Từ điển Pháp số căn bản (Pháp số 6)
Pháp số 6
SÁU CẢNH (lục cảnh)
Chữ “cảnh” ở đây là chỉ cho cảnh vật ở ngoài thân, là đối tượng của căn, hoặc cảnh giới cảm giác của thức:
1. Sắc, đối tượng của nhãn căn (hay cảnh giới cảm giác của nhãn thức), có hai loại: hình sắc (như vuông, tròn, dài, ngắn, cao, thấp, thẳng, cong, v.v...) và hiển sắc (trắng, xanh, vàng, đỏ, đen, tím, sáng, tối, bụi, khói, mây, v.v...).
2. Thanh, đối tượng của nhĩ căn (hay cảnh giới cảm giác của nhĩ thức), gồm có các loại tiếng do từ thân thể các sinh vật phát ra (tiếng nói; hoặc không phải tiếng nói như la, khóc, cười, rên, rống, gáy, hú, gầm, kêu, v.v...); hoặc do từ các loại vật chất khác phát ra (tiếng sấm, gió rít, thân cây kẽo kẹt, nước róc rách, sóng rì rào, v.v...).
3. Hương, đối tượng của tị căn (hay cảnh giới cảm giác của tị thức), là các loại mùi thơm (như trầm hương, hoa bưởi, hoa lài, v.v...); mùi hôi thúi (như phân, thịt rữa, cá tanh, cơm thiu, v.v...); lại các mùi thơm, thúi cũng có mùi nặng, mùi nhẹ.
4. Vị, đối tượng của thiệt căn (hay cảnh giới cảm giác của thiệt thức), là các thứ vị mà lưỡi nếm biết được, như ngọt, mặn, chát, đắng, cay, chua, v.v...
5. Xúc, đối tượng của thân căn (hay cảnh giới cảm giác của thân thức), là các xúc cảm nóng, lạnh, mát, cứng, lỏng, trơn, nhám, nặng, nhẹ, đói, khát, v.v...
6. Pháp, đối tượng của ý căn (hay cảnh giới tri giác của ý thức), gồm một phạm vi vô cùng rộng rãi, phức tạp và trừu tượng, là tất cả những đối tượng cảm giác của năm thức trước, những ý tượng, ảnh tượng, và tư tưởng không ảnh tượng; ngoài ra, cũng còn phải kể tới các loại vô biểu sắc, các loại tâm sở, các pháp “bất tương ưng hành”, và các pháp “vô vi”.
Thời xưa, chữ Phạn “visaya” (hay “artha”) được các nhà cựu dịch dịch là “trần”, về sau, các nhà tân dịch mới dịch là “cảnh”. Nguyên nghĩa chữ “trần” là bụi bặm. Bụi là những vật thể cực nhỏ bay đầy trong không khí, thường bám vào các vật khác làm cho dơ dáy; bởi vậy, kinh luận thường dùng nó (như các từ trần cấu, trần lao, trần tục, v.v...) để ví dụ cho phiền não. Các nhà cựu dịch cho rằng, sáu cảnh sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có tính chất làm ô nhiễm chúng sinh, cho nên đã gọi chúng là “trần” – sáu trần. Thực ra, ô nhiễm là do chính tâm thức của chúng sinh, chứ bản chất của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp không có gì là ô nhiễm. Người tu học chân chính, chuyên cần, suốt ngày cũng đối diện, tiếp xúc với sáu thứ ấy, nhưng không hề bị ô nhiễm vì chúng. Có lẽ vì vậy mà các nhà tân dịch đã gọi chúng là “cảnh” – sáu cảnh. Trong khi đó, có người còn hòa hợp cả cựu lẫn tân mà gọi là “trần cảnh” – sáu trần cảnh.
SÁU CĂN (lục căn)
“Căn” tức là gốc rễ, có khả năng làm nẩy sinh, như cây cỏ do có gốc rễ mới có thể sinh ra thân, cành. Thức nương nơi căn mà phát sinh, cũng giống như vậy.
Trong tự thân con người có đầy đủ sáu căn, tức là sáu giác quan:
1. Nhãn căn (con mắt)
2. Nhĩ căn (cái tai)
3. Tị căn (cái mũi)
4. Thiệt căn (cái lưỡi)
5. Thân căn (thân thể)
6. Ý căn (ý – tức mạt-na thức)
Mỗi căn phát sinh thức riêng của nó, mỗi khu vực đều có giới hạn của nó, không lẫn lộn, như con mắt (nhãn căn) chẳng hạn, chỉ có thể sinh ra cái thấy (nhãn thức), chứ không thể sinh ra cái nghe (nhĩ thức), hay cái ngửi (tị thức) được.
Duy Thức Học phân biệt có hai phần của một căn: phần lộ ra ngoài, dễ trông thấy bằng mắt thường, gọi là “phù trần căn” (giác quan thô phù), và phần ẩn kín bên trong, khó trông thấy được bằng mắt thường, gọi là giác quan vi tế “thắng nghĩa căn”, hoặc “tịnh sắc căn” (giác quan vi tế). Như con mắt (nhãn căn) chẳng hạn, tất cả các bộ phận bên ngoài của con mắt, nhìn là thấy ngay, là giác quan thô phù; còn võng mô, thần kinh thị giác là giác quan vi tế. Vậy có thể nói, tất cả hệ thống thần kinh cảm giác và trung tâm tiếp nhận ấn tượng cảm giác ở trong não bộ đều là giác quan vi tế, và đó là phần chính yếu để phát sinh ra nhận thức. Lại nữa, trong sáu căn thì ý căn là giác quan đặc biệt nhất. Nó cũng gồm có hai phần, nhưng cả hai phần đều không thể trông thấy bằng mắt thường được. Phù trần căn của nó là phần vi tế ẩn trong não bộ, vẫn còn nằm trong lĩnh vực sinh lí, nhưng thắng nghĩa căn, phần chính yếu của nó thì hoàn toàn thuộc lĩnh vực tâm lí, không thể dùng bất cứ một dụng cụ khoa học nào để thấy được nó, đó là một tác dụng nhận thức, tức thức mạt-na (***).
Nói cách khác, thức mạt-na chính là căn cứ địa của ý thức. Trong khi đó, đối tượng của ý căn là pháp cảnh cũng không phải là những hiện tượng vật chất cụ thể và giản dị như các “cảnh” khác, mà rất phức tạp và trừu tượng, bao gồm các đối tượng cảm giác, các ý tượng, ảnh tượng, và tư tưởng không ảnh tượng.
(***) Xin xem mục “Tám Thức” ở Pháp số 8.
SÁU GIÁC QUAN, SÁU ĐỐI TƯỢNG của GIÁC QUAN, và SÁU THỨC (lục căn, lục cảnh, lục thức)
Bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ, không phải tự nó sinh ra, mà phải nương vào những hiện tượng khác, và chỉ khi nào hội đủ các điều kiện cần thiết, thuận lợi, thì mới phát sinh được. Cái “BIẾT” của chúng ta cũng vậy, muốn được phát sinh cũng phải có điều kiện: đó là khi các giác quan tiếp xúc với đối tượng của chúng.
Duy Thức Học gọi giác quan là “căn”, đối tượng của giác quan là “cảnh” (hay “trần”), và cái biết là “thức”. Khi căn tiếp xúc với cảnh thì phát sinh ra thức. Căn là các hiện tượng sinh lí; cảnh là các hiện tượng vật lí; và thức là các hiện tượng tâm lí. Theo Duy Thức Học thì con người có cả thảy là tám thức(1), nhưng vì chỉ có sáu thức là có liên hệ mật thiết với các hiện tượng sinh-vật-lí (không có các hiện tượng này thì chúng không thể phát sinh và tồn tại được), nên ở đây chúng ta có các pháp số riêng nói về 6 thức và 12 điều kiện cần thiết để phát sinh ra chúng, là 6 căn và 6 trần:
1. Mắt (nhãn căn) tiếp xúc với hình sắc (sắc cảnh), phát sinh ra cái biết ở mắt – tức là thấy (nhãn thức).
2. Tai (nhĩ căn) tiếp xúc với âm thanh (thanh cảnh), phát sinh ra cái biết ở tai – tức là nghe (nhĩ thức).
3. Mũi (tị căn) tiếp xúc với mùi hương (hương cảnh), phát sinh ra cái biết ở mũi – tức là ngửi (tị thức).
4. Lưỡi (thiệt căn) tiếp xúc với vị (vị cảnh), phát sinh ra cái biết ở lưỡi – tức là nếm (thiệt thức).
5. Thân thể (thân căn) xúc chạm với các vật thể (xúc cảnh), phát sinh ra cái biết ở thân thể – tức là cảm xúc (thân thức).
6. Ý (ý căn, hay thức mạt-na) tiếp xúc với ý tượng (pháp cảnh), phát sinh ra cái biết ở ý – tức là nhận biết (ý thức).
Khi nói: căn tiếp xúc với trần phát sinh ra thức, mới nghe thì có vẻ giống như chủ trương duy vật, nhưng sự thật không phải thế. Căn và trần ở đây mới chỉ là điều kiện phụ giúp (tăng thượng duyên) – một trong bốn điều kiện (tứ duyên) (***) để hình thành một hiện tượng. Thức đã có hạt giống ở trong tàng thức, và đó mới là điều kiện chính (nhân duyên) để phát sinh ra thức.
Khi chỉ cần nói đến năm giác quan và năm đối tượng thì chúng ta có hai pháp số là năm căn (gồm mắt, tai, mũi, lưỡi và thân) và năm cảnh (gồm hình sắc, âm thanh, mùi, vị và xúc chạm).
Mặt khác, trong “mười hai nhân duyên” có một khâu gọi là “sáu nhập” (lục nhập). Chữ “nhập” ở đây có nghĩa là tiếp xúc, can dự vào, nhập vào nhau để phát sinh ra nhận thức. Bởi vậy, sáu nhập này phải có hai phần: trong thân và ngoài thân. Sáu thứ ở trong thân gọi là “sáu nhập trong” (lục nội nhập), tức sáu căn gồm nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý; sáu thứ ở ngoài thân gọi là “sáu nhập ngoài” (lục ngoại nhập), tức sáu cảnh gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp. Gộp lại sáu nhập trong và sáu nhập ngoài, ta có danh số gọi là “mười hai nhập” (thập nhị nhập). Vậy, sáu nhập cũng tức là mười hai nhập. Và danh số “mười hai nhập” cũng được gọi là “mười hai xứ” (thập nhị xứ). Chữ “xứ” có nghĩa là nơi y cứ, từ đó mà thức được phát sinh. Do chữ “xứ” này mà có các danh số “sáu xứ trong” (lục nội xứ - tức sáu nhập trong, hay sáu căn) và “sáu xứ ngoài” (lục ngoại xứ - tức sáu nhập ngoài, hay sáu cảnh). Nếu gộp chung cả 6 căn, 6 trần và 6 thức thì chúng ta sẽ có một pháp số liên hệ khác nữa là “Mười Tám Khu Vực” (thập bát giới). Chữ “giới” dịch là “khu vực”, có nghĩa là, mỗi sự vật đều có tính chất, hình tướng, giới hạn riêng của nó. Vạn hữu trong vũ trụ đều gồm trong mười tám khu vực là: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý (sáu căn); hình sắc, âm thanh, mùi, vị, xúc, ý tượng (sáu cảnh); thấy biết, nghe biết, ngửi biết, nếm biết, đụng chạm biết, phân biệt biết (sáu thức).
(***) Xin xem lại mục “Bốn Điều Kiện” ở Pháp số 4.
SÁU NẺO (lục đạo - lục thú)
“Đạo” là đường đi nẻo về; “thú” là xu hướng, đi tới. Pháp số này được tất cả các kinh luận Phật giáo dùng để chỉ đích xác cho cái vòng lẩn quẩn của sinh tử luân hồi. Sáu nẻo luôn luôn là “sáu nẻo luân hồi”, tức là sáu thế giới, sáu môi trường sống của các loài chúng sinh còn phải nhận chịu những quả báo đau khổ, bị ràng buộc bởi phiền não, bị che phủ bởi vô minh, chưa được an vui, giác ngộ, giải thoát; gồm có:
1. Trời (Thiên)
2. Người (Nhân)
3. A-tu-la
4. Súc-sinh
5. Ngạ-quỉ
6. Địa-ngục
Sáu nẻo này là 6 trong 10 thế giới đã đề cập trong mục “Một Niệm Ba Ngàn” ở trước. Nếu phân chia theo cách khác thì chúng ta có pháp số “Ba Cõi” (đã trình bày ở trước) và “Chín Cõi” (sẽ trình bày ở sau). Nghiệp chính là động lực duy nhất đưa chúng sinh đến, đi, lui, tới (luân hồi) trong sáu nẻo này.
SÁU NGUYÊN TẮC SỐNG CHUNG HÒA HỢP (lục hòa)
Khi còn tại thế, đức Phật đã chế ra sáu nguyên tắc sống chung hòa hợp để áp dụng trong nếp sống tăng đoàn. Tuy vậy, vì sự lợi ích thiết thực và phổ cập của chúng, ngày nay, sáu nguyên tắc sống này không những được áp dụng cho chúng xuất gia mà còn cho cả chúng tại gia, để kiến tạo cho hàng Phật tử một đời sống gia đình và xã hội hạnh phúc nhất và tiến bộ nhất.
1. Người Phật tử cùng chia sẻ với nhau một mái nhà (nếu là một gia đình), hay một hoàn cảnh sinh hoạt cộng đồng (nếu là một đoàn thể, một tổ chức); chấp nhận một cách hoan hỉ sự có mặt của nhau. (Thân hòa đồng trụ)
2. Người Phật tử cùng học tập và giữ gìn những giới luật cũng như những kỉ luật đã được chấp nhận như là những nguyên tắc hướng dẫn đời sống của cộng đồng. (Giới hòa đồng tu)
3. Người Phật tử chia sẻ và trao đổi với nhau những kiến thức và kinh nghiệm tu học mà mình có được. Những kiến thức và kinh nghiệm này sẽ bổ túc cho nhau những thiếu sót, sẽ hàn gắn và gây lại niềm tin tưởng cho nhau sau những thất bại, sẽ khai mở cho nhau những chân trời mới lạ trong quá trình tu học cũng như phụng sự xã hội. (Kiến hòa đồng giải)
4. Tài sản công cộng là của chung mọi người, người Phật tử có quyền chia xẻ và sử dụng tùy theo nhu yếu của mình, không bao giờ lấn át người khác, cũng không khởi tâm chiếm hữu làm của riêng. Mọi người cùng có trách nhiệm giữ gìn, bồi đắp những tài sản chung đó. (Lợi hòa đồng quân)
5. Người Phật tử giữ gìn lời nói thật từ tốn, không cãi cọ, tranh chấp và giận hờn với những người khác; nói lời nhã nhặn, xây dựng và bồi đắp, không gây chia rẽ, không làm tan rã đoàn thể. (Khẩu hòa vô tránh)
6. Người Phật tử luôn luôn cởi mở, bỏ tính cố chấp, biết lắng nghe và dung hòa những ý kiến khác biệt nhau để chấp nhận nhau và sống an vui với nhau trong tình thương và hiểu biết. (Ý hòa đồng duyệt)
SÁU NHẬP (lục nhập)
Trong “mười hai nhân duyên” có một khâu gọi là “sáu nhập”. Chữ “nhập” ở đây có nghĩa là tiếp xúc, can dự vào, nhập vào nhau để phát sinh ra nhận thức. Bởi vậy, sáu nhập này phải có hai phần: trong thân và ngoài thân. Sáu thứ ở trong thân gọi là “sáu nhập trong” (lục nội nhập), tức “sáu căn”, gồm nhãn, nhĩ, tị, thiệt, thân, và ý; sáu thứ ở ngoài thân gọi là “sáu nhập ngoài” (lục ngoại nhập), tức “sáu cảnh”, gồm sắc, thanh, hương, vị, xúc, và pháp. Gộp lại sáu nhập trong và sáu nhập ngoài, ta có danh số gọi là “mười hai nhập” (thập nhị nhập). Vậy, sáu nhập cũng tức là mười hai nhập. Và danh số “mười hai nhập” cũng được gọi là “mười hai xứ” (thập nhị xứ). Chữ “xứ” có nghĩa là nơi y cứ, từ đó mà thức được phát sinh. Do chữ “xứ” này mà có các danh số “sáu xứ trong” (tức sáu nhập trong, hay sáu căn) và “sáu xứ ngoài” (tức sáu nhập ngoài, hay sáu cảnh).
SÁU NIỆM TƯỞNG (lục niệm)
Người tu học Phật phải thường xuyên nghĩ nhớ đến 6 đối tượng như sau: Phật, pháp, tăng, giới, thí, thiên. (Xin xem mục “Mười Niệm Tưởng” ở Pháp số 10.)
SÁU PHÁP MÔN MẦU NHIỆM (lục diệu môn - lục diệu pháp môn)
Thiền tập là bước khởi hành quan trọng của nếp sống tỉnh thức. Có sáu pháp môn mà nếu thực tập đúng mức thì sẽ rất hữu hiệu cho công phu thiền tập. Sáu pháp môn này sở dĩ được gọi là mầu nhiệm vì chúng thực sự là những cánh cửa đưa hành giả đến thành quả giác ngộ.
1. Phép đếm hơi thở (sổ tức môn)
Giai đoạn đầu tiên và sơ đẳng của công phu thiền tập là đếm hơi thở. Mục đích của việc đếm hơi thở là để chận đứng loạn tưởng.
2. Phép theo dõi hơi thở (tùy tức môn)
Sau khi tâm ý đã được “cột” lại bằng cách đếm hơi thở, hành giả hãy bỏ phép đếm hơi thở đi mà thực tập phương pháp tiếp theo là theo dõi hơi thở. Phương pháp này có khả năng làm tăng thêm sự định tâm; đồng thời nó cũng có công dụng dưỡng thần, và làm phát sinh niềm hỉ lạc.
3. Phép dừng lại (chỉ môn)
Tâm ý của hành giả bây giờ đã được tĩnh lặng. Hãy tiếp tục nắm giữ hơi thở điều hòa, nhưng bỏ sự theo dõi hơi thở đi, để bước vào pháp môn thứ ba là làm cho sự quên lãng, sự mê muội của tâm ý dừng lại. Mục đích của hành giả khi thực tập pháp môn này là để có được chánh niệm. Quên lãng, mê muội, loạn tưởng là những tình trạng “thất niệm” (nghĩa là mất chánh niệm). Vậy, làm cho tâm ý dừng lại không có nghĩa là cắt đứt tâm ý hay nhốt tâm ý lại, mà là chuyển tâm ý từ thất niệm thành chánh niệm. Cách thực tập tốt nhất cho pháp môn này là cách “nhận diện”. Nhận diện là nhận biết rõ ràng về mọi tư thế (đi, đứng, nằm, ngồi) và mọi hành động (nghĩ gì, nói gì, làm gì) của thân thể mình.
4. Phép nhìn để thấy rõ (quán môn)
Thiền tập không phải là ngồi yên lặng để suy nghĩ về một vấn đề. Thiền tập là để đạt được tuệ giác, và tuệ giác chỉ bừng sáng nhờ công phu quán chiếu (nghĩa là nhìn sâu để thấy rõ) chứ không phải nhờ suy nghĩ.
5. Phép trở về (hoàn môn)
“Chỉ” và “quán” phải được coi là hai pháp môn trung tâm của công phu thiền tập; đó chính là động lực mạnh mẽ nung nấu cho tuệ giác bừng sáng. Nhưng nếu cứ mải mê quán chiếu rồi để cho tâm ý đi sai lạc vào nẻo kiến chấp, phân biệt (thấy có tâm và vật, có chủ thể quán chiếu và đối tượng quán chiếu) thì tuệ giác lại không thể nào bừng sáng được. Cho nên hành giả phải thực tập pháp môn “trở về” để đập vỡ những thành kiến, cố chấp (tức là phá trừ ngã chấp). “Trở về” tức là trở về với thực tại chân lí, trở về để nhìn thấy bản tính của mình, bằng cách thắp sáng hiện hữu, ý thức rõ ràng về hiện sinh của vạn hữu, thấy rõ vạn hữu trong liên hệ mật thiết với tự tính. Nói cách khác, trở về với thực tại chân lí là thấy thực tại bằng trực giác kinh nghiệm của con mắt giác ngộ chứ không phải bằng tri giác phân biệt, suy tư, hay khái niệm.
6. Phép trong sạch (tịnh môn)
Pháp môn “trở về” đã giúp hành giả phá vỡ mọi khái niệm, mọi vọng tưởng phân biệt để thấy rõ được mặt mũi chân thật của thực tại mầu nhiệm; nhưng nếu hành giả còn thấy rằng chính mình đã chứng đắc tư cách ấy thì tâm ý của hành giả vẫn còn vướng mắc, còn có chỗ “trụ”, còn có ý niệm “thọ”, và như thế tức là tâm ý vẫn còn bị ô nhiễm. Vậy đến đây, hành giả cần trong sạch hóa tâm ý đến tận cùng bằng cách gột rửa hoàn toàn ý niệm về “trụ”, về “đắc”, về “chứng ngộ” v.v...; nghĩa là hành giả phải ở trong trạng thái được diễn tả như trong kinh Kim Cang là “vô sở trụ”, hay trong kinh Bát Nhã là “vô sở đắc”, hoặc như trong kinh Bốn Mươi Hai Chương là “vô niệm, vô trụ, vô tu, vô chứng”.
Đó là trạng thái giác ngộ và giải thoát toàn vẹn. Ở trạng thái này, hành giả là người hoàn toàn tự do, tự chủ, bình thản, an lạc, không còn bị bất cứ một vọng tưởng nào đánh lừa, hoặc một khái niệm nào che khuất; do đó, với trí phương tiện của bậc giác ngộ, hành giả có thể tới lui tự tại trong biển sinh tử để hành đạo mà không cần phải trốn tránh hay sợ hãi gì nữa.
Nếu coi hai pháp môn “sổ tức” và “tùy tức” là giai đoạn khởi đầu, hai pháp môn “chỉ” và “quán” là giai đoạn trung tâm, thì hai pháp môn “hoàn” và “tịnh” chính là giai đoạn hoàn tất của công phu thiền tập. Nhưng đó cũng chỉ là cái nhìn phương tiện mà thôi. Thực ra, cũng như những pháp số khác, đối với pháp số này, hành giả cũng phải có một cái nhìn toàn bộ để thấy rõ mối liên hệ chặt chẽ giữa sáu pháp môn với nhau. Một pháp môn có mặt trong tất cả sáu pháp môn, và ngược lại, cả sáu pháp môn đồng thời có mặt trong một pháp môn. Trong lúc thiền tập cũng vậy, nếu thiếu một pháp môn nào trong sáu pháp môn này thì công phu tu tập sẽ trở thành dở dang, không đem lại kết quả trọn vẹn.
SÁU PHÁP QUA BỜ (lục độ - lục ba la mật)
Người Trung-hoa phiên âm tiếng Phạn “pàramità” thành “ba-la-mật-đa”, hay gọn hơn là “ba-la-mật”, và dịch nghĩa là “đáo bỉ ngạn”, hay “độ”. Nghĩa tiếng Việt của “đáo bỉ ngạn” là đến bờ bên kia, và “độ” là qua, vượt qua, đưa qua. Đạo Phật thường ví vô minh, mê muội như là dòng sông (sông mê), và sinh tử luân hồi như là biển cả (biển sinh tử). Vậy, “qua bờ” là vượt qua sông mê để đến được bờ giác ngộ, vượt qua biển sinh tử để đến được bến giải thoát. Sáu phép qua bờ là sáu hạnh tu tập lớn lao của người phát tâm Bồ-tát. Nhờ thực hành sáu đại hạnh này mà Bồ-tát có thể tự mình đến (tự độ) và đưa bao nhiêu người khác cùng đến (độ tha) bờ giác ngộ.
1. Bố thí
“Bố thí” là san sẻ, giúp đỡ người khác bằng những gì mình có. Hành giả có thể bố thí bằng những phương tiện vật chất như tiền của, cơm áo, thuốc men v.v... Hành giả có thể bố thí bằng sự dạy dỗ, giảng thuyết giáo pháp nhằm nâng cao trình độ hiểu biết, khai mở trí tuệ, làm cho người ta thấy được điều hay lẽ thật và quay về nếp sống cao thượng. Hành giả có thể bố thí bằng những lời khuyên giải, trấn an, khuyến khích, hoặc bằng các hành động dũng cảm, tin cậy để đưa người ra khỏi những tình trạng bế tắc, nghi nan, bối rối, khủng hoảng, lo âu, sợ hãi. Hóa giải được những hận thù giữa hai người, hai nhóm, hai chủng tộc, hai quốc gia v.v... để đưa họ trở về sống trong hòa bình, thương yêu và tin cậy là một hành động bố thí thật lớn lao và có ý nghĩa của hành giả. Tóm lại, trong tất cả mọi trường hợp, hành giả biết đem khả năng, thì giờ và tâm lực để phục vụ giúp đời, đều là những hành động bố thí chính đáng của người thực hiện hạnh Bồ-tát.
2. Trì giới
“Trì giới” là giữ gìn giới hạnh để ngăn ngừa tội lỗi, tạo cho mình cái phong cách đoan trang, hành vi chính đáng. Giới có khả năng giúp cho hành giả thường xuyên sống trong chánh niệm, tăng trưởng định lực và phát huy trí tuệ. (Xin xem lại mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở trước.)
3. Nhẫn nhục
“Nhẫn nhục” là nhịn nhục, chịu đựng. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Một câu nhịn chín câu lành.” Chữ “nhịn” ấy là nói lên đức tính nhẫn nhục của con người đức độ. Với đức tính này, hành giả có thể chịu đựng được mọi nghịch cảnh bất cứ từ đâu tới. Nhưng đừng hiểu lầm rằng, muỗi đốt thì cứ để yên cho muỗi đốt, không chống cự, thì gọi là chịu đựng! Trường hợp này, đức Phật có dạy bằng một câu chuyện ngụ ngôn như sau: Có một người ngu si, trông thấy đầu một vị sư không có tóc thì cho rằng đó là cái mõ, bèn lấy gậy đánh như đánh mõ. Trong lúc đó thì vị sư lại nghĩ rằng, đã là kẻ tu hành thì phải nhẫn nhục, rồi cứ đứng yên chịu đánh, cho đến khi bể đầu! Đó không phải là vị sư tu hạnh nhẫn nhục.
Người đánh kia đã ngu si mà vị sư ấy cũng không sáng suốt hơn gì! Ý nghĩa của hạnh nhẫn nhục là khi gặp các nghịch cảnh như vậy thì hành giả không sinh tâm giận dữ, oán hận, than trách kẻ nghịch, nhưng cũng không âm thầm chịu đựng một cách khờ dại, thụ động, mà phải tìm cách hóa giải để hoán cải kẻ nghịch bằng tất cả tình thương, sự hiểu biết và lòng cởi mở của mình. Vì có tình thương và trí tuệ soi sáng, hành giả có thể chịu đựng được cảnh bất công, đàn áp, không kêu than, không thù hận, nhưng cũng phải vì mình và vì người, tìm mọi cách thay đổi tình trạng bất công, đàn áp ấy, để cho mọi người cùng có được đời sống công bằng, hạnh phúc.
Mặt khác, người tu hạnh nhẫn nhục không những chỉ chịu đựng được nghịch cảnh mà còn chịu đựng được cả những sức tấn công của ái dục, giàu sang, danh lợi và địa vị, bởi vì thực chất của những thứ này vẫn chỉ là những nọc độc làm hại huệ mạng của hành giả. Không những thế, khi đạt được những thành quả tốt đẹp trong các công tác Phật sự, ngay cả khi chứng đắc những pháp môn đang tu tập, mà hành giả vẫn an nhiên, không kiêu căng, không tự mãn, không thấy mình có chứng đắc, đó là hành giả đang thực hành hạnh nhẫn nhục ở mức độ cao tột. Tóm lại, người có đức nhẫn nhục là người luôn luôn có thái độ hòa nhã, an nhiên, tự tại trong mọi trường hợp, nghịch cảnh cũng như thuận cảnh, thất bại cũng như thành công, chưa chứng đắc cũng như đã chứng đắc.
4. Tinh tấn
Sống giữa hoàn cảnh xấu xa mà không bị ô nhiễm, gọi là “tinh”; tâm niệm lúc nào cũng hướng về các việc chân chính, gọi là “tấn”. Vậy chữ “tinh tấn” nói lên cái ý chí kiên trì, dũng mãnh của hành giả luôn luôn thăng tiến trong sự nghiệp giác ngộ, như đã được trình bày trong mục “Bốn Sự Cần Mẫn” ở trước.
5. Thiền định
“Thiền định” là trạng thái tĩnh lặng của tâm ý, khi mọi loạn tưởng, vọng động đã hoàn toàn lắng đọng. (Xin xem lại mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở Pháp số 3.)
6. Trí tuệ
“Trí tuệ” là tuệ giác sáng tỏ sau khi đã diệt trừ mọi phiền não, kiến chấp, vô minh. (Xin xem lại mục “Ba Môn Học Giải Thoát” ở Pháp số 3.) Kinh Di Giáo dạy: “Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền chắc chắn có thể chở ta qua khỏi biển già, biển bệnh, biển chết; là ngọn đèn rất sáng tỏ có thể soi sáng tận cùng chỗ tối tăm u ám; là thang thuốc mầu nhiệm chữa lành mọi chứng bệnh; và là cây búa lớn chặt đứt cả vô minh.”
Đối với sáu phép qua bờ này, trong khi quán chiếu cũng như thực hành, người tu học phải thấy được mối liên quan mật thiết của chúng. Chúng theo nhau như bóng với hình. Chúng bổ túc cho nhau và đồng thời làm nền tảng cho nhau. Trong bố thí đồng thời cũng có mặt của trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí tuệ; và trong nhẫn nhục, trí tuệ v.v... cũng vậy. Cứ thiếu đi một pháp môn thì năm pháp môn kia sẽ trở nên yếu ớt, què quặt. Sáu phép qua bờ là cả một toàn bộ đại hạnh của Bồ-tát.
SÁU PHIỀN NÃO GỐC RỄ (lục căn bản phiền não)
“Phiền não” là từ chỉ chung cho tất cả những tác dụng tinh thần làm cho thân tâm các loài hữu tình phát sinh buồn phiền, bứt rứt, tán loạn, giận hờn, lầm lỗi, ô nhiễm v.v..., tức là mọi hiện tượng tâm lí xấu ác thường gây khổ não cho chúng sinh. Số lượng các phiền não nhiều không kể xiết, trong đó, theo Duy Thức Học phân tích, có 6 loại căn bản nhất, là gốc rễ sinh ra vô lượng thứ phiền não ngành ngọn. 6 loại phiền não gốc rễ này gồm có:
1. Tham: tâm ham muốn đối với trần cảnh.
2. Sân: tâm tức giận khi gặp việc không vừa ý.
3. Si: tâm mê muội không thấy rõ lẽ thật của mọi sự vật.
4. Mạn: tâm kiêu ngạo, tự cao tự đại.
5. Nghi: tâm nghi ngờ đối với các lẽ thật, chánh pháp.
6. Ác kiến: tâm chấp trước, thấy biết không đúng với lẽ thật.
Sáu loại phiền não căn bản này luôn luôn theo sát các loài hữu tình, không phút nào rời xa, hành tướng của chúng lại rất vi tế, nếu không tỉnh giác thì rất khó nhận biết (chẳng hạn, phần đông người ta không nhận biết được mình đang kiêu ngạo, đang tham lam ...), cho nên luận Câu Xá còn gọi chúng là “sáu tùy miên” (lục tùy miên).
Lại nữa, trong 6 loại phiền não căn bản trên, loại “ác kiến” được chia làm 5 thứ, gọi là “5 cái thấy sai lạc” (ngũ kiến: thân kiến, biên kiến, tà kiến, kiến thủ kiến, giới cấm thủ kiến – Xin xem lại mục “Năm Cái Thấy Sai Lạc” ở Pháp số 5). 5 thứ kiến chấp này, cộng với 5 loại phiền não tham sân si mạn nghi trên kia, cả thảy có 10 loại phiền não căn bản (thập căn bản phiền não); cũng được gọi là “10 tùy miên” (thập tùy miên). Chính 10 thứ phiền não này đã là các động lực sai khiến chúng sinh tạo vô số ác nghiệp để phải trôi lăn mãi trong dòng sinh tử, cho nên chúng cũng được gọi là “10 sử” (thập sử – xin xem mục “Mười Động Lực Sai Khiến” ở Pháp số 10). Vậy, sử và tùy miên chính là tên gọi khác của căn bản phiền não.
SÁU THÂN NHÂN (lục thân)
Trong kinh điển thường thấy có thuật ngữ “lục thân quyến thuộc”. “Quyến thuộc” là chỉ chung cho tất cả bà con họ hàng; còn “lục thân” tức là 6 loại người gần gũi nhất của mình, gồm có: cha, mẹ, anh chị, em, vợ (chồng), và con.
SÁU THẦN THÔNG (lục thông)
Chữ “thần” ở đây có nghĩa là năng lực mầu nhiệm, vượt quá sức hiểu biết của con người; chữ “thông” nghĩa là thông suốt, không có gì làm cho chướng ngại. Thần thông là sức tác dụng mầu nhiệm, tự tại vô ngại, siêu việt nhân gian, không thể nghĩ bàn, do công phu tu tập thiền định mà đạt được. Bởi vậy, bản chất của thần thông là trí tuệ, có nghĩa, không tu thiền định, không phát huy được trí tuệ, thì nhất định không thể chứng đắc thần thông. Trong Phật giáo, nói tới thần thông, gồm có sáu thứ:
1. Thần túc thông (hay thân như ý thông): tùy ý muốn đến chỗ nào thì tự khắc đến đó, tùy ý muốn chuyển biến tướng trạng như thế nào thì tức khắc có tướng trạng đó; riêng đức Phật còn có cái năng lực tùy ý cải biến đối cảnh, tự tại vô ngại.
2. Thiên nhãn thông: thấy suốt các tướng khổ vui, sinh tử của chúng sinh trong sáu đường; thấy tất cả mọi loài, mọi vật trong thế gian, bất luận xa gần, lớn nhỏ, có hình sắc hay không có hình sắc, không có gì ngăn cách, chướng ngại.
3. Thiên nhĩ thông: nghe rõ tất cả âm thanh, ngôn ngữ, những tiếng kêu than đau khổ, những lời mừng vui của mọi loài chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
4. Tha tâm thông: thấy rõ tâm ý, những tư tưởng lành dữ của mọi loài chúng sinh trong sáu đường.
5. Túc mạng thông: thấy rõ đời sống cùng những việc làm của chính mình cũng như của mọi người khác trong nhiều kiếp quá khứ.
6. Lậu tận thông: Đoạn trừ tất cả phiền não (kiến tư hoặc) trong ba cõi, vĩnh viễn thoát li sinh tử luân hồi.
Trong sáu thứ thần thông trên, ngoại trừ lậu tận thông, cả năm thứ thần thông kia, bất cứ ai, kể cả ngoại đạo, tu định đạt đến Tứ-thiền, đều chứng được, gọi là “ngũ thông” (thần túc thông, thiên nhãn thông, thiên nhĩ thông, tha tâm thông, và túc mạng thông). Riêng lậu tận thông, chỉ có Phật và A-la-hán mới chứng được. Bởi vậy, trong sáu thứ thần thông trên, chỉ có lậu tận thông là quan trọng nhất đối với người tu học Phật, từng được đức Phật nhấn mạnh và khuyến khích tu tập. Khi đã chứng đạt loại thần thông này rồi thì năm loại kia cũng tự nhiên mà có được, và chỉ được coi là phương tiện dùng để độ sinh trong những trường hợp thật cần thiết mà thôi. Chính đức Phật cũng đã từng lưu ý quí vị A-la-hán không nên sử dụng năm thứ thần thông ấy trong những lúc không cần thiết. Lại nữa, trong sáu thứ thần thông trên, không những chỉ Phật và A-la-hán mới chứng được lậu tận thông, mà cả thiên nhãn thông và túc mạng thông của các Ngài cũng thù thắng hơn mọi người khác, cho nên, đối với Phật và A-la-hán, ba loại thần thông này (thiên nhãn thông, túc mạng thông và lậu tận thông) được gọi là “ba minh” (tam minh). – Túc mạng thông của A-la-hán có thể thấy rõ đến 500 kiếp quá khứ; túc mạng thông của Phật thì thấy rõ vô lượng kiếp quá khứ; riêng thiên nhãn thông của Phật còn thấy rõ các tình trạng sinh tử của chúng sinh trong vô số kiếp vị lai.
Đó là ý nghĩa của “lục thông” rất thường thấy trong kinh luận. Riêng trong Thiền tông, “lục thông” được trình bày một cách thiết thực, rất đáng được làm phương châm trong việc tu học. Tổ Lâm Tế Nghĩa Huyền (?-867) nói: “... còn như lục thông của Phật thì không phải như thế: vào thế giới của sắc mà không bị sắc mê hoặc; vào thế giới của thanh mà không bị thanh mê hoặc; vào thế giới của hương mà không bị hương mê hoặc; vào thế giới của vị mà không bị vị mê hoặc; vào thế giới của xúc mà không bị xúc mê hoặc; vào thế giới của pháp mà không bị pháp mê hoặc. Cho nên, đã đạt được cái vô tướng của sắc thanh hương vị xúc pháp, thì chúng không thể trói buộc kẻ “đạo-nhân-không-y-cứ” này được. Tuy vẫn là năm uẩn hữu lậu, mà thực sự là địa hành thần thông.” (Trích dịch từ tác phẩm Lâm Tế Ngữ Lục, được in trong sách Đề Xướng Lâm Tế Lục của Bình Điền Tinh Canh [Hirata Seiko], do nhà Hakujusha tại Đông-kinh xuất bản, năm 1984.)
Lời của tổ Lâm Tế trên đây, đại ý nói rằng, ngưiờ sống trong ngũ dục lục trần mà không bị ngũ dục lục trần chi phối, làm cho ô nhiễm, thì đó là người đã chứng được lục thông.
SÁU THỨC (lục thức)
Sáu thức gồm có nhãn thức, nhĩ thức, tị thức, thân thức và ý thức (Xin xem mục “Tám Thức” ở Pháp số 8).
SÁU TÍNH CHẤT CỦA HẠT GIỐNG (chủng tử lục nghĩa)
Hạt giống (chủng tử) là nguồn năng lượng phát hiện ra mọi hiện tượng. Tất cả mọi hạt giống đều được chứa đựng trong tàng thức (sẽ được đề cập tới trong mục “Tám Thức” ở sau). Hạt giống có sáu tính chất:
1. Biến chuyển từng sát na (sát na diệt): Vì tính chất của tàng thức là luôn luôn chuyển biến và hoạt động liên tục không gián đoạn, cho nên tất cả mọi hạt giống chứa đựng trong nó cũng luôn luôn chuyển biến, sinh diệt từng sát na, liên tục không gián đoạn.
2. Quả sinh ra cùng lần với nhân (quả câu hữu): Trong hạt giống (nhân) đã sẵn ẩn tàng có quả. Vì vậy, hễ có nhân là đồng thời có quả. Khi mắt thấy sắc thì tức khắc có cái “biết” của mắt. Cái biết của mắt chính là hạt giống (nhân) chứa trong tàng thức mà cũng chính là cái biết được sinh ra (quả) khi mắt tiếp xúc với sắc.
3. Liên tục chuyển biến theo thức (hằng tùy chuyển: Khi thức phát khởi và biến chuyển thì hạt giống cũng biến chuyển theo thức, liên tục không gián đoạn.
4. Duy trì được tính chất của nó (tánh quyết định): Nếu nó là hạt giống lành thì nó luôn luôn giữ được tính chất lành của nó. Nếu nó là hạt giống giận thì nó luôn luôn giữ được tính chất giận của nó.
5. Đợi có đầy đủ các điều kiện cần thiết mới phát hiện (đãi chúng duyên): Phải có tai tiếp xúc với âm thanh thì hạt giống “nhĩ thức” mới phát hiện.
6. Hạt giống đem lại kết quả của chính nó (dẫn tự quả): Hạt giống nào thì phát khởi hiện hành của hạt giống ấy. Hạt giống lúa thì đem lại kết quả là cây lúa.
SÁU TÙY MIÊN (lục tùy miên)
6 tùy miên tức 6 phiền não căn bản. (Xin xem mục “Sáu Phiền Não Gốc Rễ” ở trên.)
SÁU TỨC PHẬT (lục tức Phật)
Đó là sáu hành vị (địa vị tu hành) của “Bồ-tát viên giáo” do tông Thiên Thai thành lập. Theo kinh Hoa Nghiêm, quá trình tu tập của hàng Bồ-tát gồm có 52 bậc: 10 bậc Tín, 10 bậc Trụ, 10 bậc Hạnh, 10 bậc Hồi-hướng, 10 bậc Địa, bậc Đẳng-giác, và bậc Diệu-giác (tức quả Phật). Tông Thiên Thai của Trung-quốc lấy đó làm “hành vị” (địa vị tu hành) của “Bồ-tát biệt giáo” (pháp môn riêng biệt của Bồ-tát, không cùng thông với Thanh-văn và Duyên-giác); lại lập ra sáu hành vị đặc biệt khác nữa cho “Bồ-tát viên giáo” (giáo lí viên đốn thượng thừa, không tiệm tiến như giáo lí biệt giáo), và phối hợp 52 bậc với 6 hành vị này, gọi là giáo lí “lục tức”. “Tức” tức là “tương tức” (tức là nhau); ở đây là tương tức với chân lí, thành một thể với chân lí, gồm có sáu giai đoạn, cho nên gọi là “lục tức”; lại tương tức với Phật, thành một thể với Phật, gọi là “lục tức Phật”.
1. Về lí, tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, đều trụ nơi Phật tánh, cùng với Như Lai không hai, không khác, đều tức là Phật; đó gọi là “lí tức”, và cũng là “lí tức Phật” (Phật trên lí thuyết).
2. Có người nhờ nơi thiện tri thức, hoặc do xem kinh điển mà biết đến quả bồ đề chân thật, rồi bằng vào danh ngôn, khái niệm mà thông hiểu rõ ràng giáo nghĩa “tất cả các pháp đều là Phật pháp”; đó gọi là “danh tự tức”, và cũng là “danh tự tức Phật” (Phật ở danh từ mà thôi).
3. Người đã bằng vào danh tự, khái niệm mà thông hiểu tất cả các pháp đều là Phật pháp, tiến thêm một bước, y cứ nơi giáo pháp mà quán chiếu (quán), tu hành (hành), khiến cho tâm sáng tỏ, trí tuệ tương ưng với chân lí, quán và hành là một, lời nói và việc làm nhất trí; đó gọi là “quán hành tức”, và cũng là “quán hành tức Phật” (Phật ở giai đoạn đang còn tu tập).
4. Hành giả ở giai đoạn “quán hành tức” trên đây, càng tu tập chuyên tinh thì tâm càng tịch tĩnh, càng quán chiếu thâm sâu thì trí càng sáng tỏ, sáu căn thanh tịnh, đoạn trừ kiến tư hoặc, chế phục vô minh, tuy chưa thật chứng chân như, nhưng tợ hồ như thật chứng; đó gọi là “tương tợ tức”, và cũng là “tương tợ tức Phật” (tợ hồ như Phật). – Giáo lí viên giáo liệt giai đoạn này tương đương với địa vị Mười-tín.
5. Từ đây, trải qua 41 bậc (Mười-trụ, Mười-hạnh, Mười-hồi-hướng, Mười-địa, và Đẳng-giác), còn 41 phẩm vô minh, Bồ-tát tuần tự đoạn trừ từng phẩm vô minh để chứng đắc từng phần thật tướng trung đạo; đó gọi là “phần chứng tức”, và cũng là “phần chứng tức Phật” (Phật từng phần).
6. Khi đã đạt đến bậc Đẳng-giác, Bồ-tát đoạn trừ một phẩm vô minh cuối cùng là nguyên phẩm vô minh (***), hiển lộ tuệ giác rốt ráo, viên mãn, siêu việt, chứng nhập cực quả Diệu-giác, tức địa vị Phật-đà; đó gọi là “cứu cánh tức”, và cũng là “cứu cánh tức Phật” (Phật toàn giác).
Trong sáu giai đoạn trên, tuy có khác nhau về tên gọi, về pháp môn sâu cạn, về trình tự tu chứng, nhưng thể tánh là một, không hai; địa vị này tức là địa vị kia, cho nên gọi là “tức”. “Lí” tức là “danh tự”, tức là “quán hạnh”, tức là “tương tợ”, tức là “phần chứng”, tức là “cứu cánh”. Việc phân định làm “sáu” địa vị là cốt biểu thị cái trật tự cao thấp, khiến cho hành giả không sinh tâm ngạo mạn trong lúc tu tập; và nêu lên chữ “tức” là biểu thị lí thể từ chúng sinh đến Phật hoàn toàn tương đồng, khiến cho hành giả không nản lòng thối chí trong lúc tu tập. Đó là ý nghĩa của giáo lí “lục tức”.
(***) Nguyên phẩm vô minh: tức là phần vô minh căn bản vi tế cuối cùng, sâu thẳm nhất.
SÁU TƯỚNG CHẤN ĐỘNG (lục chủng chấn động)
Khi có các sự việc vĩ đại xảy ra, như đức Bồ-tát từ cung trời Dâu-suất giáng trần gá vào thai mẹ, đức Bồ-tát ra khỏi thai mẹ xuất hiện ở thế gian, đức Bồ-tát vừa thành bậc Tối Chánh Giác v.v..., thì đại địa chấn động.
Đại địa chấn động có 6 tướng trạng. Kinh Đại Phẩm Bát Nhã đã y theo phương hướng chấn động mà nêu ra 6 tướng như sau: hướng Đông nổi lên, hướng Tây chìm xuống; hướng Tây nổi lên, hướng Đông chìm xuống; hướng Nam nổi lên, hướng Bắc chìm xuống; hướng Bắc nổi lên, hướng Nam chìm xuống; ngoài biên nổi lên, ở giữa chìm xuống; ở giữa nổi lên, ngoài biên chìm xuống.
Trong khi đó, kinh Tân Hoa Nghiêm y theo cách thức chấn động mà nêu 6 tướng như sau: chuyển động; nổi cao dần; vọt cao lên; phát ra tiếng động nhẹ; gào thét dữ dội; ầm ầm vang xa. Ba tướng đầu là hình thái của chấn động; ba tướng sau là âm thanh của chấn động.
SÁU TƯỚNG VIÊN DUNG (lục tướng viên dung)
Sáu tướng viên dung cũng gọi là sáu tướng duyên khởi (lục tướng duyên khởi), chỉ cho sáu tướng trạng của các pháp hoàn toàn dung thông nhau, không hề làm chướng ngại nhau.
“Viên dung” là một thuật ngữ Phật học, có nghĩa là viên mãn, dung thông, không chướng ngại, tức là vạn pháp trong vũ trụ, mỗi pháp đều giữ đặc tính riêng biệt của nó, nhưng lại dung nhiếp lẫn nhau, không một mảy may mâu thuẫn, xung đột nhau.
Lại nữa, bất cứ một pháp nào trong thế gian cũng có đầy đủ sáu tướng ấy: chung (tổng), riêng (biệt), giống (đồng), khác (dị), làm thành (thành), và không làm thành (hoại).
Với cái nhìn của con mắt phàm phu thì sáu tướng này khác biệt nhau, cách lìa nhau, nhưng với con mắt của bậc chứng đạo, nhìn sâu vào thể tánh, thì sáu tướng đó chỉ là một thể viên dung.
SÁU VỊ TÌ KHEO XẤU (lục quần tì kheo)
Thời Phật tại thế, có 6 vị tì kheo tính tình không tốt, không giữ oai nghi, cùng nhau kết bè đảng, làm thành một nhóm 6 người, chuyên phá phách quấy nhiễu đại chúng, làm phiền lòng nhiều người, kinh luật thường gọi là “lục quần tì kheo”. Tuy họ hay phá phách, làm nhiều chuyện xấu, nhưng cũng do họ tạo cơ duyên mà đức Phật chế định giới luật để áp dụng trong đời sống tăng đoàn. Theo danh sách được ghi trong Luật Tứ Phần, 6 vị đó là:
1. Nan Đà, cũng gọi là Nan Đồ, hay Tam Văn Đạt Đa (không phải là tôn giả Nan Đà, em khác mẹ của đức Phật), tính tình nhiều tham lam, sân hận, nhưng giỏi về toán số, âm dương, lại có tài thuyết pháp, biện luận.
2. Bạt Nan Đà, cũng gọi là Ưu Ba Nan Đà, là anh em với tì kheo Nan Đà ở trên. Ông tính tình vô cùng tham lam, ham chất chứa nhiều của cải, khi chết, tổng trị giá tài sản của ông để lại có đến 40 vạn lượng vàng! Tài năng của ông ngang bằng với tì kheo Nan Đà. Ông luôn luôn hăng hái và sôi nổi, có khả năng giáo hóa ngoại đạo, mà cũng là khắc tinh, từng bức hại, gây nhiều khổ đau cho ngoại đạo.
3. Ca Lưu Đà Di, vốn là một vị đại thần của triều đình vua Tịnh Phạn. Sau khi biết tin đức Thích Tôn đã thành đạo và đang ngự tại tinh xá Trúc-lâm, đức vua đã sai Ca Lưu Đà Di đi thỉnh Phật về thăm hoàng cung, nhưng khi đến nơi, được trông thấy đức Phật và nghe Phật thuyết pháp, ông liền bỏ ý định về lại hoàng cung, xin theo Phật xuất gia. Ông là người có trí tuệ cao, đặc biệt đối với các phụ nữ, ông có cách giáo hóa rất khéo léo. Tuy vậy, tính ông rất hiếu sắc, nhiều tham dục; rất nhiều điều giới Phật chế liên quan đến giới dâm, đều do những hành động bất chánh của ông. Về sau, một lần nhân bị nữ sắc làm hại, ông đến trước tôn giả Xá Lợi Phất trần tình sám hối, được tôn giả khuyên dạy chí tình, ông bèn phát tâm dũng mãnh, bỏ hết tính xấu, tinh cần tu tập, và chứng quả A-la-hán. Sau khi chứng quả, ông muốn cứu độ nhiều người khác cùng chứng quả, nhưng trong lúc đi hành hóa, ông đã bị người ta đánh cho đến chết, và thi thể bị vùi trong đống phân!
4. Xa Nặc, cũng gọi là Xiển Đà, vốn là người hầu của vua Tịnh Phạn, sau được giao cho nhiệm vụ chuyên môn đánh xe và hầu cận thái tử Tất Đạt Đa. Chính ông đã đánh xe đưa thái tử đi dạo bốn cửa thành, và sau đó lại dùng ngựa đưa thái tử vượt hoàng cung đi xuất gia. Khi thái tử cắt tóc và tiến vào rừng, ông đã khẩn thiết xin thái tử cho đi theo cùng xuất gia để luôn luôn được hầu cận thái tử, nhưng thái tử nhất quyết không cho. Ông đành mang áo mão, bảo kiếm, châu ngọc, cùng mớ tóc của thái tử trở về hoàng cung trình lên đức vua. Sau khi thành đạo, đức Phật trở về Ca-tì-la-vệ thăm vua Tịnh Phạn cùng thân tộc. Sau khi các vương tử trong hoàng tộc đã được Phật thọ nhận cho xuất gia, ông cũng xin Phật cho xuất gia. Tuy ông thành tâm xuất gia, nhưng tâm si ám, tính tình lại ngạo mạn, hay sân hận, phạm tội không biết hối cải; hay cãi cọ, gây bất hòa trong tăng chúng, đến nỗi bị mọi người gọi là “Xa Nặc ác khẩu”. Sau khi Phật nhập diệt, tăng chúng vâng lời Phật dạy, dùng cách “mặc tẩn” (xa lánh, ruồng bỏ, không nói chuyện, không đến gần) để đối xử với ông. Do tình cảnh này, ông đã hồi tâm tự xét lại mình, bèn đến trước tôn giả A Nan xin sám hối và cầu xin dạy bảo. Được tôn giả thương xót giáo giới, ông sửa đổi tâm tánh, tinh tấn dũng mãnh, và chứng quả A-la-hán.
5. Mã Túc, cũng gọi là Mã Sư, tức A Thấp Bà, vốn là đệ tử của tôn giả Xá Lợi Phất.
6. Mãn Túc, tức Phất Na Bạt, cũng gọi là Phú Na Bà Sa, vốn là đệ tử của tôn giả Mục Kiền Liên. Hai vị này, Mã Túc và Mãn Túc, bẩm tính si ám, hay sân hận, nhưng đều ưa thích âm nhạc, múa nhảy, trồng hoa, và vui chơi đây đó. Về sau đều bị ngoại đạo dùng gậy đánh cho đến chết.
Nhóm “lục quần tì kheo” này, từ sau khi hai tôn giả Ca Lưu Đà Di và Xa Nặc chứng đắc thánh quả thì không còn ở trong nhóm 6 tì kheo ấy nữa; rồi sau đó, Mã Túc và Mãn Túc đều bị ngoại đạo đánh chết; rốt cuộc chỉ còn hai anh em Nan Đà và Bạt Nan Đà nương nhau và sống cùng nhau, vả lại, cả hai cũng đã già rồi, không còn phá phách gì nữa.
SÁU VIỆC THÀNH TỰU (lục thành tựu - lục sự thành tựu)
Trong phần đầu của mỗi quyển kinh đều nêu lên 6 sự việc nhằm chứng minh tính cách xác thật của quyển kinh ấy. Lại nữa, 6 sự việc ấy cũng là 6 điều kiện, mà nếu có đầy đủ thì giáo pháp mới hưng khởi được, cho nên gọi là “thành tựu”.
1. Tín thành tựu. “Tín” là lòng tin tưởng, không nghi ngờ. Phật pháp rộng lớn sâu xa như biển cả, phải có lòng tin vững chắc mới thâm nhập được. Vào đầu mỗi quyển kinh (Hán văn), tôn giả A Nan đều nói: “Như thị ngã văn, ...”. “Như thị” nghĩa là “như vậy”, là lời tôn giả A Nan xác nhận rằng, đức Thích Tôn đã nói pháp như vậy, hoàn toàn như thật; tôn giả hoàn toàn tin tưởng, không có một điểm nghi ngờ nào, gọi là “tín thành tựu”.
2. Văn thành tựu. “Văn” nghĩa là nghe. Trong lần kết tập kinh điển đầu tiên, chính tôn giả A Nan (người được công nhận là bậc “đa văn đệ nhất”) đã được Đại Tăng tín nhiệm để đọc lại tất cả kinh điển đức Phật đã nói trong lúc Ngài còn tại thế. Khi bắt đầu đọc lại một quyển kinh, tôn giả đều nói: “Như thị ngã văn, ...”. “Ngã văn” nghĩa là “tôi nghe”, là lời tôn giả xác nhận chính mình đã được nghe đức Thế Tôn nói thời pháp ấy, không qua một trung gian nào khác, không phải do ai nói lại, cho nên gọi là “văn thành tựu”.
Một câu hỏi được đặt ra ở đây: Đức Phật đã chuyển pháp luân và nói rất nhiều bài pháp trước khi tôn giả A Nan xuất gia; và sau khi xuất gia, đâu phải đức Phật thuyết pháp ở bất cứ nơi đâu cũng có tôn giả hiện diện để nghe. Vậy tại sao biết chắc là chính tôn giả đã tự thân nghe được tất cả các thời pháp Phật nói? Trong kinh điển có ghi rằng, khi đức Thế Tôn quyết định chọn tôn giả A Nan làm thị giả thường xuyên cho Ngài, tôn giả đã nêu lên những điều kiện quan yếu để xin đức Thế Tôn hứa khả cho. Ngài đã hứa khả tất cả những điều kiện ấy, nên tôn giả đã hoan hỉ vâng mệnh làm thị giả thường xuyên cho Ngài. Trong những điều kiện quan yếu ấy, có một điều rằng, “Xin Thế Tôn nói lại cho con nghe tất cả những bài pháp mà Thế Tôn đã thuyết trong lúc con không có mặt.” Có thể nói, chính đây là điều kiện quan trọng bậc nhất đã được Thế Tôn hứa khả; và nhờ đó mà kinh điển Phật dạy đã không bị thiếu sót vào lúc kết tập. Và điều nói rằng, tôn giả A Nan đã đích thân nghe được tất cả các thời pháp Phật đã thuyết, là điều chắc chắn xác thật, không thể nghi ngờ được.
Câu “Như thị ngã văn” có ý nghĩa rằng: “Pháp như vậy đó, là do chính A Nan tôi, tự thân nghe thấy đức Thế Tôn diễn nói, không phải do tôi tự sáng chế ra.” Câu nói ấy nói lên sự xác tín của tôn giả A Nan, đánh tan mọi ngờ vực của mọi người. Hòa thượng Tuyên Hóa (1910-1995), trong tác phẩm Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Thiển Thích, có nêu lên sự việc rất xúc động như sau: Tôn giả A Nan kết tập Kinh Tạng, lúc mới lên pháp tòa, vì cùng Phật cảm ứng mà tướng hảo phát hiện, làm cho đại chúng bỗng chốc sinh lòng ngờ vực có phải đó là một đức Phật! Thứ nhất, họ nghi ngờ rằng, đức Thích Ca Mâu Ni vẫn chưa nhập diệt, bây giờ trở lại đây để giảng kinh thuyết pháp. Thứ hai, họ nghi ngờ rằng, đây là một đức Phật vừa từ phương khác đến. Thứ ba, họ kinh hoàng nghĩ rằng, tôn giả A Nan vừa đã thành Phật, nếu không thì tại sao tôn giả có đủ 32 tướng tốt và 80 vẻ đẹp, và toàn thân tỏa ánh sáng màu vàng ròng như thế? Nhưng khi tôn giả A Nan từ trên pháp tòa bắt đầu nói câu: “Như thị ngã văn”, thì toàn cả đại chúng liền dứt hết hoang mang, trở về thực tại, và biết rõ rằng, đây chính thực là tôn giả A Nan sắp đọc lại bài pháp của đức Thế Tôn đã nói.
3. Thời thành tựu. “Thời” tức là thời gian. Bắt đầu quyển kinh (Hán văn), sau bốn chữ “Như thị ngã văn” thì tiếp đến là hai chữ “nhất thời”, nghĩa là một lúc, một thuở, chỉ cho thời điểm đức Phật nói thời pháp ấy. Khi chúng sinh có duyên cảm nhận thì đấng Pháp Vương ứng cơ mở pháp hội, cảm ứng giao thoa đúng thời thì giáo pháp hưng khởi, cho nên gọi là “thời thành tựu”.
4. Chủ thành tựu. “Chủ” là chỉ cho chủ nhân thuyết pháp, tức là chữ “Phật” đặt tiếp theo sau hai chữ “nhất thời”. Đức Phật là vị giáo chủ thuyết pháp, hóa đạo trong khắp cõi thế gian và xuất thế gian, cho nên gọi là “chủ thành tựu”.
5. Xứ thành tựu. “Xứ” là địa điểm, nơi chốn đức Phật đã thuyết thời pháp ấy. Nơi Phật thuyết kinh luôn luôn được nêu rõ tiếp theo sau chữ “Phật”, như thiên cung, thành Vương-xá, thành Xá-vệ, núi Linh-thứu v.v..., gọi là “xứ thành tựu”.
6. Chúng thành tựu. “Chúng” là chỉ cho tất cả mọi người đang hiện diện trong pháp hội để nghe Phật nói bài pháp ấy. Thính chúng bao gồm đủ mọi hạng người, như Bồ-tát, chư thiên, chư vị tì kheo, tì kheo ni, cư sĩ, các loài rồng, dạ-xoa v.v... Có thính chúng thì mới có bài pháp ấy, nên gọi là “chúng thành tựu”.
SÁU YẾU TỐ (lục giới hay lục đại)
Đây là sáu yếu tố căn bản để cấu thành mọi loài hữu tình và vô tình trong thế gian, gồm có: đất (địa - tính rắn chắc), nước (thủy - tính ẩm ướt), lửa (hỏa - tính nóng lạnh), gió (phong - tính chuyển động), khoảng không (không - tính không chướng ngại), và tính phân biệt (thức - sự phân biệt để biết rõ ràng mọi vật).
Sáu yếu tố này có mặt bao trùm cả vũ trụ thế gian, cho nên gọi là “đại”. Lại nữa, mỗi yếu tố đều có tính chất, hình tướng, giới hạn riêng của nó, cho nên cũng gọi là “giới”. Đầy đủ hơn, phải nói là có bảy yếu tố (thất đại), tức là thêm tính hiểu biết (kiến đại). Năm yếu tố trước (địa, thủy, hỏa, phong, không) chỉ làm nên các loài vô tình; thêm hai yếu tố sau (kiến, thức) nữa mới làm nên các loài hữu tình.
(Trích: "Lược giải những Pháp số căn bản"
Biên soạn: Hạnh Cơ
Nguồn: http://phaptangpgvn.net/vie/thu-vien-sach/luoc-giai-nhung-phap-so-can-ba...)
- 345
Viết bình luận