Thực hành Tam mật Tương ưng: Ý Bản tôn
Ý Bản tôn là Yoga tâm tịnh quang liên quan đến quán hòa tan. Mục đích của sự thực hành này là hành giả phải nhận ra tất cả ý nghĩ, cảm xúc của mình dù tốt hay xấu đều là sự hiển bày của Bản tôn và thực hành an trụ tâm trong thực tại thanh tịnh, trí tuệ bất nhị, không tạo tác của tự tính. Sự thực hành này giúp bạn thoát khỏi sự bám chấp ràng buộc của nhận thức nhị nguyên thông thường. Quá trình thực hành Ý Bản tôn cũng là quá trình tịnh hóa tâm nhị nguyên thông thường để trải nghiệm Pháp thân, Báo thân và Hóa thân Phật.
Trải nghiệm Pháp thân để siêu việt Bardo sinh tử
Đối tượng để tịnh hóa bằng Yoga tâm tịnh quang là một chuỗi sự kiện cuộc đời của chính hành giả. Từ lúc hình thành ý thức trong bào thai cho đến lúc sinh ra, từ thời thơ ấu đến lúc trưởng thành và già đi, chúng ta học tập, làm việc, lập gia đình và tiếp tục sinh tồn cho đến khi chết. Đối tượng của tịnh hóa là toàn bộ dòng chảy của những sự kiện luân hồi, bao gồm tất cả các giai đoạn Bardo từ khi sinh ra cho đến khi chết đi, những lúc thức cũng như trong khi ngủ, từ lúc chết đi cho đến khi tái sinh. Toàn bộ vòng luân hồi trong những kiếp kế tiếp nhau được tịnh hóa bằng cách thực hiện Yoga tâm tịnh quang.
Hòa tan quán tưởng của bạn bắt đầu với vành đai bên ngoài của cảnh giới Tịnh độ, thực tại thanh tịnh của vũ trụ. Tịnh độ bên ngoài dần hòa tan vào vòng Hộ luân (vòng kết giới). Từng bước một, mọi thứ hòa tan vào bên trong cho đến luân xa tim của vị Bản tôn, khi bạn hòa tan chuỗi chủng tử tự của chân ngôn vào chủng tử tự chính ở trung tâm, sau đó hòa tan vào tính không.
Thực hành hòa tan này tịnh hóa giai đoạn hòa tan xảy ra vào thời điểm chết. Giai đoạn đầu tiên bắt đầu một phản ứng dây chuyền khi phần tứ đại thô bên ngoài phân ly và diễn ra các tiến trình hòa tan vi tế khác cho đến khi chết thật sự. Khi tiến trình chết bên trong kết thúc, Pháp tính diệu minh ló rạng. Đây là Pháp thân hay chân lý thực tại tuyệt đối mà tất cả chúng sinh đạt tới vào lúc chết sau khi tất cả những yếu tố của sự sống đã hòa tan hoàn toàn. Thực hành quán tưởng hòa tan theo cách này giúp chúng ta làm quen và chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận thời điểm Pháp tính diệu minh ló rạng trong Bardo Pháp tính của tiến trình chết.
Dù cái chết xảy ra nhanh hay chậm, tiến trình chết là liên tục, trải nghiệm của Ngũ căn liên quan đến nhận thức giác quan và chủ thể liên quan đến đối tượng sẽ lần lượt tan rã. Cuối cùng, nhận thức qua các giác quan sẽ dừng bặt và tính không sẽ hiển lộ. Ngay lập tức từ đó trở đi sẽ xuất hiện một trải nghiệm lạ lùng, đối với các hành giả thực chứng thành tựu trải nghiệm này chính là giác ngộ. Khi bạn hòa tan các giai đoạn khác nhau của quán tưởng, hãy tưởng tượng rằng trải nghiệm lạ lùng này xảy ra.
Quá trình này cũng đồng nhất với điều xảy ra vào lúc bạn ngủ. Trên thực tế, khi ngủ, bạn không nhắm mắt và ngay lập tức thiếp đi. Đúng hơn, những trải nghiệm tan rã bên ngoài của đại, các giác quan, các thức và trần, hòa tan dần cho đến khi dừng bặt, và sau đó bạn ngủ thiếp đi. Vào lúc đó, Pháp tính diệu minh xuất hiện và đó chính là thực tại tuyệt đối. Thực tại này diễn ra trong một khoảng thời gian nhất định và lập tức sau đó giấc mơ bắt đầu. Quá trình này cũng xuất hiện lúc chết. Khoảng thời gian của trải nghiệm Pháp tính diệu minh vào thời điểm chết dài ngắn khác nhau tùy theo nghiệp, mức độ luyện tập thiền định và thực chứng của mỗi người. Ngay sau Pháp tính diệu minh, những màu sắc âm thanh ánh sáng và những hiện tượng của Bardo Pháp tính bắt đầu hiển bày.
Trải nghiệm Pháp thân này cũng xuất hiện vào thời điểm một suy nghĩ dừng lại và chỉ trước khi suy nghĩ tiếp theo bắt đầu. Khoảnh khắc phân chia đó cũng mang trải nghiệm về Pháp tính diệu minh xảy ra vào thời điểm chết, và giữa trạng thái thức và ngủ. Song nếu chỉ ngồi chờ đợi thì điều này sẽ không dẫn bạn tới trải nghiệm Pháp thân. Bạn phải thực hành tịnh hóa pháp Yoga Bản tôn, bao gồm tất cả các giai đoạn của quán tưởng, đặc biệt là trưởng dưỡng định lực và thành thục lộ trình quán tưởng.
Để thực hành Yoga Pháp thân, điều cần thiết là luyện tập trong các trạng thái hòa tan. Sự hòa tan bắt đầu khi vòng thức bên ngoài của Mandala- thế giới bên ngoài là một Tịnh Độ với các chúng sinh - hòa tan thành ánh sáng và thành vòng Hộ luân. Sau đó, vòng Hộ luân hòa tan vào đại thấp nhất trong bốn đại (bốn đại này là đất, nước, lửa, và phong được quán tưởng xếp chồng lên nhau), mỗi đại sau đó hòa tan thành ánh sáng và ánh sáng được hấp thụ vào các đại ở trên nó cho đến khi tất cả được hòa tan. Các đại này hòa tan vào vòng Hộ luân bên trong, và tiếp tục hòa tan vào vòng Nghĩa địa trong Mandala, (đến đây bắt đầu tương ứng với phần kinh mạch vi tế) rồi hòa tan vào Mandala Thiên cung, sau đó lại hòa tan vào hải hội các vị Bản tôn, sau đó lại hòa tan vào vị Bản tôn chính và Minh phi. Tiếp đến, bậc Minh phi Trí tuệ hòa tan vào vị Bản tôn chính, rồi Ngài hòa tan vào bậc Thượng sư Bản tôn Trí tuệ trụ tại luân xa tim Ngài. Bản tôn Trí tuệ hòa tan vào chủng tử tự (biểu trưng cho bậc Bản tôn Tam muội) ngự tại luân xa tim của Ngài (tức Bản tôn Trí tuệ). Sau đó, chữ chủng tử này hòa tan từ dưới lên trên, cho đến khi hoàn toàn hòa tan vào tính không.
Vào lúc này, chẳng còn lại gì để quán tưởng. Hãy trải nghiệm thực tại của tâm vượt lên mọi hoạt động và tạo tác. Hãy thư giãn trong tính không hoàn hảo, không vọng tưởng, càng lâu càng tốt. Thực tại cân bằng này tịnh hóa những cực đoan của chấp thường.
Trải nghiệm Báo thân để siêu việt Bardo sinh tử
Khi mới bị khuấy động khỏi thiền định vô niệm, bạn trì tụng chân ngôn căn bản của Bản tôn và ngay lập tức bạn xuất hiện là sắc thân hoàn hảo của Bản tôn trung tâm hay Bản tôn chính mà bạn đang thực hành, giống như cá nhảy khỏi mặt nước quay trở lại nước. Bạn ở giữa toàn bộ Mandala và hải hội Bản tôn. Sự quán tưởng xuất hiện như trước khi hòa tan. Lúc này, hãy hợp nhất nhận thức của bạn với Mandala Bản tôn một cách hoàn toàn như một dòng sông đang chảy, hãy coi tất cả chúng sinh là vị Bản tôn, coi mọi âm thanh bạn nghe thấy là chân ngôn và giữ cho tâm bạn và tâm của mọi chúng sinh luôn trong trí tuệ thanh tịnh. Thực hành này là thực hành tái thức tỉnh về vị Bản tôn, hoàn thiện với Mandala, tịnh hóa cực đoan của chấp đoạn.
Trải nghiệm Hóa thân để siêu việt Bardo sinh tử
Yoga của trải nghiệm hậu thiền bắt đầu vào lúc sự hiển bày tâm xao nhãng và khái niệm bắt đầu. Dưới góc độ thực hành ngoại đàn tràng, ở thời điểm này, bạn ngay tức khắc lại xuất hiện là thân huyễn ảo của vị Bản tôn ở trung tâm Mandala, với đoàn tùy tùng, thiên cung và tất cả những chi tiết vi nhiễu xung quanh. Toàn bộ quán tưởng mà bạn đã tạo ra trước đó lại xuất hiện trở lại ngay lập tức. Từ đó trở đi, trong trải nghiệm hậu thiền định của bạn, bạn sẽ trải nghiệm vạn pháp là vị Bản tôn, mọi âm thanh là chân ngôn, và nhận ra bản chất của việc hình thành tư tưởng là giác tính thanh tịnh. Bạn sẽ duy trì sự hiển bày của vị Bản tôn, chân ngôn và giác tính bản lai trong trải nghiệm thường nhật của bạn. Khi đi lại, đứng hay ngồi, bạn sẽ thấy mọi hoạt động là ấn của vị Bản tôn. Khi ăn và uống, bạn sẽ cúng dàng những vật chất này làm sự cúng dàng ngọn lửa bên trong khi chúng được cơ thể tiêu hóa. Bất cứ đối tượng mong ước nào mà bạn dùng trở thành sự hiển bày của ba giác tính: tính không của chủ thể, đối tượng và hoạt động. Đây là trải nghiệm hậu thiền định và là con đường đạo. Kết quả của quá trình tịnh hóa này là hành giả đạt được Hóa thân Tulku để đem đến niềm an vui chân thật cho tất cả chúng hữu tình và đánh thức tiềm năng tâm linh vốn sẵn đủ Từ bi - Trí tuệ nơi mỗi người.
Kết luận
Qua sự thành tựu chuyển hóa cái chết thành con đường Pháp thân, chúng ta sẽ được giải thoát ngay khi hơi thở ngừng lại. Cho dù không thể đạt được giải thoát vào lúc chết, nhờ thành tựu chuyển hóa thân trung ấm vào Báo thân, chúng ta sẽ thành tựu Bardo Báo thân. Nhờ chứng đạt Hóa thân, chúng ta có thể siêu việt Bardo tái sinh và ít nhất có thể vãng sinh Tịnh độ.
Việc thực hành trong đời sống hàng ngày của chúng ta được mô tả theo ba phần: khi thức, ngủ và mơ. Điều này liên hệ tới thời gian khi chúng ta đang sống, khi sắp chết và khi chuyển vào Bardo giữa chết và tái sinh.
Các hoạt động vào ban ngày có mục đích mang sự sinh ra vào con đường Hóa thân. Từ khoảnh khắc thức dậy cho đến khi đi ngủ, ta cố gắng nhắc nhở mình nhìn thấy khía cạnh thanh tịnh của bản thân và vạn pháp xung quanh. Chúng ta không phải quán tưởng bất cứ điều gì trong lúc thức, chỉ cần an trú tỉnh giác trong thực tại cũng như trong các buổi thực hành thiền định ở giai đoạn Phát triển. Chúng ta học cách nhìn thấy mọi sự vật hiện tượng là sự hiển lộ thanh tịnh hoàn hảo của Phật.
Phần thứ hai mô tả cách thực hành lúc ngủ, tương ứng với pháp hòa nhập cái chết vào con đường Pháp thân. Khi ngủ, chúng ta để cho tâm trí mình nghỉ ngơi trong thể tính tự nhiên. Nếu làm được như thế, giấc ngủ hòa tan trong Pháp tính diệu minh. Ngủ trong thiền định và thức dậy cũng trong thiền định. Khi điều này xảy ra, chúng ta đã có thể hòa nhập thiền định với giấc ngủ và chuyển hóa giấc ngủ thành trải nghiệm Pháp thân.
Phần thứ ba dạy cách thực hành trong những giấc mơ, tương ứng với hòa nhập Bardo thân trung ấm vào con đường Báo thân, có nghĩa là trong khi mơ ta cố gắng nhận ra mình đang mơ. Khi có được sự tỉnh thức này, chúng ta thống nhất sự thực hành của giai đoạn Phát triển và Thành tựu. Chúng ta quán tưởng Bản tôn trong khi mơ và sau đó thực hành hòa tan hình ảnh quán tưởng rồi an trụ trong Đại Thủ Ấn. Khi thực hành như thế, chúng ta thực sự có thể trở thành Bản tôn. Trong giấc mơ, mọi thứ đều có thể và chúng ta có thể khai triển những năng lực tâm linh vĩ đại. Khi nhận ra bản chất của giấc mơ và sử dụng chúng làm phương tiện, sự thực hành của chúng ta sẽ trở nên rất hiệu quả.
Sở dĩ chúng ta hòa nhập sinh, tử và thân trung ấm với Tam thân và con đường thực hành trong suốt cuộc đời là vì khi thành thục việc thực hành chuyển hóa giấc ngủ thành Pháp thân, ta sẽ được giải thoát trong Pháp thân ngay khi bắt đầu tiến trình chết. Đây là sự giải thoát tự nhiên vô tác vào khoảnh khắc của cái chết. Giáo pháp về Bardo nói tới Ánh sáng mẹ và Ánh sáng con. Khi Ánh sáng mẹ xuất hiện vào thời điểm chết, ta sẽ hiểu và nhận ra và tức khắc được giải thoát trong khoảnh khắc đó. Ánh sáng mẹ và con hòa nhập bất khả phân và chúng ta thể nhập Tự tính tâm và giải thoát vào ngay lúc này.
Nếu không thể chứng ngộ theo cách như trên, thì thông qua thành thục sự thực hành trong Bardo mộng, ta cũng có thể áp dụng để đạt được giải thoát trong Bardo thân trung ấm. Khi Bardo Báo thân xuất hiện, chúng ta chứng ngộ trong Thân hợp nhất. Thực chứng được rằng mọi ảo tượng hãi hùng của giai đoạn này đều là như huyễn và là sự hiển bày của Tâm, ta sẽ không thấy kinh sợ và nhờ đó đạt được giải thoát.
Nếu vẫn không thể chứng ngộ theo cách như trên, thì việc thành thục thực hành Yoga Bản tôn trong Bardo đời sống hàng ngày sẽ rất lợi ích khi chúng ta trải qua giai đoạn Bardo tái sinh. Mặc dù không đạt được chứng ngộ trong cái chết hay Bardo thân trung ấm, ta sẽ tái sinh trong một cảnh giới thanh tịnh chẳng hạn như cõi Tịnh độ Sắc Cứu Kính Thiên. Đây là lý do vì sao người ta nói qua thực hành Kim Cương thừa, chúng ta có thể giải thoát giác ngộ ngay trong một đời. Nhờ sự thực hành tinh tấn liên tục không gián đoạn trong suốt cuộc đời, chúng ta có thể đạt được sự chứng ngộ trong ba giai đoạn của Bardo cái chết, Bardo thân trung ấm và Bardo tái sinh. Đây là nét độc đáo vi diệu của Kim Cương thừa.
Như vậy, thực hành Yoga Bản tôn là hiểu biết rốt ráo bạn cần đạt được trong quá trình tu tập giai đoạn Phát triển. Tinh túy của giai đoạn Phát triển là nhận ra hết thảy vạn pháp là Bản tôn, mọi âm thanh là Chân ngôn và tất cả tư tưởng là giác tính thanh tịnh. Nhờ biết sống tỉnh thức trọn vẹn với Bản tôn - Chân ngôn - Trí tuệ qua nỗ lực thực hành Pháp một cách chí thành, chân chính, chúng ta có thể tịnh hóa vô số nghiệp chướng bên trong và bên ngoài, tăng trưởng định lực phúc tuệ, đón nhận được vô lượng ân đức gia trì, viên thành mọi tâm nguyện và hân hưởng niềm hỷ lạc của sự thực hành trong cuộc sống cũng như ngay cả trong những điều kiện hoàn cảnh khó khăn bất lợi nhất của tiến trình chết.
Kết quả rốt ráo của sự thực hành này là hành giả đạt được khả năng chủ định tái sinh trong cõi luân hồi, thành một bậc hóa thân của trí tuệ giác ngộ để lợi ích chúng sinh. Hành giả đạt được khả năng quyết định sẽ tái sinh ở đâu và ai là cha mẹ trong đời kế tiếp, tất cả điều này để thực hiện công hạnh vi diệu vì sự lợi ích giải thoát cho chúng sinh. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là một ví dụ hoàn hảo của một bậc đạt được những kết quả đó. Ngài đã có đời sống với mười hai công hạnh vi diệu. Đây là kết quả đến từ việc thực hành các giai đoạn của sự tịnh hóa!
- 429
Viết bình luận