Gương báo hiếu của người xuất gia
Gương báo hiếu của người xuất gia
Mỗi năm đến mùa Vu Lan báo hiếu, người Phật tử tại gia thường noi gương hiếu thảo của Tôn giả Mục Kiền Liên báo đáp công ơn cao dày của cha mẹ đã qua đời cũng như còn tại thế, mà cách báo hiếu phổ thông nhất như ca dao từng khuyên:
Mẹ già như thể Phật Bà Quan Ảm
Nhớ ngày xá tội vong nhân
Lên chùa lạy Phật đền ân sinh thành.
Đó là một trong những cách báo hiếu đơn giản của người sơ cơ học đạo. Còn những Phật tử thuần thành thì vào dịp này thường sắm sửa phẩm vật, thiết lễ trai tăng cúng dường Thập phương Tăng chúng sau ba tháng thanh tịnh tu học, để hồi hướng công đức cầu nguyện cho cha mẹ hiện tiền được phước thọ tăng long, và phụ mẫu quá cố được sinh về nhàn cánh. Thế còn người xuất gia báo hiếu cha mẹ bằng cách nào?
1. Báo hiếu về mặt vật chất lẫn tinh thần
Vào thời Đức Phật có Tôn giả Tất Lăng Già Bà Ta, sau khi xuất gia thành đạo, chạnh lòng nghĩ đến cha mẹ già yếu, nghèo khổ, không ai nuôi dưỡng, Ngài muốn đem y phục và thực phẩm cúng dường cha mẹ, nhưng sợ vi phạm giới luật. Ngài bèn trình bày nỗi băn khoăn của mình lên Thế Tôn. Nhân đó, đức Đạo sư họp các Tỳ-kheo và truyền dạy: “Nếu có người nào suốt cả trăm năm, vai phải cõng cha, vai trái cõng mẹ, và dù cha mẹ có đại tiểu tiện trên vai mình, cũng chưa thể gọi là đã làm tròn hiếu đạo. Hoặc đem những thứ y phục và ẩm thực quý nhất trên đời cung phụng cha mẹ củng chưa đủ báo đền công ơn cha mẹ trong muôn một. Từ nay ta cho phép các Tỳ- kheo suốt đời hết lòng cúng dường cha mẹ. Nếu ai không cúng dường được thì phạm tội nặng." (1)
Vâng lời Phật dạy, hằng ngày Tôn giả đi khất thực đem về chia cho cha mẹ hai phần, còn mình thọ dụng một phần, và thường dâng cho cha mẹ những nhu yếu khi cần.
Trường hợp trên đây cho chúng ta thấy, dù là người xuất gia vẫn có bổn phận cưu mang cha mẹ không người nuôi dưỡng. Trường hợp Tổ sư Liễu Quán (1667 -1742) sau đây cũng tương tự như thế.
Tổ mồ côi mẹ lúc vừa sáu tuổi, thân phụ bèn dẫn đến chùa Hội Tôn cho thọ giáo với Hòa thượng Tế Viên. Nhưng theo hầu được bảy năm thì Hòa thượng viên tịch. Tổ liền vượt núi băng ngàn tìm ra Thuận Hóa thọ học với Giác Phong Lão Tổ chùa Báo Quốc. Được một năm, lại hay tin cha già không người chăm sóc, Tổ phải trở về nhà, hằng ngày lên núi đốn củi, đem về đổi gạo nuôi dưỡng phụ thân. Dù hoàn cảnh gia đình thanh bạch, Tổ vẫn săn sóc cha già chí tình, chí hiếu, cho đến khi thân phụ qua đời. Sau khi lo việc ma chay chu đáo, Tổ mới trở ra Thuận Hóa tiếp tục con đường tu học. (2)
Tấm gương của Tổ Liễu Quán có phần nào giống với hoàn cảnh của Lục Tổ Huệ Năng (638 - 713). Lục Tổ khi còn bé đã bất hạnh, cha mất sớm, chỉ còn một mẹ già, gia cảnh lại nghèo khó. Do đó, hằng ngày Tổ phải lên non đốn củi, gánh ra chợ bán, rồi đổi lấy gạo đem về nuôi mẹ. Một hôm, nghe người ta tụng kinh Kim Cương đến câu “Ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”, Tổ cảm thấy như bừng tỉnh, nên có ý định xin phép mẹ đến núi Hoàng Mai thọ giáo với Ngũ Tổ Hoằng Nhẫn. Nhưng vì mẹ già không ai phụng dưỡng, nên lòng còn trù trừ chưa nỡ xuất gia. Bỗng có người hiểu được tâm nguyện của Tổ, bèn trợ giúp mười lượng bạc, và hứa sẽ thay mặt Tổ để trông nom nuôi dưỡng bà cụ đến trọn tuổi già. Nhờ thế, Tổ mới an tâm, từ thân xuất gia học đạo, và đã trở thành một trụ cột độc sáng của Thiền tông Trung Hoa. (3)
Nhìn lại nước ta vào thời kỳ vàng son của Phật Giáo đời Trần, cũng có vị Tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm Yên Từ là Thiền sư Huyền Quang (1254 -1334). Tổ là một vị trạng nguyên xuất chúng, mặc dù thi đỗ, làm quan, nhưng xem phú quý như bèo bọt. Một hôm, Tổ theo vua đến chùa Vĩnh Nghiêm tham dự pháp hội, thấy Quốc sư Pháp Loa đang hành đạo, liền nhớ lại duyên xưa, bùi ngùi than rằng: “Làm quan lên bồng đảo, đắc đạo đến Phổ Đà; trên cõi nhân gian là Tiên, cảnh giới Tây phương là Phật. Phú quý vinh hoa nào khác lá vàng mùa thu, mây trắng mùa hạ, đâu nên lưu luyến mãi hoài”. Thế rồi, dâng biểu xin vua xuất gia học đạo tu hành. Bỗng một hôm, nghe tiếng chim khách kêu vang trên cành ở trước sân, Tổ chạnh lòng nhớ đến cha mẹ già yếu, nghĩ đến công ơn sinh dưỡng sâu dày, liền sắm sửa hành trang trở về cố hương, hầu thăm cha mẹ. Về nhà, trông cha mẹ còn khỏe mạnh và biết ông bà cụ rất sùng tín Tam Bảo, lòng Tổ rất hoan hỉ. Nhân đó, ngài cho xây một ngôi chùa ở phía Tây nhà, đặt tên là chùa Đại Bi, lấy ý từ câu “Đại từ đại bi Quan Thế Âm Bồ Tát cứu độ cha mẹ hướng về Phật đạo”. Bấy giờ cha mẹ đã có ngôi bảo điện để hằng ngày tụng niệm, khuây khỏa tinh thần, thấm nhuần pháp vị, di dưỡng tuổi già, Tổ mới an tâm tiếp tục sứ mệnh hoằng dương chính pháp.
2. Báo hiếu trên phương diện tinh thần
Thiền Sư Hư Vân (1840 -1959) lúc mới sinh được 7 ngày thì thân mẫu từ trần, được kế mẫu thương yêu nuôi dưỡng. Đến năm mười bảy tuổi, Ngài có chí xuất trần, nhưng thân phụ không cho phép. Vì ông đang làm quan, tính tình lại nghiêm khắc, hơn nữa Ngài là con trai độc nhất của gia đình. Thế nhưng, do động cơ xuất gia mãnh liệt, cuối cùng, Ngài đã lặng lẽ thoát ly gia đình, để hoàn thành chí nguyện cao cả của mình. Đến khi thân phụ qua đời, Ngài ân hận đã làm cho cha già phiền lòng, lại nhớ thương mẹ hiền vắng bóng từ lúc mình còn thơ ấu. Do đó, Ngài phát nguyện hành hương đến Ngũ Sơn Đài - nơi di tích của Bồ Tát Văn Thù - cứ đi ba bước lạy một lạy; đồng thời hồi hướng công đức để nguyện cầu cha mẹ sinh về cảnh giới an lành.
Tấm gương hiếu thảo của Thiền Sư Hư Vân làm cho chúng ta phải thán phục. Thế còn Thiền Sư Hám Sơn (1945 - ?) lúc còn bé đã là một đứa trẻ khác thường. Năm lên ba tuổi, Ngài chỉ thích ngồi lặng lẽ một mình hơn là đi chơi với những đứa trẻ khác. Mẹ Ngài lại là một Phật tử thuần thành, suốt đời thờ đức Đại sĩ Quan Âm. Năm Ngài lên bảy tuổi, bà gửi con đến một ngôi trường cách nhà một dòng sông. Một hôm, sau khi về thăm mẹ, Ngài trở lại nhà trường, được mẹ tiễn chân ra tận bờ sông, nhưng vì quá lưu luyến mẹ, Ngài không muốn rời tay khỏi bà. Đang cơn tức giận, bà liền túm tóc con, ném xuống sông, rồi quay về nhà không một lần ngoái lại. Lúc ấy, bà nội của Ngài có mặt ở đó, kêu cứu, Ngài mới thoát chết. Sau đó, mẹ Ngài nhiều lần đứng khóc một mình trên bờ sông và phân trần với mẹ chồng: “Con phải làm thế để cho nó vượt qua cái tính đa cảm mà học hành chăm chỉ?”.
Năm mười hai tuổi, Ngài từ giã mẹ cha, dấn thân trên con đường du phương học đạo. Suốt thời gian ấy, mẹ Ngài luôn luôn theo dõi tin tức con mình. Khi nghe tin Ngài tham học ở Ngũ Đài Sơn, bà liền hướng về nơi đó đảnh lễ và niệm danh hiệu Đức Bồ Tát Quan Âm. Nhờ thế, bà cảm thấy lòng mình trở nên khuây khỏa.
Sau bao năm xa cách, Ngài trở về nhà thăm lại song thân và định chọn đất xây mộ cho hai người. Một buổi sáng, Ngài cùng cha mẹ đi thăm mồ mả tổ tiên để bày tỏ lòng tôn kính. Lúc ấy thân phụ Ngài đã tám mươi tuổi, Ngài nói đùa với ông: “Hôm nay con chôn cha, như vậy giúp cha khỏi trở lại thế gian này lần nữa”. Vừa nói Ngài vừa gõ cuốc xuống đất. Mẹ Ngài lập tức giật lấy cuốc và nói tiếp: “Phần mụ để mụ tự đào mồ lấy, không cần ai lo cho mụ cả”. Rồi bà bắt đầu đào một cách vui vẻ.
Về sau, Ngài mới hiểu rằng mình có một bà mẹ khác thường, và đó chính là một trợ duyên thật quý báu để Ngài thành tựu được đạo nghiệp rạng rỡ. (5)
Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807-869), vị tổ khai sáng tông Tào Động Trung Hoa, cũng có một bà mẹ rất đặc biệt. Ngài đã trình bày quan niệm hiếu thảo và cách thức báo hiếu của người xuất gia đối với cha mẹ, cũng như sự mong đợi của cha mẹ đối với người con đi tu, qua hai bức thư trao đổi giữa Ngài và mẹ Ngài. Trước hết là lá thư Ngài gửi cho mẹ trình bày lý do và xin phép xuất gia tu hành.
“Được nghe Chư Phật ra đời đều nhờ cha mẹ mà có thân này, muôn loài hàm linh phải nhờ trời đất che chở. Thế nên, không có cha mẹ thì chẳng sinh, không có trời đất thì chẳng trưởng. Nhưng, tất cả hàm thức đều chịu định luật vô thường chi phối. Nghĩ đến ân bú sú thâm trọng, cũng như công nuôi dưỡng cao dày, nếu đem của cải thế gian phụng dưỡng, hoặc dùng máu thịt thân này dâng hiến, cũng không thể đáp đền. Hiếu kinh nói: “Dù là một ngày giết đôi ba con vật để cung hiến cha mẹ vẫn là bất hiếu. Vì sẽ lôi nhau vào vòng sinh tử, chịu muôn kiếp luân hồi. Do đó, muôn đền ân sâu dày của cha mẹ thì không gì bằng công đức xuất gia, vì sẽ cắt dòng sông khát ái sinh tử, vượt qua được bể khổ trầm luân, đáp ân cha mẹ nghìn đời, đền nghĩa từ thân muôn kiếp”. Kinh nói: “Một người con xuất gia, chín họ đều sinh lên cõi trời”. Con nguyện bỏ thân mạng đời này, để thành tựu đạo quả Bồ Đề, đem căn trần muôn kiếp mà thắp sáng trí tuệ Bát nhã. Cúi mong cha mẹ mở lòng hỉ xả, dứt nỗi nhớ mong, noi gương đức vua Tịnh Phạn và Thánh Mẫu Ma Da, hẹn sẽ gặp nhau trong hội Long Hoa. Còn hiện nay xin cam chịu lìa nhau. Chẳng phải con quên ân dưỡng dục, mà chỉ vì thì giờ chẳng đợi người. Cổ Đức từng nói: “Thử thân bất hướng sinh thân độ, Cánh hướng hà thân độ thử thân?”
Nhận được thư con, mẹ Ngài hồi âm:
“Mẹ cùng con đời trước có nhiều nhân duyên nên mới kết thành tình mẹ con. Kể từ lúc mẹ hoài thai, sớm chiều cầu thần khẩn Phật, mong sinh được con trai. Thai bào đủ tháng, mạng sống như chỉ mành. Sinh được con trai, mẹ rất toại nguyện, xem như châu báu, không nề hôi hám nhơ uế, chẳng ngại bú sú nhọc nhằn. Con vừa thành người, mẹ dắt đến trường cho con học tập. Mỗi khi con đi chơi về trễ, mẹ đứng tựa cửa ngóng trông. Nay con viết thư về quyết xin xuất gia, cha con đã mất, mẹ già, anh yếu, em nghèo, mẹ biết trông cậy vào ai. Con có ý bỏ mẹ, chớ mẹ nào có dạ quên con. Từ khi con cất bước tha phương, ngày đêm mẹ thường rơi lệ, khổ thay! Khổ thay! Nay con lại chẳng thể về nhà, mẹ cũng tùy theo chí nguyện của con. Mẹ không dám mong con như Vương Tường nằm giá, như Đinh Lăng khắc cây, mà chỉ mong con như Tôn giả Mục Liên, độ mẹ khỏi trầm luân, tiến lên Phật quả. Nếu mẹ không như vậy, e phải có tội. Mẹ cầu mong cho con hoàn thành chí nguyện của mình”.
Trên đây, chúng tôi đã trình bày một vài tấm gương báo hiếu của người xuất gia, mỗi người có một hoàn cảnh riêng, nhưng chung quy ai cũng mang nặng ân tình của cha mẹ. Vì nhờ cha mẹ mới có thân ta. Do đó, mở đầu bức thư Ngài Động Sơn đã nói: “Chư Phật ra đời đều nhờ cha mẹ mới có thân này. Và nhờ có thân này mới tu thành chính quả mà cứu độ quần sinh. Thế nên, sự báo hiếu cha mẹ đương nhiên là bổn phận thiêng liêng, không một ai được phép quên lãng. Vì vậy, người xuất gia, nếu cha mẹ già yếu, cô độc, không người nuôi dưỡng, vẫn có bổn phận phụng dưỡng cha mẹ cho đến trọn đời. Trái lại, nếu cha mẹ đã có người chăm sóc tạm được an lành thì người tu hành cần dốc chí tu học, hoàn thành đạo nghiêp, rồi vận dụng tâm lực, hồi hướng công đức, cứu vớt cha mẹ ra khỏi vòng trầm luân khổ ải. Thiết nghĩ, đó là cách báo hiếu chân chính của đạo từ bi, và thích hợp với những ai đã chọn con đường thoát tục.
(Mùa Vu Lan, P.L. 2538)
Chú thích:
(1) Luật Ngũ Phần, Đ.22, tr,140c.
(2) Theo văn bia Tổ Liễu Quán, do T.T. Giới Hương phiên dịch.
(3) Kinh Pháp Bảo Đàn
- 511
Viết bình luận