Đức Liên Hoa Sinh khai thị cho bà lão độn căn thành tựu giác ngộ | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Đức Liên Hoa Sinh khai thị cho bà lão độn căn thành tựu giác ngộ

Khi Đức Liên Hoa Sinh được Đức Vua Trisong Deutsen thỉnh mời đến  Samye Vinh Quang ở Núi Đá Đỏ, Bà Lão đức hạnh của xứ Ton, một phụ nữ với tâm chí thành phi thường, đã gửi người hầu gái của mình là Margong với tên gọi Rinchen Tso đến để dâng cúng lên một bữa sáng với sữa đông cùng vài miếng nho.

Khi bậc Thầy đang chuẩn bị lên đường tới Samye Chimphu, ngay khi Ngài đi qua cánh cổng, Bà lão xứ Ton đã đỉnh lễ quỳ gối trên đường và đi nhiễu quanh Ngài, chắp tay lại trước Ngài, và nói:

- Làm ơi, xin Ngài, hỡi bậc Thầy vĩ đại! Ngài sắp rời đi, và người phụ nữ già này thì sắp chết.

Trên hết tất cả, khi được sinh ra là một phụ nữ, con đã thuộc về một tái sinh thấp kém. Do xao lãng bởi các hoạt động, con đã quên Pháp. Thứ hai, là một người kém thông minh, trí khôn của con thì lơ mơ, yếu ớt. Thứ ba, con cảm thấy bị che chướng, tối ám do tuổi già và tâm thức mờ tối.

Xin Ngài, hỡi đức Thầy vĩ đại! Xin ban cho con, bà lão già nua này một huấn thị đòi hỏi ít khó khăn và nỗ lực, đơn giản để nắm bắt, dễ dàng trong thực hành, và hiệu quả. Xin Ngài ban một huấn thị cho một bà lão già, người sẽ sớm kết thúc cuộc đời này.

Bậc Đạo Sư hỏi:

- Này bà lão, con là ai?

Bà lão thưa:

- Con là người đã gửi một bát sữa đông với một người hầu gái hèn mọn.

Bậc Thầy hoan hỷ nói:

- Con chắc chắn là một người có tâm chí thành lớn lao hơn Trisong Deutsen.

Sau đó Ngài đã ban cho bà lão và người tỳ nữ với những lời khai thị sau:

- Hỡi bà lão, hãy để chân trong tư thế vắt chéo và giữ thân con thẳng đứng. Trong một chốc lát, hãy đơn giản là duy trì, an trụ với sự chú tâm thư thái toàn bộ!

Bậc Thầy chỉ ngón tay của Ngài vào tâm bà lão và ban huấn thị này:

- Hỡi bà lão, hãy lắng nghe Ta! Nếu con đã hỏi điều gì là sự khác biệt giữa tâm thức của một vị Phật viên mãn, hoàn hảo đích thực và tâm thức của những chúng sinh hữu tình của 3 cõi, thì nó không là gì khác hơn là sự khác biệt giữa sự chứng ngộ, nhận ra và không chứng ngộ, không nhận ra tự tính tâm.

Khi những chúng sinh lầm lạc trong việc nhận ra tự tính này, thì sự lừa dối sẽ xuất hiện và từ sự vô minh này sẽ có vô số những đau khổ xảy tới khiến những chúng sinh phải trôi lăn, lang thang trong vòng sinh tử. Chất liệu cơ bản, nền tảng của Phật quả thì ở ngay trong họ, nhưng họ thất bại và sai lầm khiến không nhận ra nó.

Trước hết, chất liệu cơ bản, nền tảng của Phật quả thì ở trong con. Đặc biệt, nó ở trong loài người - là những chúng sinh sở hữu những thiện căn và thuận cảnh. Hơn nữa, không phải là chất liệu nền tảng cơ bản của Phật quả thì có nhiều, lớn lao hơn ở người nam và thấp kém, ít hơn ở người nữ. Như vậy, dẫu cho con đã nhận sự tái sinh như một người nữ, thì con cũng không bị ngăn che khỏi việc đạt được Phật quả.

84.000 cánh cửa Pháp đã được giảng dạy là để nhận biết và chứng ngộ tâm trí tuệ của chư Phật, nhưng cái hiểu này được gom chứa trong ba từ huấn thị của một bậc Thầy. Như vậy, dẫu cho con có thể mang một trí tuệ thấp kém và trí khôn mờ tối, thì con cũng không bị tổn hại, mất mát gì.

Bây giờ, ý nghĩa của Giáo Pháp, tâm Phật và 3 lời huấn thị của một bậc Thầy là đây:

"Nhờ việc tịnh hóa các đối tượng nhận biết bên ngoài, những ý niệm, nhận thức của con được tự do, giải thoát trong chính chúng. Nhờ việc tịnh hóa tâm ý niệm bên trong, giác tính không trụ chấp của con được tự do, giải thoát trong chính nó. Khi ở giữa sự tỉnh giác sáng tỏ và minh mẫn là sự hỷ lạc, thì con nhận ra bản tính của chính mình".

1. Làm thế nào các đối tượng nhận thức bên ngoài được tịnh hóa?

Giác tính hiện tiền này, trạng thái tỉnh thức của tâm, cái không bị tước đoạt bởi niệm tưởng và các ý niệm như một sự sáng chói tự nhiên. Hãy để nó là như thế, và các đối tượng được nhận thức cũng không bị bám chấp. Theo cách này, dù cho các hình ảnh có xuất hiện như thế nào, thì thực tế chúng là không thực và không được nắm giữ như là những điều thật có. Như thế, dù cho bất kỳ điều gì con nhận thức, như đất hay đá, núi hay vách núi, cây hay cành, nhà hay lâu đài, hàng hóa hay công cụ, bạn bè hay thù địch, người thân hay bạn đồng hành, chồng hay vợ, con trai hay con gái - khi hướng về tất cả những điều này và tất cả những điều khác – thì con không bị dính mắc vào thái độ bám luyến, sở hữu; và như vậy, chúng được nhận thức nhưng lại không bị nắm giữ, bám chấp theo cách đó. Do trở nên tự do khỏi việc trụ bám lên bất kỳ điều gì, con được tịnh hóa khỏi các đối tượng nhận thức bên ngoài.

Các đối tượng được tịnh hóa thì không có nghĩa là con dừng lại sự nhận thức. Nó có nghĩa là không nắm giữ và chấp chặt trong khi trở nên sáng tỏ và trống rỗng. Như ví dụ những phản chiếu trong một tấm gương, chúng xuất hiện nhưng trống rỗng từ bên trong nên không có gì để nắm bắt hết cả, và những ý niệm của con được biết như là những ý niệm đang xảy ra tới chính con.

2. Làm thế nào để tâm nhận thức bên trong được tịnh hóa?

Dù cho bất kể điều gì xảy ra trong tâm con – dù là dòng chảy của các niệm tưởng, những ký ức, hay các xúc tình 5 độc – thì khi con không tập trung vào chúng, sự chuyển động của chúng được tan biến nhờ chính nó; như vậy con không bị nhiễm ô bởi những lầm lạc của ý niệm. Trở nên không nhiễm ô bên trong thì không có nghĩa là trở thành một tảng đá trơ lỳ. Nó nghĩa là giác tính của con duy trì, an trụ tự do khỏi những hoen ố, nhiễm ô của ý niệm. Ví như con tới một đảo báu toàn vàng ròng; trên đảo vàng này, ngay cả cái tên của từ “đá” cũng không hiện hữu. Thì tương tự như vậy, một khi tư tưởng, ý niệm của con được tan biến vào sự tỉnh giác nguyên sơ, thì thậm chí ngay cả cái tên “ý niệm” cũng không còn hiện hữu.

3. Ở giữa sự tỉnh giác sáng tỏ, minh mẫn là sự hỷ lạc

Đây là huấn thị trong việc nhận ra tự tính của chính con: Trong khi thực hành, hãy tự do khỏi sự vô tình, vì ý thức của chính con là sự sáng rõ, thanh tịnh và tỉnh giác. Khi thực hành, con thể nghiệm rằng sự tỉnh thức tự sinh, cái vốn sẵn bẩm sinh thì không bị hư hoại bởi thái độ ý niệm, cũng không bị nhiễm ô bởi sự bám chấp vào trạng thái an lạc, trong sáng và vô niệm. Khi nó là chính nó thì đó là tâm Phật, lúc đó con đã nhận ra tự tính của chính mình.

Khi con đã nhận ra điều này, thì không có sự tái sinh cao cấp cũng như không có sự tái sinh thấp kém, không có các hoạt động cao thượng cũng như không có các hoạt động thấp kém, hạ đẳng, không có trí năng sắc bén hơn cũng như không có trí năng thấp kém hơn, không có già cũng như không có trẻ, không có tâm sáng rõ hay tâm không sáng rõ…

Đây là một huấn thị đơn giản, cần ít nỗ lực để nắm bắt, dễ dàng khi áp dụng mà lại rất hiệu quả. Với nó, con sẽ vô úy, không chút sợ hãi khi vào thời điểm của cái chết. Hỡi bà lão, hãy thực hành nó! Hãy tinh tấn, siêng năng khi cuộc đời không chờ đợi! Con không có phần thưởng nào từ việc hầu hạ, phụng sự cho chồng và con cái, vì vậy hãy đừng trở về với hai bàn tay trắng, mà hãy nhận lấy những sự tích luy từ nhữnxg huấn thị của thầy con! Những nhiệm vụ của đời này thì vô hạn và không có điểm dừng; vì vậy hãy chạm tới sự viên mãn trong thực hành thiền định!

Hỡi bà lão, hãy giữ lấy lời khuyên này như sự hộ trì, bảo vệ con trong việc trở nên vô úy vào lúc chết!

Ngài đã nói như vậy. Khi bậc Thầy ban huấn thị này và chỉ thẳng ngón tay của Ngài vào tâm bà lão, nó được biết như là “Huấn Thị Chỉ Thẳng cho Bà Lão”. Nhờ việc lắng nghe nó, bà lão và người hầu gái, cả hai đã được giải thoát và đạt được thành tựu.

Công chúa Tsogyal xứ Kharchen đã ghi nhớ những huấn thị này và viết xuống vì lợi ích cho những thế hệ tương lai. Nó được viết trên dốc phía nam của Samye vào ngày 17, tháng mùa hạ thứ hai, trong Năm Thỏ.

(Lược trích ấn phẩm: “Những kho tàng từ chỏm núi bách xù”

Nguyên tác: “Treasures From Juniper Ridge”

Tác giả: Erik Pema Kunsang
NXB Thiện Tri Thức)

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6320948
Số người trực tuyến: