanh Đề, phu nhân của một vị phó tướng, nhưng tội ác lại rất nặng nề.

Vì biết mẹ lúc sinh tiền tạo nhiều tội lỗi, nên khi chết khó thoát khỏi được cảnh khổ báo trong ba đường ác, nên ngài đã vận dụng thần lực đi tìm mẹ khắp mọi nơi, từ trên các cõi trời, cho đến những cảnh địa ngục, nhưng vẫn không thể biết được mẹ phải đọa lạc nơi đâu, đành phải trở về hỏi Phật. Phật dạy:

-          Mẹ ông khi còn sống không tin Tam Bảo, tham lam độc ác, nên sau khi chết phải đọa vào đại địa ngục.

Ngài Mục Kiền Liên thấy Phật dạy như thế, nghẹn ngào khóc lóc, và lại đi tìm mẹ khắp các địa ngục, được thấy tận mắt những cảnh khổ báo ở những nơi đó. Sau cùng, ngài đến một địa ngục, thấy tường cao một vạn trượng, cửa đóng kín mít, gọi thì không người mở, trông thì chẳng thể thấy được, nên ngài lại trở về hỏi Phật. Phật dạy:

-          Chính mẹ ông phải đọa trong đại địa ngục ấy, và phải chịu đại trọng tội.

 

Ngài Mục Kiền Liên nghe theo lời Phật dạy, liền đến trước cửa địa ngục ấy, rung gậy tích ba trượng ba lần, tức thì cửa ngục tự mở, chủ ngục dẫn mẹ ngài từ trong ngục đi ra, để cho mẹ con được gặp nhau. Lúc ấy, ngài Mục Kiền Liên thấy mẹ toàn thân bị lửa bốc cháy phừng phực, mình mẩy đầy những dấu vết gươm đao tra tấn, cổ bị mang gông, chân tay bị xiềng trói bằng những sợi dây sắt, trông rất bi thảm. Bà quay lại bảo với ngài Mục Kiền Liên: “Thân thể của mẹ bị đau đớn thật khó kể xiết!”.

Thấy tình cảnh bi thảm của mẹ, trong lòng đau như dao cắt, ngài liền trở về cầu xin Phật thương xót chỉ dạy cho phương pháp, để cứu mẹ thoát khỏi những cảnh khổ báo ở nơi địa ngục, nhưng vừa thoát khỏi địa ngục, lại phải đọa làm ngạ quỷ. Phật lại chỉ dạy cho phương pháp khiến cho thoát khỏi cảnh ngạ quỷ, thì lại phải đọa làm súc sinh. Phật cũng lại chỉ dạy cho phương pháp khiến cho thoát khỏi cảnh súc sinh. Cứ như thế, mẹ ngài lần lượt phải chịu mọi khổ báo trong ba đường ác. Ngài Mục Kiền Liên nhất nhất cầu Phật thương xót chỉ dạy cho phương pháp để cứu mẹ thoát khỏi những khổ báo ấy, và đều được Phật chỉ dạy cho biết:

-          Tội ác của mẹ ông rất nặng nề, sức của một mình ông, không thể nào cứu cho mẹ ông giải thoát được, mà ông phải chí thành cầu thỉnh các bậc Đại Đức Tăng, lập đạo tràng sám pháp, đọc tụng các kinh điển Đại thừa, để sám hối những nghiệp ác cho mẹ ông, thì mẹ ông mới thoát khỏi những khổ báo ấy.

Ngài Mục Kiền Liên làm theo đúng như lời Phật dạy, nên mẹ ngài đã được giải thoát, bà được sinh lên cung trời Đao Lợi, hưởng thụ mọi sự an vui khoái lạc.

Xem thế đủ biết: Công năng của sự sám hối, nguyện lực của các bậc Đại Đức Tăng, thật là lớn lao vậy.

Sám hối còn là một phương pháp tự lợi, lợi tha; một công hạnh báo hiệu rất nhiệm màu, mà người muốn tu hành hiếu đạo; người muốn sám trừ nghiệp chướng; cần phải ghi lòng tạc dạ.

Ngài Mục Kiền Liên là một tấm gương sáng chói tượng trưng cho lòng chí hiếu đối với đấng từ thân; ngài đã thực hành pháp sám hối, mà cứu được mẹ thoát khỏi cảnh đọa đầy ở địa ngục khiến muôn đời không thể quên được.

Bộ Đại Mục Kiền Liên Sám Pháp này, nguyên bản bằng Hán văn, nay Đại Đức Thích Quảng Độ phát tâm dịch ra Việt văn, Đại Đức Thích Quang Hào Viện chủ chùa Bồ Đề xuất bản không ngoài mục đích muốn cho ai ai cũng có thể đọc được, hiểu được phần nào đối với giáo nghĩa cao siêu huyền diệu của Phật pháp.

Riêng tôi xin chí thành tùy hỷ công đức với dịch giả, và trân trọng giới thiệu cùng quý vị Phật tử bốn phương bộ Sám Pháp rất quý báu này.

Sài Gòn, năm Giáp Thìn, 1964

CHÍNH TIẾN

 

DÂNG MẸ

Bao năm rồi con lưu lạc ngàn phương,

Con nhớ mẹ suốt canh trường khắc khoải,

Ơn dưỡng dục mẹ ôi! Sao xiết kể,

Công sinh thành con nghĩ: Quặn lòng đau.

Gốc mai già xơ xác đã từ lâu,

Trơ vơ đứng giữa trường đời gió lộng.

Dòng sông chảy: ấy đời con trong mộng,

Lững lờ trôi, trôi mãi đến bao giờ?

Có những đêm con thiêm thiếp trong mơ,

Con mơ thấy hồn con về thăm mẹ.

Được ấp ủ trong tình thương của mẹ,

Mảnh hồn con ấm dịu biết bao nhiêu?

Bốn phương trời con tìm kiếm đã nhiều,

Nhưng không có một tình yêu của mẹ.

Vu Lan đến cõi lòng con quạnh quẽ,

Bóng người xưa như phảng phất đâu đây,

Một chiều thu lạnh dâng bát cơm đầy,

Tình nghĩa ấy, mẹ ôi! Bao thấm thía.

Phương trời này con ngậm ngùi rơi lệ,

Đức cù lao muôn một trả chưa xong.

 

Mùa Vu Lan Quý Mão (1963).

Q.Đ

 

PHẦN NGHI LỄ

(Chủ  Sám xướng) Hết thảy cung kính...  (Mọi người hòa theo)

Dốc lòng kính lễ Thường-Trụ Tam Bảo khắp pháp giới mười phương. (3 lễ và 3 tiếng chuông)

(Mọi người quì đọc nguyện hương)

Nguyện xin khói hương này

Như mây tỏa mười phương

Trong vô biên cõi Phật

Hóa vô lượng diệu hương

Cúng dàng ba ngôi báu

Trang nghiêm cả mọi đường

Trọn vẹn Bồ Tát đạo

Thành tựu Như Lai hương.

(Mọi người đều vái xuống, rồi thỉnh 3 tiếng chuông)

(Chủ  Sám xướng)

Cúng dàng rồi, hết thảy cung kính....

(Đại chúng hòa theo)

Dốc lòng kính lễ Thường-Trụ Tam Bảo khắp pháp giới mười phương. (1 lễ, 3 tiếng chuông)

(Đồng quỳ đọc bài sám hối)

Chúng con xin dốc lòng sám hối:

Xưa kia gây nên bao  nghiệp ác

Đều vì ba độc tham, sân, si,

Từ thân miệng, ý phát sinh ra,

Hết thảy con nay xin sám hối,

Bao nghiệp chướng gây nên như thế

Đều tiêu tan một chút không còn

Niệm niệm tràn lan trong pháp giới

Độ chúng sanh khắp cả không lui.

(3 tiếng chuông, đồng đứng dậy)

(Chú  sám xướng) Sám hối rồi... (Đại chúng hòa theo)

Quy mệnh lễ đức Phật A-Di-Đà cùng ngôi Tam-Bảo khắp mười phương. (1 lễ, 3 tiếng chuông)

(Mọi người cùng ngồi tụng, chuông mõ bắt đầu)

Lò hương vừa đốt

Cõi Pháp thơm lây

Chư Phật bốn biển đều xa hay

Thấu tâm thành này

Chư Phật hiện thân ngay.

Nam-mô Hương-Vân-Cái Bồ-Tát Ma-ha-tát. (3 lần, 1 tiếng chuông)

 

KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao sâu rất nhiệm mầu,

Nghìn muôn ức kiếp dễ hay đâu

Con nay nghe, thấy xin vâng giữ

Chân nghĩa Như-Lai hiểu thật sâu.

Nam-mô Bản-Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật  (3 lần, 3 tiếng chuông)

NAM MÔ ĐẠI HIẾU MỤC KIỀN LIÊN BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)

NAM MÔ CẦU SÁM HỐI BỒ TÁT MA HA TÁT (3 lần)

 

QUYỂN THỨ NHẤT

Đệ tử chúng con, ngày nay có duyên, cùng được hội họp, tại đạo tràng này, xin rũ bụi trần, tẩy sạch ba nghiệp, khắp vì bốn ân, ba cõi, tám nạn, sáu đường, hết thảy chúng sinh, dốc lòng sám hối.

Tất cả chúng con từ kiếp vô thủy, cho đến ngày nay, đều bị vô minh, che lấp chân tính, sáu căn ba nghiệp, mê mờ không biết, vì thế mới gây nên bao ác nghiệp, không bến không bờ, nếu chẳng ăn năn, sao giải thoát được?

Mười phương chư Phật, thường ở thế gian, tiếng pháp không dứt, diệu hương tràn đầy, thường buông ánh sáng, soi chỗ tối tăm; diệu lý còn mãi, như áng mây lớn, che khắp hết thảy, như vị đề hồ, rưới cho bốn loài, như nước cam lộ, thấm nhuần sáu ngả. Vậy mà chúng con, không thấy không nghe, không hay không biết, bởi tại sáu căn che lấp, ba nghiệp ngăn ngừa, vì thế cho nên, trôi dạt mãi mãi, trong bể sống chết, trăm nghìn muôn kiếp, không có hẹn nào, thoát ly ra khỏi!

Trong kinh nói rằng: “Đức Phật Tỳ-Lô, ở khắp mọi nơi”, mà chỗ Phật ở, thường được gọi là cõi Thường Tịch Quang. Vì thế cho nên, hết thảy mọi pháp, đều là Phật pháp, thế mà chúng con, không hề tỏ ngộ, rồi cứ trôi lăn, theo dòng mờ mịt, bởi thế cho nên, trong đạo Bồ-đề, lại thấy nhơ nhớp, trong đạo giải thoát, khởi tâm ràng buộc.

Ngày nay giác ngộ, chúng con chí thành, đối trước chư Phật và đại Bồ-tát, hết lòng khẩn đảo, giãi bầy sám hối. Tất cả trọng tội, chúng con đã phạm, từ kiếp vô thủy, cho đến ngày nay, hoặc tự mình làm, hoặc dạy người làm, hoặc nghe hoặc thấy, người khác gây tội, sinh lòng vui mừng, nếu nhớ hay quên, hoặc rõ hay ngờ, hết thẩy tội chướng, đều xin sám hối.

Nguyện rằng từ đây, tất cả chúng con tiêu trừ ác nghiệp, tinh tiến tu hành, trang nghiêm Tịnh Độ. Lại nguyện hết thẩy chúng sinh sáu ngả, đều được sinh sang cõi nước Cực Lạc, Đức Phật Di Đà, thường đến tiếp dẫn; hiện ở đời này, Bồ đề tăng trưởng, tới phút lâm chung, lòng được chính niệm, gặp Phật Di Đà, cùng các Thánh chúng, tay cầm đài sen, thân đến tiếp dẫn, chỉ trong giây lát , sinh về cõi Phật, tu hạnh Bồ Tát, thành tựu Bồ Đề, rộng độ chúng sinh, cùng thành Chánh Giác. Tất cả đại chúng, hiện tiền nơi đây, dốc một lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ của cả thế gian.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Quá Khứ Tỳ Bà Thi Phật.

Nam Mô Thi Khí Phật

Nam Mô Câu Lưu Tôn Phật

Nam Mô Câu Na Hàm Mâu Ni Phật

Nam Mô Ca Diếp Phật

Nam Mô Đương Lai Di Lặc Tôn Phật

Nam Mô A Di Đà Phật

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Kiền Liên Tôn Giả.

Lễ chư Phật rồi, thứ lại sám hối. Đệ tử chúng con, nơi Đạo tràng này, vô cùng khát ngưỡng, công đức Tam Bảo, vì trong thiên hạ, Tam Bảo quý nhất.

Phật bảo là gì? Phật là Chính Giác. Trong bao nhiêu kiếp, tu hành khổ hạnh, ngộ đạo Bồ-đề, gọi là Chính Giác. Tự giác, giác tha, cứu độ chúng sinh, không thể kể xiết, quả hạnh đầy đủ, làm thầy Trời, Người, vì thế cho nên, kêu là Phật bảo.

Pháp bảo là gì? Những lời Phật nói, chép thành kinh sách, nghĩa lý cao sâu, những người được nghe, đều sinh kính tín, những người đọc tụng, ngộ được Phật tâm, thoát nỗi phiền não, lên núi Niết Bàn, đến bến Bồ-Đề, thành bậc Chánh Giác. Thế là Pháp Bảo.

Tăng bảo là gì? Thụ trì giới luật, như pháp tu hành, mở lòng từ bi, cứu khổ hết thẩy, ba áo che thân, tu theo vạn hạnh, cũng như chư Phật, tu hạnh Bồ Tát, trước độ chúng sinh sau mới thành Phật. Thế là Tăng bảo.

Chúng sinh ngu muội, điên đảo mê lầm, không tin Tam Bảo, không biết quy kính, lại còn kiêu ngạo, sinh lòng phỉ báng, bởi thế cho nên, sa vào ba đường, vòng quanh sáu ngả, đắm chìm bể khổ, mãi mãi vô cùng. Nếu có những người thiện nam, tín nữ mở lòng Bồ Đề, quy y Tam bảo, thì diệt được tội, mà sinh phúc lành. Quy y Phật rồi, khỏi đọa địa ngục, quy y Pháp rồi, thoát khỏi ngã quỷ, quy y Tăng rồi, không làm súc sinh.

Hiểu được Tam Bảo, duy tại nhất tâm, thường ở thế gian, vĩnh viễn không mất, hóa độ tà mê, quay về Chính Giác, ra khỏi trần lao, tới quả vị Phật. Đã hết khổ rồi, tất nhiên sung sướng, đời đời kiếp kiếp, hoặc sinh nơi này, hay ở chỗ khác, thường được yên ổn, phúc tuệ trang nghiêm, thân tâm sáng chói, vì thế cho nên, trong kinh nói rằng: “Nếu có người nào, cúng dàng Tam Bảo, chư Phật Bồ Tát, một lễ một lạy, hết lòng cung kính, thì được trăm lần, sinh lên cõi trời, hưởng được thú vui, đến khi hết phúc, sinh xuống nhân gian, sung sướng vô cùng. Nếu lại có người, quy y Tam Bảo, cung kính cúng dàng, thụ trì năm giới tinh tiến tu hành, thì những người ấy, thành đạo Vô thượng, chứng quả Bồ Đề, rộng độ chúng sinh, cùng về Chánh Giác. Bởi quả báo ấy, cho nên ngày nay, chúng con dốc lòng, quy y Tam Bảo.

Nam Mô Tận Thập Phương, Biến Pháp Giới, Vi Trần Sái Độ Trung, Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật.

Nam Mô Tận Thập Phương, Biến Pháp Giới, Vi Trần Sái Độ Trung, Tam Thế Nhất Thiết Tôn Pháp.

Nam Mô Tận Thập Phương, Biến Pháp Giới, Vi Trần Sái Độ Trung, Tam Thế Nhất Thiết Thánh Tăng.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Hàng Phục Chư Ma Vương Phật

Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Phật

Nam Mô Trí Tuệ Thắng Phật

Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật

Nam Mô Thế Tịnh Quang Vương Phật

Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật

Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật

Nam Mô Bảo Châu Minh Chiếu Phật

Nam Mô Nhật Nguyệt Quang Phật

Nam Mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật

Nam Mô Diệu Âm Hoa Phật

Nam Mô Bảo Quang Tràng Phật

Nam Mô Ưu Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật

Nam Mô Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật

Nam Mô Nhất Thiết Pháp Thường Mãn Phật

Nam Mô Di Đà Vương Phật

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả

Đệ tử chúng con, kính lễ Tam Bảo và các Hiền Thánh, nguyện đời đời kiếp kiếp, hoặc sinh nơi này, hay ở chỗ khác thường gặp chư Phật, hằng được cúng dàng, được nghe chánh pháp. Lại nguyện đời đời kiếp kiếp, sinh nơi Tam Bảo, mở lòng Bồ đề, nhờ sức Tam Bảo, cứu độ chúng sinh, cùng thành Chính Giác, đều lên liên đài.

Chúng con ngày nay, mới biết ân Phật, vô cùng sâu dầy, thường rủ lòng từ, cứu độ chúng con. Chúng con đã hiểu, mười phương chư Phật, đã bao nhiêu kiếp, siêng tu đạo hạnh, không từ lao khổ, chẳng cầu yên vui, quên mình bỏ mạng, cắt dứt ân ái, xa lìa danh vọng, chỉ cố thực hành, bốn vô lượng tâm, sáu ba la mật, thệ nguyện sâu rộng, cứu vớt chúng sinh, trong bể sinh tử, dù phải nhọc lòng, nhưng không chán nản; chúng sinh ương nghạnh, dạy cho biết cách, hiếu dưỡng cha mẹ, kính tín Tam Bảo, đều ngộ Phật tâm, cùng thành Chính Giác. Vì vậy cho nên xưng là: Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự, Trượng Phu, Thiện Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Mười hiệu đầy đủ, muôn đức trang nghiêm, thành bậc Đại giác, vượt qua bể khổ, lên bờ giải thoát, rồi nói mọi pháp, để độ chúng sinh. Nhưng vì chúng sinh, mê mờ điên đảo, không thấy sáng suốt, chẳng biết có Phật, không tin Phật nói, chẳng học kinh điển, không rõ tội phúc, không phân sướng khổ, chẳng chịu tu hành. Ở trong cảnh khổ, lại bảo là vui, tự buộc lấy mình, không dứt ra được, không sợ vô thường, chẳng tìm lối thoát, tha hồ làm ác, không kiêng điều dở, gây nên tội nghiệp, không thể kể xiết. Những người như thế, sau khi chết rồi, chịu vô lượng khổ, phải đọa địa ngục, vĩnh viễn không được thấy Phật, Pháp, Tăng.

Nếu có những người, thiện nam tín nữ, phát tâm tín kính, quy y Tam Bảo, tu mười điều lành, giữ gìn tịnh hạnh, cúng dường Tam Bảo, hiếu dưỡng song thân, thụ trì trai giới, theo lời Phật dạy, thương kẻ nghèo hèn, giúp người già cả, yêu mến anh em, phóng sinh bố thí, kính trên nhường dưới, báo ân cúng dàng, phát tâm Đại Thừa, tu giới định tuệ, diệt tham sân si, sợ lão bệnh tử, chăm tu thuyền định, thì những người ấy, ngộ được Phật trí, chứng đại Bồ Đề, thành bậc Chính Giác. Vì thế cho nên trong kinh Tạo Tượng, đức Phật nói rằng, Phật tuy diệt độ, nhưng pháp của Ngài, vẫn ở thế gian. Trong thời mạt pháp, nếu có người nào, đắp vẽ hình tượng, của Phật Bồ-Tát, cùng các Hiền Thánh, hoặc để trong chùa, hay nhà tại gia, hoặc giữa xóm làng, hay trong rừng núi, ngày đêm khuya sớm, hương hoa cúng dàng, đèn nến phan phướn, thì những người ấy, được phúc vô lượng, mãi mãi yên vui.

Cúng dàng như thế, mà còn được phúc, huống chi phát tâm, ấn tống kinh điển, thụ trì đọc tụng, tìm hiểu nghĩa lý, đúng pháp mà làm, mong thành Phật đạo, thì được phúc báo, biết là chừng nào?

Trong kinh Phật nói, người nào có phúc, mới được cúng Phật. Xưa kia có người, mua một bó hoa, giữa đường gặp Phật, nghe Phật thuyết pháp, sinh lòng vui mừng, liền dâng bó hoa, cúng dàng đức Phật, Phật bèn thụ ký, bảo người ấy rằng: “Người đã cúng dàng, chín mươi ức Phật, bốn trăm mười kiếp, trở về sau này, người sẽ thành Phật, danh hiệu gọi là: Hoa Quang Như Lai!”

Kinh lại nói rằng, trong đời mạt pháp, người nào tạo tượng, cúng dàng chư Phật, khi Phật Di Lặc, ứng hiện ra đời, người ấy sẽ được, thành đạo trước nhất. Ưu Điền đại vương, bạch với Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn, người tạo hình tượng, cúng dàng chư Phật, được những phúc gì?” Phật trả lời rằng: “Người ấy đời đời kiếp kiếp, khỏi đọa địa ngục, sinh ở Nhân Thiên, hưởng mọi khoái lạc, thân thể sáng chói, tướng mạo trang nghiêm, người người tôn trọng, thiên long kính ngưỡng, thọ mệnh lâu dài; hoặc làm vua chúa, đại thần, trưởng giả, của báu đầy dẫy, phúc đức lâu bền, qua vô số kiếp, sẽ được thành Phật.

Lại Công Đức Kinh, chép một chuyện rằng: Kiều Phạm Ba Đề, trước là thân trâu, đi tìm cỏ nước, vòng quanh Tinh Xá, được thấy tướng Phật, sinh lòng vui mừng, nhờ công đức ấy, liền được siêu thăng. Cho nên chư Phật, nói mọi nhân duyên, khuyến hóa chúng sinh, dùng các phương tiện, vì lũ chúng sinh, làm ruộng phúc lớn, để cho mọi loài, cũng được như Phật. Nhưng vì chúng sinh, tội nghiệp sâu nặng, phúc đức mỏng manh, không nghe lời Phật, chẳng chịu tu trì, không nhớ ân nghĩa, chẳng muốn giúp người, Phật dùng từ bi, tìm mọi phương tiện, thuyết pháp hóa độ, khiến cho giác ngộ, cùng chứng Bồ Đề, bởi thế ơn Phật, thật là khó báo.

Giờ đây chúng con, dốc lòng khẩn thiết, đính lễ chư Phật, Bồ Tát, Thánh Tăng, nguyện Phật thùy từ chứng giám.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Phả Quang Phật

Nam Mô Phả Minh Phật

Nam Mô Phả Tịnh Phật

Nam Mô Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật

Nam Mô Ma Ni Tràng Phật

Nam Mô Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bảo Tích Phật

Nam Mô Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật

Nam Mô Tuệ Cự Chiếu Phật

Nam Mô Nhất Thiết Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật

Nam Mô Hải Đức Quang Minh Phật

Nam Mô Đại Cường Tinh Tiến Dũng Mãnh Phật

Nam Mô Kim Cương Lao Cường Phả Tán Kim Quang Phật

Nam Mô Đại Bi Quang Phật

Nam Mô Từ Lực Vương Phật

Nam Mô Từ Tạng Phật

Nam Mô Hiền Thiện Thủ Phật

Nam Mô Chiên Đàn Hốt Trang Nghiêm Thắng Phật

Nam Mô Thiện Ý Phật

Nam Mô Quảng Trang Nghiêm Vương Phật

Nam Mô Hư Không Bảo Hoa Quang Phật

Nam Mô Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật

Nam Mô Bảo Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật

Nam Mô Kim Hoa Quang Phật

Nam Mô Bất Động Trí Quang Phật

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả

Đệ tử chúng con, lễ chư Phật rồi, nguyện đời đời kiếp kiếp, thường được thấy Phật, băm hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Nghe Phật thuyết pháp, liễu nghĩa cao sâu, được Phật thụ ký, chứng đạo Bồ Đề.

Hiện tiền đại chúng, tĩnh tâm lắng nghe; Đại Giác Thế Tôn, thương kẻ mờ mịt, xem căn chúng sinh, trí ngu có khác, cao thấp không đều, đặt ra ba thừa, mở đường phương tiện, lập phép sám này, lời văn tuy ít, nhưng nếu lễ tụng, công đức không lường. Xin bậc cao minh, đừng chê cạn hẹp, khiến kẻ hạ căn, khinh thường biếng tụng; nếu khởi tâm khinh, sẽ bị quả báo, chịu nhiều tội khổ. Người nào lễ tụng, nghiệp chướng tiêu trừ, người nào tán thán, được phúc vô lượng; người nào tin ưa, đạo phẩm càng tăng. Những người trì tụng, sẽ được giải thoát. Vậy nên đại chúng, hiện tiền nơi đây, đều phải cung kính, vận hết tâm thành, sinh tưởng khó gặp, lập trí báo ân, trau giồi trí tuệ, cầu chứng Bồ Đề. Chư Phật ra đời, chỉ vì chúng sinh, mà kẻ hạ căn, ngu si mông muội, không thấy không biết. Như Lai trước kia, trong hằng sa kiếp, tu mọi khổ hạnh, chứa công góp đức, tìm đạo Bồ Đề, Đức Phật Thích Ca, từ trời Đâu Xuất, sinh xuống Hoàng cung, lúc còn bé nhỏ, tên Tất Đạt Đa, đến khi khôn lớn, chỉ thích xuất gia. Một hôm ra chơi, ngoài bốn cửa thành, thấy già, ốm, chết, sinh lòng buồn rầu, rời bỏ Hoàng cung, vào miền núi Tuyết. Chán ghét ca nhạc, ưa nghe suối reo, bỏ các mỹ vị, cởi áo long bào, vứt hết giầu sang, chỉ dốc một lòng, cầu đạo Vô Thượng. Bởi thế sau này, thành bậc Chánh Giác, gọi là Như Lai. Ngài phóng hào quang, soi chỗ u ám, thuyết pháp giáo hóa, độ thoát chúng sinh. Những người theo Pháp, đều được sáng suốt, nhờ ân lực Phật, được vào đạo tràng, hiểu thấu Đại Thừa, thành bậc Giác Ngộ. Đoạn trừ sinh tử, không còn chìm đắm, trong vòng bể khổ, ân đức của Phật, thực khó báo đền. Nếu phát nguyện lớn, trọn đời tu đạo, chứng quả Bồ Đề, trên báo ơn Phật, dưới độ chúng sinh, thì mới xứng đáng. Như Ngài Dược Sư, ở đời quá khứ, đốt mình làm đuốc, chiếu mười phương Phật, bỏ cả thân mạng, cúng dàng chư Phật. Các bậc Hiền Thánh, còn biết cúng dàng, báo đền ân Phật, huống chi chúng ta, sao lại không nghĩ? Muốn báo Phật ân, phải làm thế nào? Trong kinh Phật nói: “Nếu có những người, thiện nam tín nữ, muốn báo ơn Phật, trước phải xa lìa, những nẻo tà kiến, tu theo Chính Pháp, hóa độ chúng sinh, không hiềm mệt mỏi, cứu giúp mọi người, hiếu kính cha mẹ, yêu mến anh em. Thế là chân chính, báo đền ơn Phật”.

Trong kinh Phật nói: “Hết thảy chúng sinh, đều có Phật tính,” chỉ vì từ kiếp, vô thủy đến nay, điên đảo mê lầm, không thấy không biết, bởi thế cho nên, không hiểu thiện ác, không tin tội phúc, chẳng sợ nhân quả, cống cao ngã mạn, không ưa kinh Phật, chê người hành đạo. Sở dĩ như thế, là do tự mình, không hiểu bản tâm, chấp theo tà kiến, xa lìa bạn tốt, gần gũi kẻ ác, gây tội ngũ nghịch, tạo nghiệp thập ác, giết hại sinh linh, ăn cho thỏa thích, chơi bời phóng túng, kết bạn du đãng, rượu chè say sưa, đánh đập người hiền, bênh vực kẻ ác, thấy tiền của người, muốn vơ về mình, lửa tham bốc cháy, tối mặt tối mày, lấy cho bằng được; cậy mình giầu có, khinh kẻ nghèo hèn, đắm say sắc dục, không kể đạo đức, trái với chính lý, thế là tà kiến, nói dối nói gạt, không trọng tôn ty, khinh khi họ hàng, tham lam tiền của, không bao giờ chán, bỏn sẻn keo kiệt, không mất một đồng, không bỏ một cắc. Nếu nói câu gì, là dèm chê người, không còn nhân tính, không biết lẽ phải, nếu có giảng kinh, hay điều thiện lợi, cũng chẳng thèm nghe. Những người như thế, sau khi chết rồi, phải đọa địa ngục, không có kỳ hạn, chịu những nỗi khổ, không thể tả được. Tội đọa địa ngục, khi đã hết rồi, lại phải sinh vào, những loài quỷ đói, quỷ đói hết rồi lại làm súc sinh; súc sinh khi hết, nếu được làm người, mù điếc câm ngọng, nghèo cùng khổ sở, sinh nơi biên địa, không được thấy Phật, không gặp Hiền Thánh, chẳng biết vô thường, không cầu trí thức. Những kẻ làm ác, chịu báo như thế.

Phật khuyên chúng sinh, không nên tạo ác, nhưng đời ngũ trược, ba độc bừng cháy, phúc đức kém cỏi, nghiệp căn sâu dày, không tin lời Phật. Những người trí giả, nghe được hiểu ngay, những kẻ hạ căn, không thể tín thụ. Tu mười điều thiện, được lên Thiên giới, tạo mười nghiệp ác, vào ngay ba đường. Nếu ai không tin, hãy đọc kinh điển, người nào làm được, một điều thiện thôi, hiện ở đời này, hưởng phúc vô lượng, quả báo kiếp sau, được sinh cõi trời, đầy đủ thú vui. Nhưng một điều ác, gặp ngay ác báo, chịu khổ vô cùng, ngày sau chết đi, phải vào địa ngục, đau đớn ê chề.

Kinh Chiết Phục nói:”Một vị Thiên tử, trên trời Đao Lợi, khi hưởng hết phúc, năm tướng suy hiện, thấy sau khi chết, đọa làm kiếp lợn, sầu muộn vô cùng. Ngay trong khi ấy, trên Trời có tiếng: “Phật có thể cứu tội của nhà ngươi, mau đến cầu Phật, xin Ngài cứu cho!” Khi đến trước Phật, Ngài bảo Thiên tử: “Hết thảy các pháp, đều là vô thường, nên biết như thế, lo buồn làm gì?”

Thiên tử bạch Phật: “ Bạch đức Thế Tôn, làm sao thoát được, thân hình kiếp lợn?”Phật bảo Thiên tử: “Nếu muốn như thế, phải quy y Tam Bảo, hướng về Bồ Đề”. Vị Thiên tử đó, liền quy y Phật, tu pháp Đại Thừa, ngày đêm chăm chỉ. Trong bảy ngày sau, ông bèn mệnh chung, sinh xuống một nước, tên Duy Gia Ly, nhà trưởng giả nọ, ở trong thai mẹ, ngày đêm quy y, khi vừa sinh ra, cũng quỳ quy y. Cả nhà đều sợ, cho là ma quái, muốn đem giết chết, nhưng chỉ người cha, biết rõ việc ấy, nên ông nói rằng, đứa trẻ thơ này, là người phi phàm, vì người đời này, sống lâu trăm tuổi, mà còn không biết, quy y Tam Bảo, huống chi mới sinh đã niệm Tam Bảo. Vì thế nên biết, nó là phi phàm.

Khi lên bảy tuổi, thụ trì ngũ giới, đến khi lớn lên, bẩm với cha mẹ, xin cho xuất gia, tu các phạm hạnh, được Phật thụ ký, liền chứng Sơ quả.

Do đó mới biết, ơn Phật rộng lớn. Chỉ nghe tên Phật, mà được như thế, huống chi tự mình, cung kính cúng dàng, giữ gìn năm giới, tinh tiến tu hành, trang nghiêm cõi Phật, tạo ruộng phúc lớn, thì sao không ngộ, Vô Thượng Bồ Đề? Vì vậy đại chúng, hiện tiền nơi đây, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đại Từ Bi Phụ.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Hàng Phục Chư Ma Vương Phật

Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Vương Phật

Nam Mô Trí Tuệ Thắng Phật

Nam Mô Di Lặc Tiên Quang Phật

Nam Mô Thế Tịnh Quang Phật

Nam Mô Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật

Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật

Nam Mô Nhật Nguyệt Quang Minh Phật

Nam Mô Nhật Nguyệt Châu Quang Phật

Nam Mô Tuệ Tràng Thắng Vương Phật

Nam Mô Sư Tử Hống Tự Tại Lực Vương Phật

Nam Mô Diệu Âm Thắng Phật

Nam Mô Thường Quang Tràng Phật

Nam Mô Quán Thế Đăng Phật

Nam Mô Tuệ Uy Đăng Vương Phật

Nam Mô Pháp Thắng Tự Tại Vương Phật

Nam Mô Tu Di Bảo Quang Phật

Nam Mô Tài Thắng Quang Minh Phật

Nam Mô Ưu Đàm Bát La Hoa Thù Thắng Vương Phật

Nam Mô Tu Mạn Na Hoa Quang Minh Phật

Nam Mô Đại Tuệ Lực Vương Phật

Nam Mô A Sơ Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật

Nam Mô Đại Thông Quang Vương Phật

Nam Mô Sơn Hải Tuệ Tự Tại Thông Vương Phật

Nam Mô Kim Hải Quang Minh Phật

Nam Mô Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Hoan Hỷ Vương Phật

Nam Mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả

Đệ tử chúng con, đính lễ chư Phật, tội chướng tiêu trừ, nguyện đời đời kiếp kiếp, thường sinh nơi Phật, hóa sen hóa sinh, thường nghe Chính Pháp, như giáo tu hành, biết được kiếp trước, từng gieo nhân lành, được gặp Đại Thừa, thành bậc Chính Giác.

Hiện tiền đại chúng, nơi đạo tràng này, cần nên biết rằng, người ta ở đời, đạo tràng khó gặp, Phật pháp khó nghe, tín tâm khó phát. Ngày nay chúng ta, nhờ có duyên lành, được sinh nơi này, sáu căn đầy đủ, thân thể khỏe mạnh, tướng mạo đẹp đẽ, ăn mặc không thiếu, được nghe Phật pháp, vậy nên mau mau, phát nguyện tu trì, hiểu thấu diệu lý, cầu chứng Bồ Đề. Bởi vì chúng sinh, tuy sinh cõi này, nhưng các niệm ác, rất dễ phát khởi, mà những thiện niệm, lại rất khó sinh, bởi thế cho nên, không chịu tu hành, không cầu yên vui, vì vậy mà phải, mãi mãi trôi dạt, trong vòng luân hồi, đều bởi sáu căn, tạo nên ba nghiệp, che mất chân tính, không thấy bản tâm, mịt mịt mờ mờ, không hay không biết. Nếu ở kiếp trước, gieo giống Bồ Đề, thì đến kiếp này, tâm liền sáng tỏ, lòng không lười biếng, hăng hái chăm chỉ, dứt trừ tội ác, cầu chứng đạo quả. Nếu có người nào, phát tâm như thế, người đó mới là, thực lòng báo ân.

Kinh Bảo Tích nói: “Người nghe Phật nói, niệm danh hiệu Phật, tụng đọc kinh điển, người ấy diệt được, hằng sa tội chướng; những người bố thí, thụ trì trai giới, không giết sinh linh, thọ mệnh vô cùng, người nào nhẫn nhục, tính tình nhu hòa, được vào chính định; người trừ tham vọng, dứt được phiền não; người biết quán thân, là đồ nhơ nhớp, thì xa bể ái, người tu phạm hạnh, chóng chứng Bồ Đề, người chăm thuyền định, thành bậc Chính Giác.

Đức Phật đã nói, trong con người ta, có mười hai bệnh, bệnh căn sâu nặng, không được thấy Phật. A Nan hỏi Phật: “Đó là bệnh gì?” Đức Phật trả lời: “Không kính cha mẹ, đó là một bệnh; ngu si tạo ác, đó là hai bệnh; gian giảo điêu ngoa, đó là ba bệnh; lời nói hại người, đó là bốn bệnh; hay tìm lỗi người, là bệnh thứ năm; căn bệnh thứ sáu, giết hại chúng sinh; không biết hổ thẹn, đó là bảy bệnh; ham mê sắc dục, là bệnh thứ tám; kiêu ngạo khinh người, đó là chín bệnh; phạm tội không hối, là bệnh thứ mười; khen mình chê người, là bệnh mười một; không biết lợi hại, là bệnh mười hai”.

A Nan lại hỏi: ” Những bệnh như thế, chữa bằng cách nào?”

Đức Phật trả lời: “Dùng thuốc đúng bệnh, sẽ được thuyên giảm. Từ bi hỷ xả, khiêm tốn nhún nhường, tán thán Đại Thừa, nói lời hiền dịu, có lỗi lo đổi, thương người nghèo khó, kính người già cả, người ta chê mình, không giận không tức, khen ngợi người khác, nguyện độ chúng sinh, có oán phải giải, kính trên nhường dưới, đó là phương thuốc, trị những bệnh trên.”

A Nan lại hỏi: “Những thứ thuốc đó, tìm được ở đâu?” Đức Phật trả lời: “Ở núi Tu Di”. A Nan Lại hỏi: “Tu Di là gì?” Đức Phật trả lời: “Là thân người vậy. Hết thảy chúng sinh, đều có sáu nạn: Một là thân người khó được; hai là thân người khó đủ; ba là thiện tâm khó phát; bốn là Chính Pháp khó nghe; năm là trung quốc khó sinh; sáu là Đạo tràng khó gặp.”

Phật nói kệ rằng, giả sử tạo nghiệp, trong trăm nghìn kiếp, nghiệp cũng không mất, đến khi nhân duyên, hòa hợp đầy đủ, thì người gây nghiệp, phải chịu quả báo. Nét mặt tươi vui, đó là cúng dàng, miệng không nói dối, đó là diệu hương, lòng không sân hận, đó là Tịnh Độ, ý không nóng nảy, đó là đạo tràng. Làm người học đạo, mà không biết nhân, suốt ngày bận bịu, ham đắm sắc trần, chỉ biết lấy nước, lau rửa mặt mình, mà không lấy thiện, gột rửa lòng mình, thôi làm mọi điều ác, đó là nhân Tịnh Độ. Dù trí hay ngu, điều cần trước nhất, là bỏ tham sân.

Nếu có người nào, được nghe pháp này, lòng tin bền chặt, tinh tiến tu trì, thường làm hạnh lành, được vui Niết Bàn. Kinh Niết Bàn nói: “Khi Phật còn sống, trong ao Ca La, có một con hến, nghe Phật thuyết pháp, liền bò lên bờ, ẩn trong đám cỏ, lắng nghe Phật nói. Có người chăn trâu, thấy số thính chúng, vây quanh đức Phật, mới chạy đến xem, vì muốn nghe pháp. Trong lúc vội vàng, giẵm lên con hến; nó liền chết nay, và được sinh lên, cõi trời Đao Lợi. Bấy giờ nó nghĩ, mình vốn là hến, vì nhân duyên gì, được sinh lên trời? Bấy giờ người trời, tự biết thân trước, nhờ nghe thuyết pháp, mới được sinh thiên, liền rời cung điện, đến trước chỗ Phật, đính lễ bái tạ. Phật lại nói pháp, cho người ấy nghe, sau khi nghe rồi, chứng được Sơ quả, chỉ nhờ nghe pháp, mà thành Chính Giác. Súc sinh còn thế, huống là thân người, thế nên phải gắng, chăm nghe Phật pháp, một lời vào tai, nhớ nghĩ thật kỹ, sẽ làm hạt giống, đạo quả Bồ Đề, muôn kiếp không dứt; căn lành tăng trưởng, nghiệp ác tiêu dần, phát Bồ Đề tâm, lập chí kiên cố, cầu đạo Vô Thượng, rộng độ chúng sinh, cùng tu đạo quả, cùng chứng Bồ Đề, tinh tiến tu hành, quyết không thoái chuyển, hiểu rõ tự tâm, quyết thành Phật đạo, thoát ly sinh tử, chứng nhập Niết Bàn. Hiện tiền đại chúng, hãy dốc lòng thành, quy mệnh kính lễ, Đức Đại Từ Phụ.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Quá Khứ Đa Bảo Phật

Nam MôThập Phương Phân Thân Chư Phật

Nam Mô Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật

Nam Mô Tam Thế Nhất Thiết Chư Phật

Nam Mô Đại Thông Trí Thắng Phật

Nam Mô Quá Khứ Vô Số Kiếp Nhất Thiết Chư Phật

Nam Mô Vị Lai Hoa Quang Phật

Nam Mô Thập Lục Vương Tử Phật

Nam Mô Cụ Túc Thiên Vạn Quang Tướng Phật

Nam Mô Xá Lợi Bảo Tượng Tháp Phật

Nam Mô Như Lai Toàn Thân Bảo Tháp Phật

Nam Mô Hạ Phương Thượng Hành Đẳng Phật

Nam Mô A Tăng Kỳ Hiền Kiếp Phật

Nam Mô Tam Thừa Hành Phật

Nam Mô Đại Nhạo Thuyết Pháp Phật

Nam Mô Phả Hiện Sắc Thân Quang Minh Phật

Nam Mô Vô Lượng Tuệ Phan Thắng Phật

Nam Mô Chư Căn Thanh Tịnh Phật

Nam Mô Diệu Tuệ Đức Quang Phật

Nam Mô Vô Biên Thân Bồ Tát

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả

Đệ tử chúng con, dốc lòng thành khẩn, cầu xin sám hối, nguyện xin tội chướng, thảy đều tiêu trừ, kiếp kiếp đời đời, được sinh trước Phật, được nghe Chính Pháp, tu hạnh Đại Thừa, rộng độ chúng sinh, cùng thành Chính Giác.

Kinh Pháp Bảo Tạng, có thuật chuyện rằng, cách đây đã lâu, có một vị vua, một hôm du ngoạn, tại khu rừng nọ, thấy con mèo vàng, ở phhía Tây Nam, nhà vua sai người, đuổi bắt con mèo, nó chạy xuống hang, nhà vua lại bảo, đào hang tìm kiếm. Đào được một lúc, thì thấy toàn vàng, chu vi năm dặm, cũng thuần là vàng. Nhà vua thấy lạ, đem chuyện hỏi Phật. Đức Phật bảo rằng, đó là phúc báo, mãi từ kiếp trước. Trong thời Đức Phật Tỳ Bà Thi, có một Tỳ Khưu, ngồi ở bên đường, đặt bát trước mặt, rồi tự nói rằng: “Nếu có người nào, bỏ vào bát này, chút ít tiền của, ngày sau người ấy, trở thành đại phú, tài sản của báu, nước không thể trôi, lửa không thể cháy, vua không phá được, giặc không cướp được”. Đúng ngay lúc ấy, có người tiều phu, có ba đồng tiền, nghe lời ấy rồi, sinh lòng vui mừng, thành tâm phát nguyện, bỏ tiền vào bát, khi về tới nhà, cách đấy năm dặm, lòng càng vui mừng. Người tiều phu ấy, nay là nhà vua. Nhờ cúng ba đồng, mà được phúc báo, vàng ròng năm dặm, được làm ngôi vua, hưởng phúc không hết. Vua nghe Phật nói, mừng rỡ vô cùng, ông liền phát nguyện, thụ trì giới cấm, sau được thành Phật, chứng đại Bồ Đề.

Trong kinh Phật nói, ngoài thành Xá Vệ, có người tịnh nữ. Khi Phật đi qua, dâng cơm cúng Phật, bỏ vào trong bát, rồi lại lễ Phật. Phật chú nguyện rằng, trông một được mười, trông mười được trăm, trông trăm được nghìn, cho đến muôn ức, mãi đến thành Phật. Người chồng không tin, hỏi Phật tại sao, cúng một bát cơm, được nhiều phúc thế, lại được thành Phật? Đức Phật bảo rằng, cũng như có người, trồng cây Ni câu, lúc đầu bé tý, sau rồi cao lớn, hơn bốn mươi dặm, hàng năm thu hoạch, không biết bao nhiêu, huống chi bát cơm, dâng hiến cúng Phật, cũng được phúc báo, nhiều không kể xiết. Người chồng theo vợ, đều được tỏ ngộ, cùng tu đạo quả, đều chứng Bồ Đề.

Theo lời kinh dạy, cố gắng tu trì, tội chướng tiêu trừ, nghiệp căn thanh tịnh, cha mẹ hiện tiền, sống vui trăm tuổi, tổ tiên quá khứ, rũ sạch oan khiên. Nếu tự bản thân, không thể bố thí, nhưng thấy người khác, làm điều phúc thiện, sinh lòng tùy hỷ, cũng được thơm lây. Tất cả mọi người, nên phát thành tâm, cầu mọi phúc đức, để báo ân thâm, cha mẹ hiện tiền, quá khứ thân thuộc, nhờ công đức ấy, đều được vãng sinh, cùng về Tịnh Độ. Đời này nếu chẳng phát tâm, kiếp sau thân người khó được. Nếu có những người, thiện nam thiện nữ, phát tâm sám hối, nguyện báo từ ân, không những cha mẹ, trong đời hiện tại, mà cả lục thân, nghìn kiếp xưa kia, cho đến tất cả chúng sinh, ở trong sáu ngả, ba đường cũng đều được nhờ công đức.

Bởi thế cho nên, hiện tiền đại chúng, hãy phát tâm thành, quy mệnh đính lễ, Đức Đại Từ Phụ của cả thế gian.

Nam Mô Phật Đà Gia

Nam Mô Đạt Ma Gia

Nam Mô Tăng Già Gia

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Thập Phương Chư Phật

Nam Mô Bảo Hoa Đức Phật

Nam Mô Tam Thừa Hành Phật

Nam Mô Quang Minh Đức Phật

Nam Mô Tinh Tiến Quân Phật

Nam Mô Bảo Quang Minh Phật

Nam Mô Vô Cấu Thanh Tịnh Phật

Nam Mô Tinh Tiến Dũng Mãnh Phật

Nam Mô Vô Lượng Quang Minh Phật

Nam Mô Tướng Hảo Uy Đức Phật

Nam Mô Nhật Nguyệt Đăng Minh Phật

Nam Mô Thiện Đức Quang Vương Phật

Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Phật

Nam Mô Vô Ưu Đức Quang Phật

Nam Mô Bất Động Bảo Hoa Vương Phật

Nam Mô Bảo Liên Hoa Quang Phật

Nam Mô Vô Ưu Đức Thường Bảo Minh Phật

Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật

Nam Mô Dũng Thí Lực Phật

Nam Mô Hiền Kiếp Thiên Phật

Nam Mô Thập Phương Hằng Hà Sa Chư Phật

Nam Mô Minh Đức Quang Vương Phật

Nam Mô Bất Hoại Kiên Cố Phật

Nam Mô Bảo Cái Chiếu Không Phật

Nam Mô Kim Cương Bất Hoại Phật

Nam Mô Tinh Tiến Hỷ Phật

Nam Mô Vô Ưu Đức Phật

Nam Mô Bảo Nguyệt Quang Minh Phật

Nam Mô Hiện Vô Ngu Tinh Trí Phật

Nam Mô Long Chủng Thượng Tôn Phả Quang Phật

Nam Mô Dũng Thí Lực Phật

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả

Đệ tử chúng con, phát cung kính tâm, cầu xin sám hối, hết thảy tội ác, tứ trọng ngũ nghịch, nhờ uy lực Phật, đều được tiêu trừ, không dám tạo nữa.

Hiện tiền đại chúng, cần phát tâm lớn, tinh tiến sám trừ, tội căn nhỏ nhiệm, cố tu định huệ, mong cầu cho được,  cáí tâm sáng suốt. Bởi vì lòng người, vốn là huyễn hoặc, tội khó định luận, vả lại thiện ác, chia thành hai đường, thuận nghịch khác nhau. Nếu tạo tội ác, nghịch với Niết Bàn, thuận với sinh tử. Muốn rõ thuận nghịch, lược kể mười tâm:

Một là vô minh, điên đảo mờ mịt, phiền não mê hoặc, xúc cảnh sinh tâm, gây nên tội ác, chịu mọi khổ não;

Hai là gặp gỡ, những bạn xấu xa, bắt chước lẫn nhau, tâm ác càng mạnh, tạo nên tội nghiệp, phải đọa địa ngục, chịu mọi khổ não.

Ba là tự mình, trói buộc tâm mình, tự hủy thiện tâm, ác nghiệp sâu nặng, thiện nghiệp mỏng manh, cho nên làm ác, chịu mọi khổ não.

Bốn là trong ngoài đều đủ, tự chẳng tu thiện, còn phá người khác, đối với việc thiện, lòng không vui mừng, vì thế gây tội, chịu mọi khổ não.

Năm là khinh khi người hiền, tự khen đức mình, sinh tâm kiêu ngạo, không lòng cung kính, vì thế tạo tội, chịu mọi khổ não.

Sáu là ỷ mình giầu có, quyền thế cao sang, phóng túng dông dỡ, tha hồ làm càn, vì thế gây tội, chịu mọi khổ não.

Bảy là không nhận khuyết điểm, che dấu lỗi lầm, bề trong độc ác, ngoài hiện hiền lành, bởi thế gây tội, chịu mọi khổ não.

Tám là thân hình khỏe mạnh, bảo mình không chết, vọng tưởng tham cầu, không sợ nẻo ác, vì thế tạo tội, chịu mọi khổ não.

Chín là ngoan cố hung hãn, càn dỡ thô bạo, không có liêm sỉ, bởi thế gây tội, chịu mọi khổ não.

Mười là bác luật nhân quả, không tin thiện ác, dứt mọi căn lành, thành kẻ bất tín, bởi thế tạo tội, chịu mọi khổ não.

Mười tâm như thế, đều do ba độc, tạo nên kết nghiệp, không ngày giải thoát, hết mê đến mê, từ ám tới ám, mãi đọa địa ngục, không ngày thoát ly. Duy có chư Phật, thương xót chúng sinh, như lũ con đỏ, dùng mọi phương tiện, mở cửa giải thoát, lập ra sám pháp, dựng đạo tràng này, để cho mọi người, giãi bầy sám hối, đổi các lỗi lầm, bỏ ác làm lành.

Có mười tâm thiện, đối trị tâm ác, như dã kể trên, hiện tiền đại chúng, nên phải dốc lòng, chí thành tưởng niệm.

Một là tin luật nhân quả, không hề ngờ vực, làm thiện được phúc, lám ác chịu báo, nhân quả rõ ràng, nghiệp báo không mất. Lòng tin là gốc, người khôn nên nghĩ, tin chắc như tế, mới có ích lợi, tại đạo tràng này.

Hai là phương pháp diệt tội, hổ thẹn là gôc, sám hối là cần, những người hành đạo, một lòng chuyên chú, siêng tu thập thiện, đó là con đường, lợi ích thứ nhất, có thể tiêu trừ, tội ác sâu nặng. Có lòng hổ thẹn, ăn năn lỗi lầm, diệt trừ điên đảo, làm được như thế mới có ích lợi trong đạo tràng này.

Ba là sợ hãi vô thường, thân mệnh người ta, như sương buổi sớm, một mai chết đi, khó lại được nữa. Nếu biết sinh lòng, sợ hãi như thế, không dám tạo ác, cắt đứt nghiệp duyên, hiểu được như vậy, mới có lợi ích, trong đạo tràng này.

Bốn là chí thành giãi bầy, khẩn cầu sám hối, các tội đã gây, từ trước đến nay, thề không làm nữa, không dám dấu diếm. Tỏ bầy như vậy, mới có lợi lộc, trong đạo tràng này.

Năm là dứt hết tâm ác, không cho tiếp tục, không cho nẩy mầm, quyết tâm mạnh mẽ, chính niệm bền bỉ, diệt trừ ác nghiệp, có được như thế, mới là sám hối, tại đạo tràng này.

Sáu là mở lòng Bồ Đề, nguyện cứu hết thảy, cùng vượt bến mê, để sang bờ giác. Tâm nguyện rộng lớn, bao trùm tất cả. Phát tâm như thế, mới có ích lợi, trong đạo tràng này.

Bảy là sửa công lập đức, trong tu trí tuệ là công, ngoài hành tinh tiến là đức; hăng hái chăm chỉ, diệt tâm lười biếng, như thế mới có ích lợi, trong đạo tràng này.

Tám là ủng hộ Chính Pháp, không theo tà sư, cầu cho Phật pháp, tồn tại lâu dài, để làm bè Từ, giữa nơi bể khổ, cứu vớt chúng sinh. Diệt lòng tà kiến, sinh tâm chính tín, mới có lợi lộc, trong đạo tràng này.

Chín là xin mười phương Phật, từ bi gia hộ, giúp đỡ đại chúng, đạo phẩm cao thêm, trí tuệ sáng suốt, thường nhớ ân đức, lập chí báo đền, thường phát từ tâm, cứu giúp hết thảy. Nếu được như thế, mới có lợi ích, tại đạo tràng này.

Mười là quan sát tội tính, vốn nó là không, tội từ tâm sinh, cũng từ tâm diệt, tội phúc không chủ, đều không thể được, không trong, không ngoài, chẳng ở quãng giữa, không phải là thường, cũng không phải đoạn, không có, không không, là pháp vô tác, như như tự tại. Nhưng vì chấp trước, mới gọi tội phúc, xét đến ngọn nguồn, tâm cảnh đều không, vắng lặng bất động. Đó là phá trù cái tâm vô minh chấp trước. Vô minh diệt rồi, sống chết cũng hết. Mười hai nhân duyên, là gốc luân hồi, cũng là khổ tập, gốc của sinh tử. Nhân quả đều mất, Thánh phàm không khác, trí tuệ bình đẳng, sáng suốt tròn đầy, chiếu khắp mười phương. Vì thế nên biết, chư Phật, Bồ Tát, không ngoài tự tính. Trên báo ân Phật, dưới độ chúng sinh, lập nên Đại Đạo, gọi là Như Lai.

Bởi thế cho nên, hiện tiền đại chúng, trang nghiêm cõi Phật, thiết lập đạo tràng, khởi tâm báo ân, lập chí Bồ Đề, dốc lòng quy mệnh, đính lễ Đức Đại Từ Phụ của cả thế gian.

Nam Mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

Nam Mô Thanh Tịnh Bảo Quang Minh Phật

Nam Mô Tỳ Bà Thi Phật

Nam Mô Thủy Thiên Diệu Bảo Vương Phật

Nam Mô Tâm Kiên Cố Đức Phật

Nam Mô Vô Lượng Cúc Quang Phật

Nam Mô Chiên Đàn Công Đức Vương Phật

Nam Mô Na La Duyên Phật

Nam Mô Quang Minh Phả Đức Phật

Nam Mô Vô Biên Trí Tuệ Phật

Nam Mô Tịnh Vô Cấu Phật

Nam Mô Vô Ưu Đức Phật

Nam Mô Liên Hoa Bảo Quang Phật

Nam Mô Du Bộ Diệu Bảo Minh Phật

Nam Mô Chu Táp Trang Nghiêm Công Đức Phật

Nam Mô Liên Hoa Thiện Trụ Sa La Thụ Vương Phật

Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát

Nam Mô Thập Phương Chư Dại Bồ Tát

Nam Mô Địa Tạng Vương Bồ Tát

Nam Mô Đại Mục Liên Tôn Giả

Đệ tử chúng con, dốc lòng sám hối, nguyện xin tiêu trừ, tất cả tội chướng. Mười phương chư Phật, chân thực thấy biết, ba cõi chúng sinh, vốn vẫn trong sạch, những chỗ Phật ở, thường được gọi là: cõi Thường Tịch Quang. Mười phương chư Phật, tiếng pháp không dứt, Tỳ Lô Giá Na, thường phóng hào quang, soi nơi u ám, cũng như vừng trăng, trên mặt biển cả, như vừng mặt trời, giữa chốn không trung. Vậy mà chúng con không biết, vọng chấp mình người, bởi thế cho nên, trong pháp bình đẳng, mà khởi phân biệt, trong tâm thanh tịnh, lại sinh nhiễm trước. Chỉ vì điên đảo, đắm say năm dục, sống chết vòng quanh, trôi nổi không dứt, gây các nghiệp ác, chẳng làm điều lành, tạo tội ngũ nghịch, chấp theo tà kiến, dèm chê kinh điển, phỉ báng Phật pháp, nhục mạ người tu, ăn cắp của người, làm điều bất chính, không kính cha mẹ, chẳng hòa anh em, không biết hổ thẹn. Lúc sống gây tội, khi chết đọa ngục, lửa mạnh đốt cháy, dao sắc cắt da, kiếm nhọn đâm mình. Một đời tạo ác, muôn kiếp chịu khổ, lúc gây nên nghiệp, thì chẳng biết gì, nhưng khi chịu khổ, tỉnh táo biết hết, dù có ăn năn, thì cũng muộn rồi.

Vậy nên đại chúng, hiện ở nơi đây phải biết sợ hãi, mở lòng Bồ Đề, hối tội ba đời, niệm mười phương Phật, vì cứu chúng ta, tu đạo Bồ Đề, nói pháp bình đẳng, mở đường phương tiện. Gây được một chút thiện nghiệp, diệt được tội chướng muôn kiếp, thoát cảnh địa ngục, sinh về cõi lành, vào cửa chính tín, được về Cực Lạc. Hiện tiền đại chúng, lại nên chí thành, quy mệnh đính lễ, mười phương chư Phật, hết thảy Hiền Thánh, Thiên long Bát bộ, xin cùng gíúp sức.

Lại nguyện chúng con cố gắng tu hành, cõi đất nước này, mưa hòa gió thuận, thóc lúa xanh tốt, chính trị công bằng, nhân dân no ấm, trăm họ bình yên. Đàn việt tín thí, cha mẹ sư trưởng, tiên tổ bao kiếp, lục thân quyến thuộc, pháp giới chúng sinh, đều về chính tín, cùng chứng Bồ Đề.

Lại nguyện đệ tử chúng con, nhờ uy đức Phật, thường gặp Đại Thừa, thường nghe Chính Pháp, tỏ ngộ Phật tâm, chính niệm hiện tiền, hoằng dương Đại Thừa, rộng độ chúng sinh, thắp ngọn đuốc tuệ, soi chỗ tối tăm, dắt dẫn chúng sinh, khỏi chốn mê mờ, về nơi Chính Giác.

Nam Mô Cầu Sám Hối Bồ Tát Ma Ha tát. (3 lần)

 

QUYỂN THỨ NHẤT

---HẾT---

 

CỬ TÁN

Mục Liên Tôn Giả, thay Phật tuyên hành, gậy vàng vừa gõ, cửa ngục tự mở.

Mọi người thoát tội, Tịnh Độ hóa sinh, phúc tuệ mãi an lành.

Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát Ma Ha Tát. (3 lần)

(Nguồn: NXB Tôn giáo 2003)


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6408091
Số người trực tuyến: