Tại sao phải chắp tay khi lễ Phật?
Ý nghĩa chắp tay trong nghi thức Phật giáo
Trong nghi thức hằng ngày, khi lễ Phật, khi chào nhau, người Phật tử thường chắp tay và niệm Phật. Hành động chắp tay đó trong Phật giáo gọi là hợp thập (hay ấn Liên hoa). Chắp tay được biểu hiện bằng hình thức: Hai bàn tay úp vào nhau, các ngón tay khít lại, lòng bàn tay rỗng không, trông như hình chiếc búp sen sắp nở.
Thực ra, hành động chắp tay không chỉ xuất hiện từ khi Phật giáo ra đời, mà trước đó, trong xã hội Ấn Độ cổ người Ấn Độ có quan niệm: Tay phải là tay thần thánh, dành cho thần thánh, trong sạch và linh thiêng, tay trái là tay nhiễm ô, bất tịnh, trần tục. Chắp tay tượng trưng cho sự hợp nhất thánh thiện và nhiễm ô, dung thông thần thánh và trần tục. Phật giáo đã phát triển truyền thống này của Ấn Độ thành hợp thập. Theo tinh thần Phật giáo, hai bàn tay chắp lại trước ngực, biểu thị lòng tôn kính, sự tập trung tư tưởng, thiền định, nhất tâm, tán dương và ca ngợi. Đồng thời, kế thừa và phát triển tư tưởng truyền thống, quan điểm đạo Phật cho rằng, chắp tay có ý nghĩa dung hợp các phạm trù đối lập, biểu thị thật tướng của vũ trụ vạn pháp, tìm về với bản nguyên chân diện mục của pháp giới.
Chỉ riêng về ấn Liên hoa này, giáo lý Phật giáo đã nhắc đến trong nhiều Kinh điển. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phương Tiện, dạy: “Cung kính hợp thập lễ”, chắp tay là thể hiện sự kính lễ được phát khởi.
Tiếp đến, trong Quán Vô Lượng thọ Kinh nói, chắp tay biểu thị cho sự ca ngợi, tán thán công đức chư Phật và chư Bồ tát.
Theo Kinh Đại Nhật, tay phải tượng trưng cho Tuệ, tay trái tượng trưng cho Định, chắp tay biểu trưng cho Định và Tuệ nhất như, đồng hiện. Mười ngón tay tiêu biểu cho mười pháp giới. Quán tưởng thập pháp giới trong hai bàn tay úy lại. Chắp tay chính là thâu nhiếp loạn tâm, tập trung tư tưởng nhất tâm hướng Phật, tâm và hành thống nhất, lý và sự tương ứng. Chỉ là một cái chắp tay nhưng thâu nhiếp tất cả giáo lý Phật Đà. Nếu chắp tay mà tâm tĩnh tại, không tán loạn, thiền định, dẹp bỏ mọi tạp niệm, quán tưởng Như Lai, thấy được vạn pháp dung thông, bất nhị ấy là đã chứng nhập vào cảnh giới Niết Bàn.
Đức Phật Quan Âm Tứ Thủ
Trong Đại Nhật Kinh sớ, quyển 13, nói đến 12 loại hợp thập:
1- Kiên thực tâm hợp thập,
2- Không tâm hợp thập,
3- Vi khai liên hoa hợp thập,
4- Sơ cát liên hoa hợp thập,
5- Hiển lộ hợp thập,
6- Trì thủy hợp thập,
7- Quy mạng hợp thập,
8- Phản xoa hợp thập,
9- Phản bối hỗ tương hợp thập,
10- Hoành trụ chỉ hợp thập,
11- Phúc thủ hương hạ hợp thập,
12- Phúc thủ hợp thập.
Trong hai bàn tay của chúng ta, bàn tay trái nêu biểu cho trí tuệ còn bàn tay phải nêu biểu cho phương tiện thiện xảo hay còn gọi là tình yêu thương. Bàn tay trái còn nêu biểu cho tâm của chúng ta, bàn tay phải nêu biểu cho tâm Phật.
Năm ngón của bàn tay trái nêu biểu cho năm Phật mẫu trí tuệ, năm ngón của bàn tay phải nêu biểu cho Ngũ trí Phật. Đồng thời năm ngón tay còn nêu biểu cho địa, thủy, hỏa, phong, không đại. Mười ngón tay nêu biểu cho trí tuệ Phật, nêu biểu cho các công hạnh Ba la mật, nêu biểu cho sự hình thành của vũ trụ.
Vì vậy sự kết hợp của hai bàn tay định tuệ hay hai bàn tay trí tuệ và phương tiện này tạo nên sự chuyển động của vũ trụ, chuyển động của pháp giới và trở thành những bản thệ nguyện của chư Phật.
Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn
Khi vào chùa, việc chắp tay chào sư Thầy hay huynh đệ chính là chúng ta trân trọng, kính Phật ở nơi mỗi người. Mỗi khi chắp tay phải tự ý thức đây là sự hợp nhất giữa tính Phật và tự tính tâm của mình và trân trọng những vị Phật tử hay những vị sư mà mình gặp. Người đối diện mình đây có thể là một con người bình thường, hay một vị tu hành mật hạnh, biết đâu là một vị Bồ tát thị hiện..., nên chắp tay xá chào người là hành động không chỉ thể hiện sự khiêm từ, kiệm đức, mà còn là sự cung kính trước một chủng tử Bồ Đề, một hiện thân của chư Phật, một con người có hạt giống tâm thiện lành có thể sẽ thành Phật trong kiếp vị lai.
Với những người sơ cơ trên đường Đạo, thì chắp tay chào hỏi còn mang ý nghĩa khuyến tấn, thức tỉnh "búp sen xin tặng người, một vi Phật tương lai". Như vậy, ngoài ý nghĩa kết ấn, hợp thập còn mang nét đẹp văn hóa sâu sắc, đặc thù của Phật giáo.
Tôn tượng Đức Phật Quan Âm Tứ Thủ
Trên các bức tranh Thangka, tôn tượng, phù điêu, họa ảnh… về Phật giáo ta thường hay bắt gặp hình ảnh chư Phật, chư Bồ tát… kết ấn Liên hoa. Như hình ảnh Đức Phật Quan Âm Tứ Thủ: Đức Quan Âm là hiện thân vô ngại của sự thanh tịnh thuần khiết, của lòng từ bi, tình yêu thương và trí tuệ với bản nguyện khai mở, hiển lộ Bồ đề tâm và công đức đại bi sẵn có nơi tâm tất cả hữu tình. Đức Quan Âm Tứ Thủ có một mặt bốn tay nêu biểu sự chứng ngộ Tứ vô lượng Tâm, hai tay phía trước kết ấn Liên hoa trì giữ ngọc Như ý thể hiện năng lực của lòng từ bi và trí tuệ hiểu biết có thể viên mãn mọi tâm nguyện của chúng sinh, giúp mọi ước nguyện thế gian và xuất thế gian đều được vẹn toàn như ý.
Đức Phật Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn
18 Lời nguyện của Đức Phật Quan Âm
Núi đao tức thời liền sụp đổ
Nước sôi lửa cháy tự khô tắt
Địa ngục liền tự khắc tiên tan
Ngạ quỷ liền tự được no đủ
Ác tâm Tu La tự điều phục
Súc sinh tự được trí tuệ lớn
Người liền khai phát tâm Bồ Đề
Trời liền xả dục siêng tu Phật!
Nhóm ĐBT sưu tầm
- 3977
Viết bình luận