10. Bài thứ mười | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

10. Bài thứ mười

Bài thứ mười


I. A NAN THUẬT LẠI CHỖ MÌNH ĐÃ NGỘ VÀ THỈNH PHẬT CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU HÀNH ĐỂ NHẬP CHÂN TÂM

Ông A Nan và đại chúng được Phật dạy bảo rất tường tận, nên các điều nghi lầm đã trừ hết, ngộ được chân tâm (thật tướng), nhưng chưa biết làm sao chứng nhập, nên các ông cúi đầu lạy Phật, chắp tay kính cẩn thưa rằng:

- Bạch Thế Tôn, Ngài đã dùng đủ phương tiện dẫn dắt chúng con ra khỏi sông mê bể khổ. Hôm nay, chúng con tuy ngộ được chân tâm của mình, biến khắp cả mười phương thế giới, nhưng còn bị Như Lai quở trách, học nhiều mà không tu, chẳng bằng người lo tu tập.

Nay chúng con cũng như người bần cùng vất vả, được vị Thiên Vương ban cho cái nhà lầu tốt đẹp, song chưa biết làm sao vào nhà. Cúi xin đức Như Lai chỉ dạy cho chúng con, được vào tri kiến của Phật (chứng nhập chân tâm).

II. PHẬT CHỈ DẠY PHƯƠNG PHÁP TU

Phật dạy A Nan và đại chúng:

- Các ông nếu phát tâm Bồ đề, đối với các pháp môn tu hành chí quyết tăng tấn, tâm không giải đãi thì khi mới phát tâm, trước phải phân biệt rành rõ hai nghĩa quyết định.

III. NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ NHẤT

- Này A Nan! Các ông muốn bỏ Tiểu thừa Thanh văn, tu theo Ðại thừa Bồ tát, vào tri kiến của Phật, thì trước phải quan sát cái nhân địa phát tâm cùng với quả vị sẽ chứng là đồng hay khác?

Nếu các ông dùng cái vọng tâm sinh diệt làm nhân tu hành, mà mong cầu cho đặng quả Phật thường còn không sinh diệt, thì không thể được. Ðây là điều quyết định thứ nhất.

Lược giải:

Ðoạn trước Phật đã dạy: Nếu dùng vọng tâm làm tu nhân, mà muốn đặng quả thường trụ, thì như người nấu cát muốn cho thành cơm, dầu trải qua bao nhiêu kiếp cũng không thể được. Hành giả phải an trụ nơi chân tâm làm nhân địa tu hành, thì mới đặng quả Phật bất sinh bất diệt.

***

- A Nan! Ông hãy xét coi: trong thế gian những vật gì có làm ra, đều phải hoại diệt, chứ chưa từng nghe cái hư không có hoại diệt bao giờ, vì hư không không phải là vật bị làm ra vậy (hư không dụ chân tâm, các vật là dụ vọng tâm có sinh diệt).

Xét lại trong thân ông, những vật cứng dẻo (da, thịt, gân, xương) là đất; những vật đượm ướt (máu, huyết, mồ hôi, mỡ) là nước; chất ấm, nóng trong người thuộc về lửa; những vật lưu động (hơi thở ra vào) là thuộc về gió. Do bốn món này nó triền phược và phân chia cái chân tâm của ông, thành ra có thấy, nghe, hay, biết, từ thủy chí chung năm lớp ngầu đục (ngũ trược).

Tỷ dụ như nước đang trong sạch, có người lấy bụi đất quăng vào, thì đất sẽ mất chất cứng, còn nước mất chất trong sạch, trở thành ngầu đục, nên gọi là ô trược.

A Nan! Nay ông muốn cho cái thấy, nghe, hay, biết (các giác quan) trở lại để hiệp với bốn đức Niết bàn của Như Lai: thường, lạc, ngã, tịnh, thì trước ông phải lựa ra cái gốc rễ sinh tử (vọng tâm) và y theo chân tâm thanh tịnh viên mãn bất sinh bất diệt làm nhân địa tu hành.

Lược giải:

Vì còn ở trong vòng mê nên gọi là các giác quan: thấy, nghe, hay, biết; đến khi ngộ rồi thì các giác quan này trở lại thành bốn đức Niết bàn: thường, lạc, ngã, tịnh.

Chúng ta cũng nên phân biệt cho rõ nghĩa: 1. chân tâm, 2. các giác quan, 3. vọng niệm phân biệt. Như nước biển trong veo (dụ chân tâm), chảy vào các sông ngòi lẫn lộn bùn đục (dụ cho chân tâm lưu lộ nơi các căn, thành các giác quan; “đục” là dụ còn ở nơi mé) nổi sóng ba đào (dụ cho vọng niệm phân biệt).

***

- Các ông hãy xoay cái hư vọng sinh diệt trở lại chân tâm thanh tịnh không sinh diệt; phải lấy chân tâm không sinh diệt này làm nhân địa tu hành, thì sau mới chứng được quả Phật thường trụ.

Cách tu hành cũng như lóng nước. Nước đục để yên tịnh trong một cái bình, để lâu thì những bụi cát từ từ chìm lặn, mà nước trong hiện ra; hễ càng yên tịnh thì nước càng trong. Ðây là dụ cho giai đoạn thứ nhất, khi mới hàng phục được phiền não khách trần (phiền não vừa lặng). Ðến chừng lọc bỏ cặn đục chỉ còn toàn là nước trong, là dụ cho giai đoạn thứ hai, khi đã đoạn trừ căn bản vô minh.

Ðến khi chỉ còn hoàn toàn là nước trong, thì dù lắc cho mấy nó cũng vẫn trong. Còn khi đoạn được căn bản vô minh, chỉ còn chân tâm thanh tịnh hiện tiền, lúc bấy giờ dầu có tạo tác đủ mọi việc, song cũng đều là chân, vẫn hiệp với đức tính thanh tịnh mầu nhiệm của Niết bàn, không còn bị phiền não nhiễu loạn.

Lược giải:

Ðoạn này hay lắm; Phật dạy lối tu rất rõ ràng và thật tế. Hiệp với đoạn trước Phật dạy: “Khi đối cảnh không khởi phân biệt, thì vọng niệm chẳng sinh. Vọng niệm không sinh thời chân tâm tự hiện”.

Cũng như nước đứng trong, thì cặn cáu lóng chìm. Lóng càng lâu thì nước càng trong. Ðến khi dứt sạch căn bản vô minh, chỉ còn toàn thể chân tâm, thì hành động thi vi chi cũng đều là thanh tịnh. Nên kinh nói: “Như Lai án túc hải ấn phát quang v.v…” (Phật vừa để chân, thì biển trong in ánh sáng). Như nước đã lọc bỏ cặn rồi thì lắc mấy cũng vẫn trong. Ðoạn này cũng chỉ rõ cái nghĩa “thành Phật rồi không trở lại làm chúng sinh”.

Các đạo khác tu hành dẫu cao siêu cho mấy, chẳng qua cũng như nước lóng mà chưa lọc bỏ được cặn.  Lâu lâu phiền não nổi lên, thì phải đọa trở lại, nên gọi là hữu lậu (còn sa rớt).

IV. NGHĨA QUYẾT ĐỊNH THỨ HAI

- A Nan, các ông phát tâm dũng mãnh, quyết định dẹp trừ các tướng hữu vi, cầu quả đại thừa, thì cần phải xét rõ gốc rễ của phiền não: Từ vô thủy đến nay, cái nào là phát nghiệp vô minh (bất giác vọng động) cái nào nhuận sinh vô minh (ái, thủ) cái gì tạo (lục thức), cái gì lãnh thọ (bát thức). Ðây là nghĩa quyết định thứ hai.

Các ông tu đạo Bồ đề, nếu không xét rõ gốc rễ của phiền não, thì đối với căn và trần hư vọng này, không thể biết được cái “điên đảo” ở chỗ nào. Cái chỗ ở còn không biết thời làm sao hàng phục được giặc phiền não để chứng quả Phật.

Các ông hãy xem trong thế gian, những người mở gút, nếu họ chẳng thấy được mối, thì không mong gì mở được. Chưa từng nghe cái hư không bị ai mở được, vì hư không vô hình chẳng có gút và mở vậy (hư không dụ cho chân tâm).

Ông nên hiểu: hiện tiền sáu căn của ông đây: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, chúng làm mai mối cho sáu giặc (sáu thức), đến cướp giật của báu nhà ông. Bởi thế nên các ông cùng tất cả chúng sinh, từ vô thủy đến nay bị triền phược trong vòng luân hồi, không vượt ra ngoài ba cõi được.

Lược giải:

Vì sáu căn làm mai mối, dẫn chúng sinh ra sáu thức là lục tặc, cướp hại chân tính. Nghĩa là vì căn đối với cảnh, khởi vọng niệm phân biệt, nên chân tâm phải bị mờ. Cũng như gió xao động, cặn cáu nổi lên, nên tính nước trong phải ẩn.

V. VÌ VỌNG NỔI LÊN NÊN CHÂN TÂM BỊ ẨN

- Này A Nan, sáu căn của ông như vậy, do vô minh vọng động nổi lên, nên chân tâm bị ẩn. Từ đây về sau, mỗi khi chiếu soi thì gồm cả vọng đều phát.

Bởi thế nên rời tối và sáng, thời mắt ông không thấy, rời động và tĩnh thì tai ông không nghe, rời thông và nghẹt thì mũi ông không ngửi, rời các vị ra thời lưỡi ông không nếm, rời các xúc trần thì thân ông không biết, rời cả pháp trần thì ý ông không phân biệt.

VI. XOAY VỌNG VỀ CHÂN THÌ SÁU CĂN ĐƯỢC TỰ TẠI

- Chỉ sáu căn của ông không theo sáu trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt, tùy ông mở gút (vọng nhiễm) được một căn nào thì các căn đều được giải thoát. Nghĩa là ngoài không cùng với trần cảnh gút chặt, trong thâu phục phiền não trở lại với chân tâm sáng suốt, thì năm căn bị gút chặt kia cũng đều được hoàn toàn giải thoát. Lúc bấy giờ sáu căn tự tại, thay nhau cần dùng, các giác quan: thấy, nghe, hay, biết, không còn bị cuộc hạn nơi các căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, v.v... chỉ nương các căn phát ra tác dụng; không cần có trần cảnh đối chiếu mà cũng vẫn thấy, nghe, hay, biết.

VII. DẪN CHỨNG CÁC VỊ THẤY, NGHE, HAY, BIẾT ĐƯỢC TỰ TẠI, KHÔNG CÒN BỊ CUỘC HẠN NƠI CĂN

- A Nan! Ông đã thấy trong hội này, như ông A Na Luật Ðà không có con mắt mà vẫn thấy. Rồng Bạt Nan Ðà không lỗ tai mà vẫn nghe. Thần nữ Căn Dà không lỗ mũi mà ngửi được mùi. Ông Kiều Phạm Bác Ðề cái lưỡi không phải lưỡi người, mà biết được các món ăn của người. Ông Thần Thuấn Nhã Ða không có thân mà vẫn biết xúc. Ông Ma Ha Ca Diếp tu diệt tận định, dứt trừ ý căn đã lâu, mà vẫn phân biệt được rõ ràng.

A Nan! Hiện nay các căn của ông nếu hoàn toàn gỡ hết cái gút chặt nơi trần cảnh (không theo trần cảnh phân biệt) trong chinh phục được phiền não, trở về với chân tâm rồi thì hiện tiền thân căn và thế giới đây đều không còn; cũng như nước nóng băng tan, ông liền chứng được quả Phật.

A Nan! Như người thế gian, cái thấy của họ chỉ gom ở con mắt. Nếu bảo họ nhắm mắt lại, thì hiện tiền tối đen, sáu căn mờ mịt, đầu chân in nhau. Người kia lấy tay rờ khắp cả thân thể, tuy mắt họ không thấy, mà cũng vẫn biết đâu là đầu và đâu là chân; cái hiểu biết đồng nhau (đây cũng là một bằng chứng: các giác quan chẳng bị cuộc hạn nơi căn và trần).

A Nan, nhân sáng mới thấy, nếu tối thời không thấy. Nay không cần sáng mà cũng thấy biết, như thế thì cái tối kia không thể làm mờ (mất) cái “thấy biết” của ông được. Căn và trần các vọng đã tiêu rồi, thì liền trở lại với chân tính.

VIII. A NAN NGHI: CÁC GIÁC QUAN HIỆN TIỀN LÀ VỌNG, TẠI SAO PHẬT LẠI DẠY NƯƠNG NƠI ĐÓ LÀM NHÂN ĐỊA TU HÀNH, ĐỂ CHỨNG ĐẶNG QUẢ PHẬT CHÂN THẬT

A Nan thưa:

- Bạch Thế Tôn, như lời Phật dạy: “Muốn cầu quả Phật thường còn, thì cái nhân địa phát tâm tu hành phải chân thật, mới chứng được quả vị chân thật”.

Bạch Thế Tôn! Bồ đề, Niết bàn, Chân như, Pháp tính, Yên-ma-la thức, Không Như Lai tạng và Ðại viên cảnh trí, bảy danh từ tuy khác, chứ cũng đồng một quả Phật thanh tịnh thường còn không hoại.

Còn cái thấy, nghe, hay, biết, các giác quan của con đây, nếu rời các trần cảnh hiện tiền: tối, sáng, động, tịnh, v.v…, thời không còn thấy, nghe, hay, biết nữa. Quanh quẩn tới lui, chín chắn suy tìm, thì cái tâm của con hoàn toàn không chân thật. Tại làm sao Phật lại dạy lấy cái hư vọng đoạn diệt này làm nhân tu, để cầu quả Phật thường còn không sinh diệt cho được. Vậy thì lời nói của Phật trước sau trái nhau, làm sao gọi là “Như Lai nói thật”, xin đức Từ tôn, từ bi vén mở chỗ mê mờ cho chúng con.

IX. PHẬT BẢO ĐÁNH CHUÔNG ĐỂ CHỨNG NGHIỆM “TÍNH NGHE” THƯỜNG CÒN

Phật dạy:

- A Nan, ông tuy học rộng, nghe nhiều, nhưng các phiền não hữu lậu (mê lầm) chưa hết, nên ông chỉ biết suông cái tên “điên đảo”. Ðến lúc cái “điên đảo” thật hiện tiền, thì ông lại không biết. Như thế thì sự tin hiểu của ông chưa được chắc chắn. Tôi nay đem những việc thường trong đời, để trừ các nghi lầm cho ông.

Khi đó Phật liền bảo ông La Hầu La đánh một tiếng chuông, rồi hỏi ông A Nan rằng:

- Ông có nghe không?

A Nan thưa:

- Nghe.

Ðến lúc chuông hết ngân, Phật lại hỏi:

- Ông có nghe không?

A Nan thưa:

- Không nghe.

Phật lại bảo ông La Hầu La đánh lại một tiếng chuông nữa và hỏi:

- Ông có nghe không?

A Nan đáp:

- Nghe.

Phật hỏi:

- Thế nào là nghe và thế nào là không nghe?

A Nan thưa:

- Vì đánh chuông có tiếng ngân, nên con nghe, đến khi tiếng chuông hết ngân thì con không nghe.

Phật dạy:

- A Nan! Khi tiếng chuông hết ngân, ông nói rằng: “không nghe”; nếu ông thật không có “cái nghe” thì ông đồng như cây đá, tại sao khi đánh tiếng chuông thứ hai, ông lại có nghe?

Vậy cho biết: cái “tiếng” (cảnh) khi có khi không, chớ cái “nghe” (tâm) của ông lúc nào cũng có. Nếu cái “nghe” của ông thật không, thì cái gì biết được “không nghe” đó?

Thế nên ông phải biết: cái “tiếng” đối với cái “nghe” thì cái “tiếng” nó tự sinh và diệt, chớ ở cái “nghe” (tâm) của ông, không phải vì tiếng sinh mà nó “có”, tiếng diệt mà nó “không”. Tại ông điên đảo hôn mê, nhận cái “thường” (tính nghe) làm đoạn diệt (tiếng), chớ không phải rời sáu trần cảnh: sắc, thanh, hương, v.v... mà các giác quan thấy, nghe, hay, biết của ông không có.

Lược giải:

Ðây là lần thứ bảy, Phật chỉ rất rõ ràng các giác quan: thấy, nghe, v.v... là tâm và thường còn.

X. PHẬT CHỈ KHI NGỦ, CÁI “NGHE” CŨNG KHÔNG MẤT

- Bằng chứng thứ hai: Như người đang ngủ, nằm trên giường chõng, trong nhà có người giã gạo, khi đó người ngủ kia mơ màng, tưởng là tiếng trống hoặc tiếng chuông, đến chừng thức dậy rồi mới nhận rõ đó là tiếng chày giã gạo.

A Nan! Người ngủ kia, mặc dù đối với cảnh vật hiện tiền, họ không thấy biết, mà cái “nghe” của họ cũng không mất.

Dù cho thân thể ông đến khi già chết tiêu tan, mà cái “tính nghe” này cũng không vì ông già, chết đó mà tiêu diệt. Bởi chúng sinh từ vô thủy đến giờ, cứ theo các trần cảnh, khởi vọng niệm phân biệt lăng xăng, chưa từng ngộ được chân tâm thường còn của mình.

Vì cứ nương theo vọng niệm phân biệt, chẳng nương theo chân tâm thường trụ, cho nên đời đời nhiễm ô, trôi lăn trong vòng sinh tử. Vậy các ông phải bỏ cái vọng niệm sinh diệt, theo về với chân tâm thường trụ.  Khi chân tâm thanh tịnh sáng suốt hiện tiền rồi, thì căn thân, trần cảnh và vọng tức thức thời tiêu diệt. Cảnh vọng trần và tâm cấu nhiễm đã tiêu rồi, lúc bấy giờ lo gì chẳng thành quả Phật vô thượng

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 5671037
Số người trực tuyến: