Vì sao Đức Phật tán thán trí tuệ của phụ nữ?
Bình đẳng giới và phong trào giải phóng phụ nữ, xét ở một mức độ nào đó, đã được cải thiện ở nhiều nơi trên thế giới. Thế nhưng nhiều người vẫn có thành kiến và sự nghi ngờ đối với khả năng tu học và thành tựu đại giác ngộ của người nữ. Dường như sự hiện hữu của những nữ nhân kiệt xuất trong lịch sử Phật giáo chưa đủ sức thuyết phục đa số nhân loại tin tưởng vào năng lực của người nữ có thể thực sự thành tựu giác ngộ. Do sự bám chấp cố hữu vào giới tính của các yếu tố văn hóa, giáo dục, xã hội cùng nhiều nguyên nhân khác, bản thân các nữ hành giả cũng có những nhận thức sai lầm và thiếu tự tin vào chính bản thân, vào chính khả năng, năng lực vốn thực sự hết sức siêu việt của mình.
Tuy rằng đôi khi Đức Phật có nói đến khuynh hướng tự nhiên và những nhược điểm của phụ nữ là chướng ngại trên con đường tu tập, Ngài thường ngợi khen tài năng và trí tuệ của nữ giới. Trong kinh Saṃyutta Nikāya, Đức Phật đã có ý đưa ra nhiều yếu tố để xóa bỏ thành kiến về người phụ nữ. Như vậy, sự ấn chứng của Đức Phật và những minh chứng thành tựu Phật quả giải thoát của chính các nữ hành giả thời Đức Phật tại thế giúp khẳng định rằng người nữ hoàn toàn không thua kém với người nam về phương diện khả năng và sự thành tựu quả vị giác ngộ tối thượng. Trong một vài trường hợp, người nữ được xem là sáng suốt và thông minh hơn người nam, và người nữ cũng có khả năng chứng đắc quả giải thoát giác ngộ sau khi họ tu tập Bát chính đạo:
Này Nhân chủ, ở đời,
Có một số thiếu nữ,
Có thể tốt đẹp hơn,
So sánh với con trai,
Có trí tuệ, giới đức,
Khiến nhạc mẫu thán phục.
(Tăng Chi Bộ Kinh 1. Tương Ưng Kosala. Phẩm Thứ Hai. Phần Người Con Gái)
Bà Gotami - Bậc Ni trưởng đầu tiên
Nữ đệ tử Đệ nhất Trí tuệ của Đức Phật
Khemā (theo tiếng Pali có nghĩa là điềm tĩnh) sinh ra trong hoàng tộc nước Magadha (Ma Kiệt Đà), là một cô gái rất xinh đẹp và thông minh. Khi tới tuổi kết hôn, nàng trở thành phi tần của vua Bimbisara (Tần Bà Sa La). Ông là một đại thí chủ (người cung dưỡng đồ ăn cho tăng đoàn) của Đức Phật Thích Ca. Ông đã cúng dàng tăng đoàn cả khu vườn trúc rộng lớn của mình để xây tăng xá, đồng thời rất quan tâm tới đời sống của các Tỳ kheo.
Từ khi về nhà chồng, Khemā đã được vua kể rất nhiều câu chuyện về đức Phật. Tuy nhiên, trước sau nàng vẫn nhất định không chịu gặp đức Phật Thích Ca. Nàng nói rằng nàng sợ Đức Phật sẽ phê phán vẻ đẹp của mình nên không muốn đi. Nàng rất cố chấp nên dù quốc vương có khuyên thế nào, thuyết phục thế nào cũng không nghe.
Cuối cùng, quốc vương đã nghĩ ra một cách, ông thuê các ca sĩ vào cung hát những bài ca ngợi vẻ đẹp và sự hòa nhã của khu tịnh xá trúc lâm. Do Khemā là người rất thích vẻ đẹp của tự nhiên nên khi nghe những bài hát đó đã không cưỡng lại được, quyết định tới trúc lâm thăm thú.
Hôm đó, Khemā mặc áo lụa, xức nước thơm, trang điểm xinh đẹp bước tới giảng đường nơi đức Phật đang thuyết pháp. Đức Phật có thể đọc được suy nghĩ của nàng, vì vậy đã biến thành một thiếu nữ xinh đẹp, đứng cạnh bên Khemā và quạt cho nàng. Bị sắc đẹp của cô gái cầm quạt lôi cuốn, Khemā thầm nghĩ: “Ta chưa từng gặp một cô gái nào xinh đẹp như vậy. Có lẽ ta còn kém xa cô ấy nữa. Người ta nói các Sa môn thường coi khinh những người xinh đẹp, nhất định là hiểu sai họ rồi”.
Lúc đó, đức Phật bèn hóa phép cho cô gái xinh đẹp kia dần dần già đi, qua tuổi trung niên, rồi tới tuổi già, tới lúc không còn chiếc răng nào, tóc bạc trắng, da nhăn nheo, cuối cùng ngã xuống đất hấp hối. Tới lúc này, Khemā mới hiểu rõ sự vô thường của cuộc sống và cái hư ảo của vẻ đẹp bề ngoài. Trong lòng nàng nghĩ: “Cô gái đẹp như vậy mà còn bị hủy hoại thế kia thì ta sớm muộn cũng không thoát khỏi kết cục đó”.
Đúng vào giây phút đó, mặc dù trên người vẫn mặc những trang phục xa hoa của hoàng cung, Khemā đã chứng quả A La Hán. Sau đó ít lâu, do được quốc vương Bimbisara đồng ý, nàng đã gia nhập vào tăng đoàn, trở thành một Tỳ kheo ni xuất chúng.
Tỳ kheo ni Khemā đối đáp về Như Lai
Đức Phật Thích Ca khen ngợi Khemā là người có “Trí tuệ số 1” trong số các Tỳ kheo ni của tăng đoàn. Điều này hoàn toàn không chỉ là truyền thuyết, một đoạn đối thoại trong kinh "Tương ứng bộ" đã chứng tỏ rất rõ điều này.
Chuyện kể rằng:
Vị quốc vương Pasenadi đang du ngoạn tới nước Kosala. Khi màn đêm tới, quốc vương tới một thị trấn nhỏ. Tại đây quốc vương Pasenadi muốn tìm kiếm một người để nói chuyện với mình. Vì vậy, ông đã sai tùy tùng đi tìm các Sa môn hoặc các thầy tu Bà la môn thông thái tới.
Người hầu đi hỏi thăm khắp nơi nhưng không tìm được vị Sa môn hay Bà la môn nào đúng như yêu cầu của chủ nhân. Tuy nhiên, sau đó họ biết được rằng, một đệ tử của Phật Đà là Tỳ kheo ni đang ở trong thị trấn. Người này nhờ vào tài trí thông minh, nghe rộng, biết nhiều lại rất giỏi hùng biện mà nổi tiếng khắp vùng. Người đó không ai khác chính là nữ đệ tử nổi tiếng của Phật đà – Khemā.
Sau khi Pasenadi nhận được tin báo đã được quyết định đi gặp Khemā, cung kính hỏi bà về chuyện Như Lai sau khi chết:
- Như Lai sau khi chết có tồn tại không?
- Đức Thế Tôn không nói Như Lai sau khi chết tồn tại.
- Vậy Như Lai sau khi chết không tồn tại hay sao?
- Đức Thế Tôn không nói như vậy.
- Vậy Như Lai sau khi chết vừa tồn tại, vừa không tồn tại hay sao?
- Đức Thế Tôn không nói như vậy.
- Vậy Như Lai sau khi chết đi vừa không tồn tại, vừa không thể không tồn tại hay sao?
- Đức Thế Tôn không nói như vậy.
Nhận thấy quốc vương Pasenadi có vẻ không thỏa mãn với câu trả lời của mình, bà quyết định lấy một ví dụ để minh chứng cho những lý lẽ của mình. Bà hỏi quốc vương Pasenadi rằng: “Liệu quốc vương có thể có được các nhà số học hoặc các nhà thống kế học giỏi tính toán tới mức có thể tính toán được có bao nhiêu hạt cát dưới sông Hằng hay không?”. Quốc vương trả lời rằng điều đó là không thể, bởi lẽ, cát trong sông Hằng là không thể tính toán được, không thể đếm được.
Bà lại hỏi quốc vương rằng: “Liệu ngài có biết ai là người tính toán được bao nhiêu nước dưới biển không?”. Quốc vương lại trả lời rằng, điều đó là không thể, bởi lẽ nước biển sâu tới mức không thể đo được thì làm sao mà đong đếm được.
Tới lúc này, bà mới điềm tĩnh nói rằng: “Như Lai không thể dùng sắc, thụ, tưởng, hành, thức (ngũ uẩn) mà đo đếm được. Ngài giống như biển sâu không thể dò được đáy”. Vì thế, không thể nói tới tồn tại hay không tồn tại của Như Lai sau khi chết. Tất cả những mệnh đề nói trên không thể định nghĩa được Như Lai, vốn là khái niệm không thể định nghĩa.
Quốc vương Pasenadi nghe những lời giải thích của Khemā, cảm thấy rất vui. Sau đó, khi ông gặp đức Phật, cũng hỏi lại đúng 4 câu hỏi nói trên. Câu trả lời của Đức Phật cũng giống hệt với câu trả lời của Khemā, thậm chí cách dùng từ, đặt câu cũng giống y như vậy. Quốc vương Pasenadi nghe xong, cảm thấy vô cùng kinh ngạc. Lúc này, ông mới thật sự khâm phục Tỳ kheo ni Khemā, nữ đệ tử có Trí tuệ đệ nhất của Đức Phật.
Trong Đạo Phật, nguyên lý mẫu tính nêu biểu cho trí tuệ bản lai. Vì Phật quả là sự viên mãn của trí tuệ bản lai, nên trí tuệ còn được xem như là mẹ của hết thảy chư Phật. Trong Kinh Đại Bát Nhã Ba La Mật Đa và Bát Nhã Tâm Kinh, Đại Phật Mẫu Bát Nhã Ba La Mật chính là biểu tượng của trí tuệ ban sơ đại toàn thiện đại viên mãn này. Trí tuệ Bát Nhã Ba La Mật, sự viên mãn của trí tuệ sâu xa của nguyên lý mẫu tính được gọi là “Thai tạng của chư Như Lai” hay “Mẹ của chư Phật”. Do đó, phụ nữ và phương diện nữ tính bên trong mọi chúng sinh bất kể nam hay nữ chính là biểu trưng cho đại trí tuệ siêu việt.
(Nhóm ĐBT biên soạn)
Tham khảo thêm
- 1780
Viết bình luận