Những trở ngại do vọng tưởng trên con đường giải thoát
Vào thời Đức Phật giáo hóa chúng sinh ở thành Phong Đức, bấy giờ cách thành 500 dặm có một ngọn núi. Nơi đây có một thôn làng với khoảng 50 đến 60 hộ gia đình đang sinh sống. Trong thôn có một gia đình nghèo, người vợ mang thai mười tháng và sinh đôi được hai đứa con trai rất tuấn tú khôi ngô. Cha mẹ hết mực thương yêu và liền đặt tên cho chúng. Một đứa tên là Song Đức, còn đứa kia tên Song Phước.
Khoảng 50 đến 60 ngày sau đó, có một hôm người cha của chúng lùa trâu trở về và nằm nghỉ trên giường, còn người mẹ của chúng thì ra đồng nhặt củi chưa về. Khi ấy hai đứa bé này liếc trái nhìn phải mà không thấy cha mẹ nên chúng liền than trách với nhau.
Một đứa bé nói rằng:
"Ở đời trước khi sắp đắc Đạo, mình ngồi ngay thẳng và khởi niệm ngu si mà bảo rằng thọ mạng là thường còn, nên phải đọa sinh tử nhiều không thể tính kể số kiếp. Mãi cho đến nay mới được sinh làm con trong gia đình bần cùng, ở trong nhà tranh, mặc áo vải thô để che thân, và dùng thức ăn nước uống đạm bạc mà nuôi sống. Cứ như thế thì đến bao giờ mới đắc Đạo? Đây đều là do ở đời trước tham luyến phú quý và buông thả thân tâm. Vui sướng chỉ một lát mà từ đó đến nay luôn mãi chịu khổ. Hôm nay ưu sầu khổ não và cũng chẳng biết nơi nào để cậy trông".
Một đứa bé khác nói rằng:
"Còn mình ở lúc trẻ ưa thích vui chơi mà chẳng tinh tấn tu hành, nên khiến cho nhiều đời phải tao ngộ biết bao khổ nạn. Đây đều là do mình tự làm, chứ chẳng phải do cha mẹ làm. Bây giờ chúng ta cùng chung thọ báo, thử hỏi trách ai được đây?".
Khi nghe hai đứa con than thở như thế, người cha vô cùng kinh hãi và cho là quỷ đến gieo rắc tai ương.
Ông nghĩ:
"Làm sao hai đứa bé chỉ sinh mới vài chục ngày mà có thể nói ra những lời đó? E rằng về sau chúng sẽ giết hại thân tộc. Thừa lúc chúng còn nhỏ chưa lớn, mình hãy giết chúng đi"
Và thế là, người cha kinh hoàng chạy ra ngoài và đóng cửa lại. Rồi ông ra đồng lấy củi và muốn thiêu chết chúng.
Đúng lúc cô vợ trở về, khi thấy thế nên hỏi chồng rằng:
"Anh định lấy củi này để làm gì?".
Người chồng trả lời:
"Thật hết sức kinh quái! Hai đứa con của chúng ta đã tâm sự với nhau. Đó chắc chắn là quỷ đến để phá hoại gia tộc. Thừa lúc chúng còn nhỏ, anh muốn thiêu chết chúng".
Khi cô vợ nghe thế, trong lòng ngạc nhiên và do dự chưa tin. Hai vợ chồng quyết định đợi thêm vài ngày nữa để nghe lén chúng nói chuyện. Đến ngày hôm sau, hai vợ chồng giả vờ cùng ra ngoài, rồi núp lại để nghe ngóng. Quả nhiên hai đứa trẻ ở trong nhà cũng lại than trách lẫn nhau như trước đây. Khi nghe được chúng nói chuyện với nhau thêm một lần nữa, hai vợ chồng hết sức kinh quái. Họ liền cùng nhau âm thầm chất củi và muốn thiêu sống chúng.
Với Thiên Nhãn Thông, Đức Phật nhìn thấy hai vợ chồng này muốn thiêu chết hai đứa con của mình. Với lòng thương xót và do biết phước đức của hai đứa bé ở đời trước đáng được hóa độ, Ngài đi đến thôn đó, rồi phóng quang minh chiếu sáng khắp nơi. Bấy giờ trời đất chấn động mạnh; sông núi và tất cả cây cối đều thành màu vàng. Khắp kẻ lớn người nhỏ trong thôn đều kinh ngạc và cùng đến chỗ của Phật, rồi đỉnh lễ Phật và không ai là chẳng hoan hỷ. Họ biết Đức Phật là bậc chí tôn, không một ai trong ba cõi có thể sánh bằng.
Sau đó Đức Phật đến nhà của hai đứa bé song sinh. Khi thấy quang minh của Phật, hai đứa bé vui mừng khôn xiết. Cha mẹ của chúng cũng kinh ngạc, rồi mỗi người bồng một đứa bé đến trước chỗ của Phật.
Họ hỏi Đức Phật Thế Tôn rằng:
"Thưa Thế Tôn! Hai đứa bé này mới lọt lòng khoảng 50 đến 60 ngày mà đã nói chuyện với nhau. Đây quả thật là điều kỳ quái. Chúng con sợ chúng sẽ gây tai họa cho gia tộc nên định dùng lửa thiêu chết. Đúng lúc Phật đến đây và còn chưa kịp thiêu, chúng con không biết hai đứa bé này là yêu tinh quỷ quái phương nào? Kính mong Thế Tôn hãy nói ra hai đứa bé này sẽ mang đến tai vạ gì?".
Khi thấy Phật, hai đứa bé vui mừng hớn hở. Khi Đức Phật nhìn thấy hai đứa bé, Ngài mỉm cười. Bấy giờ từ trong miệng của Phật có ánh sáng năm màu phóng ra và chiếu sáng khắp đất trời.
Phật bảo cha mẹ của hai đứa bé và toàn thể dân làng rằng:
"Hai đứa bé này không phải là yêu ma quỷ quái, mà là hai đứa con phước đức. Vào thời của Đức Phật Ẩm Quang, hai đứa bé này đã từng làm Đạo Nhân. Họ là đôi bạn từ thuở nhỏ và đồng chí hướng xuất gia tu Đạo. Ai nấy đều rất tinh tấn và sắp sửa đắc Đạo, nhưng bỗng nhiên họ dấy khởi vọng tưởng nên cả hai đều bị trở ngại. Họ khởi vọng tưởng yêu thích vinh hoa của thế gian, nghĩ tưởng nương nhờ phước đức để sinh lên trời, hoặc sinh xuống nhân gian làm vua chúa hay trưởng giả. Khi hốt nhiên khởi ý nghĩ này, họ liền thoái chuyển và không thể đắc tịch diệt.
Trải qua liên tục nhiều kiếp, họ luôn bị sinh tử lôi dắt và thường sinh đôi với nhau. Cho đến mãi hôm nay, họ mới gặp Phật ở thế gian. Do nhờ công đức cúng dường Phật thuở quá khứ nên nương phước lực mà được hóa độ. Khi tội diệt, phước liền sinh và họ tự biết việc của đời trước. Bởi vậy mà hôm nay Thế Tôn đến đây là để hóa độ chúng. Nếu không đến hóa độ, Ta e chúng sẽ bị lửa thiêu chết.
Lúc bấy giờ Thế Tôn liền nói kệ rằng:
"Trượng phu tâm vô cầu
Nơi ở tuệ sáng soi
Dù gặp vui hay khổ
Thái độ chẳng tự cao
Thánh hiền xa việc đời
Chẳng mong tiền và con
Giữ giới luôn tu Đạo
Không tham tà phú quý
Người trí biết niệm động
Như cây giữa bãi cát
Bằng hữu chí chưa vững
Theo ý nhiễm bụi trần"
Khi Phật nói lời ấy xong, hai đứa trẻ nhìn Đức Phật, rồi thân thể của chúng liền tự nhiên vụt lớn như đứa trẻ tám tuổi. Họ liền trở thành Cần Sách Nam và đắc Đạo Ứng Chân. Khi dân làng thấy tướng hảo quang minh của Phật và lại thấy thân hình của hai đứa bé tự nhiên vụt lớn, họ đều vui mừng khôn xiết và đắc Quả Nhập Lưu. Còn sự hoài nghi của cha mẹ hai đứa bé thì được giải trừ và cũng được Pháp nhãn thanh tịnh.
(Nguồn: Kinh Pháp cú thí dụ
Hán dịch: Pháp sư Pháp Cự và Pháp Lập
Việt dịch: Nguyên Thuận)
- 1833
Viết bình luận