Phần 2 | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Phần 2

 PHẨM LY THẾ GIAN THỨ BA MƯƠI TÁM

(Hán Bộ Từ Ðầu Quyển 53 Ðến Hết Quyển 59)
Phần 2

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười môn du hý:

Ðem thân chúng sinh làm thân quốc độ, mà cũng chẳng hoại thân chúng sinh, là môn du hý của Bồ Tát. Ðem thân quốc độ làm thân chúng sinh, mà cũng chẳng hoại thân quốc độ, là môn du hý của Bồ Tát.

Nơi Phật thân thị hiện thân Thanh Văn, thân Ðộc Giác, mà chẳng tổn giảm thân Phật, là môn du hý của Bồ Tát.

Nơi thân Thanh Văn, thân Ðộc Giác thị hiện Phật thân, mà chẳng tăng trưởng thân Thanh Văn, thân Ðộc Giác, là môn du hý của Bồ Tát.

Nơi thân Bồ Tát hạnh thị hiện thân thành Chính giác mà chẳng đoạn thân Bồ Tát hạnh, là môn du hý của Bồ Tát.

Nơi thân thành Chính giác thị hiện thân tu Bồ Tát hạnh, mà chẳng giảm thân thành Chính giác, là môn du hý của Bồ Tát.

Nơi cõi Niết Bàn thị hiện thân sinh tử, mà chẳng nhiễm trước sinh tử, là môn du hý của Bồ Tát. Nơi cõi sinh tử thị hiện Niết Bàn, mà chẳng rốt ráo nhập nơi Niết Bàn, là môn du hý của Bồ Tát.

Nhập tam muội mà thị hiện tất cả nghiệp đi, đứng, ngồi, nằm, nhưng chẳng bỏ rời tam muội chính thọ, là môn du hý của Bồ Tát.

Ở chỗ một Ðức Phật nghe pháp thọ trì, thân chẳng động mà dùng sức tam muội ở trong bất khả thuyết Phật hội đều hiện thân mà chẳng phân thân cũng chẳng khởi định, mà nghe pháp thọ trì tương tục chẳng dứt, niệm niệm như vậy nơi mỗi mỗi thân tam muội đều xuất sinh bất khả thuyết bất khả thuyết thân tam muội. Thứ đệ như vậy, tất cả kiếp còn có thể cùng tận, mà thân tam muội của Bồ Tát chẳng thể cùng tận, là môn du hý của Bồ Tát.

Ðây là mười môn du hý. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại trí du hý vô thượng của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười cảnh giới:

Thị hiện môn vô biên pháp giới, làm cho chúng sinh được nhập, là cảnh giới của Bồ Tát.

Thị hiện tất cả thế giới vô lượng diệu trang nghiêm làm cho chúng sinh được nhập, là cảnh giới của Bồ Tát.

Hóa hiện ra tất cả chúng sinh giới, đều phương tiện khai ngộ, là cảnh giới của Bồ Tát.

Nơi thân Như Lai xuất hiện thân Bồ Tát, nơi thân Bồ Tát xuất hiện thân Như Lai, là cảnh giới của Bồ Tát.

Nơi hư không hiện thế giới, nơi thế giới hiện hư không, là cảnh giới của Bồ Tát.

Nơi sinh tử giới hiện Niết Bàn giới, Nơi Niết Bàn giới hiện sinh tử giới, là cảnh giới của Bồ Tát. Ở trong ngôn ngữ của một chúng sinh xuất sinh ngữ ngôn của tất cả Phật Pháp, là cảnh giới của Bồ Tát.

Ðem vô biên thân hiện làm một thân, một thân hiện làm tất cả thân sai biệt, là cảnh giới của Bồ Tát. Ðem một thân đầy khắp tất cả pháp giới, là cảnh giới của Bồ Tát.

Ở trong một niệm làm cho tất cả chúng sinh phát tâm Bồ đề, đều hiện vô lượng thân thành Ðẳng Chính giác, là cảnh giới của Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được cảnh giới đại trí huệ vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười lực:

Thâm tâm lực, vì chẳng tạp tất cả thế tình.

Tăng thượng thâm tâm lực, vì chẳng bỏ tất cả Phật pháp. Phương tiện lực, vì tất cả công hạnh đều rốt ráo.

Trí lực, vì biết tất cả tâm hành.

Nguyện lực, vì tất cả mong cầu đều làm cho viên mãn. Hạnh lực, vì cùng tột thuở vị lai chẳng dứt.

Thừa lực, vì hay xuất sinh tất cả thừa mà chẳng bỏ Ðại thừa.

Thần biến lực, vì ở trong mỗi lỗ lông đều thị hiện tất cả thế giới thanh tịnh, tất cả Như Lai xuất thế. Bồ đề lực, vì làm cho tất cả chúng sinh phát tâm thành Phật không đoạn tuyệt.

Chuyển pháp luân lực, vì nói một câu pháp đều xứng những tính dục lạc của tất cả chúng sinh. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thập lực nhất thiết trí vô thượng của chư Phật.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô úy:

Ðại Bồ Tát đều hay văn trì tất cả ngôn thuyết nghĩ rằng: giả sử có vô lượng vô biên chúng sinh từ mười phương đến đem trăm ngàn đại pháp để hỏi tôi. Nơi tất cả câu hỏi của họ, tôi không thấy có chút gì khó đáp cả. Vì không thấy khó nên tâm được vô úy, rốt ráo đến bĩ ngạn đại vô úy. Tùy theo chỗ họ hỏi đều có thể giải đáp quyết đoán trừ sự nghi hoặc cho họ không hề khiếp sợ. Ðây là vô úy thứ nhất của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát được Như Lai quán đỉnh vô ngại biện tài đến nơi bỉ ngạn rốt ráo tất cả văn tự ngôn âm khai thị bí mật. Nghĩ rằng: giả sử có vô lượng vô biên chúng sinh từ mười phương đến, đem vô lượng pháp hỏi tôi. Nơi tất cả lời hỏi của họ, tôi không thấy có chút gì là khó đáp cả. Vì không thấy khó nên tâm được vô úy, rốt ráo đến nơi bĩ ngạn đại vô úy. Tùy chỗ hỏi của họ đều có thể giải đáp dứt nghi hoặc không kinh sợ. Ðây là môn vô úy thứ hai của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp là không, lìa ngã, lìa ngã sở, không tạo tác, không tác giả, không tri giả, không mạng giả, không dưỡng dục giả, không bổ đặc già la. Rời uẩn, xứ, giới. Thoát hẳn các kiến chấp. Tâm như hư không. Nghĩ rằng : chẳng thấy chúng sinh có chút tướng tổn não được thân ngữ ý của tôi. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát đã rời ngã và ngã sở, nên chẳng thấy các pháp có chút tính tướng. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, rốt ráo đến bỉ ngạn đại vô úy, kiên cố dũng mãnh chẳng ai trở hoại được. Ðây là môn úy thứ ba của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát được Phật lực gia hộ, Phật lực nhiếp trì, trụ tại oai nghi của Phật, việc làm chân thiệt không biến đổi. Nghĩ rằng: tôi chẳng thấy có chút phần oai nghi làm cho chúng sinh móng lòng quở trách. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, ở trong đại chúng an ổn thuyết pháp. Ðây là môn vô úy thứ tư của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát, thân khẩu ý đều thanh tịnh, sạch trắng nhu hòa, xa lìa những điều ác. Nghĩ rằng: tôi chẳng thấy thân khẩu ý ba nghiệp có chút phần đáng quở trách. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, có thể làm cho chúng sinh an trụ nơi Phật pháp. Ðây là môn vô úy thứ năm của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát thường được Kim Cương lực sĩ, Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v... theo hộ vệ. Tất cả Như Lai luôn hộ niệm chẳng rời. Ðại Bồ Tát nghĩ rằng tôi chẳng thấy có chúng ma ngoại đạo kẻ tà kiến nào có thể đến làm chướng ngại hạnh Bồ Tát của tôi. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy rốt ráo đến bỉ ngạn đại vô úy, phát tâm hoan hỷ thực hành hạnh Bồ Tát. Ðây là môn vô úy thứ sáu của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát đã được thành tựu niệm căn đệ nhất tâm không quên mất, được Phật hứa khả. Nghĩ rằng: Ðức Như Lai nói văn tự cú pháp thành đạo Bồ đề. Trong đó tôi chẳng thấy có chút phần quên mất. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, thọ trì tất cả chính pháp của Như Lai, thực hành Bồ Tát hạnh. Ðây là môn vô úy thứ bảy của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát trí huệ phương tiện đều đã thông đạt, Bồ Tát chư lực đều đã rốt ráo, thường xuyên giáo hóa tất cả chúng sinh. Vì bi mẫn chúng sinh nên luôn dùng nguyện tâm khắn chặt nơi Phật Bồ đề. Vì thành tựu chúng sinh nên ở nơi đời phiền não trược thị hiện thọ sinh, dòng họ tôn quý, quyến thuộc viên mãn, chỗ mong muốn tùy tâm được toại nguyện, hoan hỷ vui sướng. Nghĩ rằng: tôi dầu cùng quyến thuộc này tụ hội mà chẳng có một chút gì đáng tham luyến để bỏ phế việc tu hành thiền định, giải thoát và các môn tam muội, tổng trì, biện tài, đạo pháp Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát ở nơi tất cả pháp đã được tự tại đến bĩ ngạn, tu hạnh Bồ Tát thề chẳng đoạn tuyệt. Chẳng thấy thế gian có một cảnh giới nào làm mê loạn được Bồ Tát đạo. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy rốt ráo đến nơi bỉ ngạn đại vô úy. Dùng đại nguyện lực nơi tất cả thế giới thị hiện thọ sinh. Ðây là môn vô úy thứ tám của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát luôn chẳng quên mất tâm Nhất thiết trí, ngự nơi Ðại thừa, thực hành hạnh Bồ Tát. Dùng thế lực của đại tâm nhất thiết trí, thị hiện tất cả oai nghi tịch tịnh của Thanh Văn, Ðộc Giác. Nghĩ rằng: tôi chẳng tự thấy sẽ ở nơi nhị thừa mà lấy chút phần xuất ly. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy đến nơi bĩ ngạn vô thượng đại vô úy. Có thể khắp thị hiện đạo nhất thiết thừa, rốt ráo đầy đủ bình đẳng Ðại thừa. Ðây là môn vô úy thứ chín của đại Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát thành tựu tất cả pháp bạch tịnh, đầy đủ thiện căn, viên mãn thần thông, rốt ráo an trụ nơi Phật Bồ đề, đầy đủ tất cả hạnh Bồ Tát. Ở chỗ chư Phật thọ ký nhất thiết trí quán đỉnh, mà thường khuyến hóa chúng sinh thực hành Bồ Tát đạo. Nghĩ rằng: tôi chẳng tự thấy có một chúng sinh đáng được thành thục, mà chẳng thể thị hiện Phật tự tại để thành thục. Vì chẳng thấy nên tâm được vô úy, rốt ráo đến nơi bĩ ngạn đại vô úy, chẳng dứt Bồ Tát hạnh, chẳng bỏ Bồ Tát nguyện. Tùy tất cả chúng sinh đáng được giáo hóa, hiện Phật cảnh giới để giáo hóa họ. Ðây là môn vô úy thứ mười của đại Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại úy vô thượng của chư Phật, nhưng cũng chẳng bỏ vô úy của Bồ Tát.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp bất cộng:

Ðại Bồ Tát chẳng do người dạy, tự nhiên tu hành sáu pháp Ba la mật, thường thích đại thí chẳng hề bỏn xẻn, luôn trì tịnh giới chẳng hủy phạm, đầy đủ nhẫn nhục tâm chẳng lay động, có đại tinh tấn chưa từng thối chuyển, khéo vào các thiền định trọn không tán loạn, khéo tu trí huệ trừ sạch ác kiến. Ðây là pháp bất cộng thứ nhất: chẳng do người dạy mà tùy thuận đạo Ba la mật tu Lục độ.

Ðại Bồ Tát hay khắp nhiếp thọ tất cả chúng sinh, dùng của cải và chính pháp để ban cho họ, chính niệm hiện tiền, hòa nhan ái ngữ, trong lòng hoan hỷ, dạy nghĩa như thiệt, làm cho được tỏ ngộ Phật Bồ đề, không hiềm ghét bình đẳng làm lợi ích cho tất cả. Ðây là pháp bất cộng thứ hai: chẳng do người dạy, tùy thuận đạo Tứ nhiếp pháp siêng nhiếp thọ tất cả chúng sinh.

Ðại Bồ Tát thiện xảo hồi hướng: Chẳng cầu quả báo mà hồi hướng, cầu Phật Bồ đề mà hồi hướng, chẳng tham chấp tất cả thiền định tam muội thế gian mà hồi hướng, vì lợi ích tất cả chúng sinh mà hồi hướng, vì chẳng dứt trí huệ của Như Lai mà hồi hướng. Ðây là pháp bất cộng thứ ba: chẳng do người dạy, vì các chúng sinh phát khởi thiện căn cầu Phật trí huệ.

Ðại Bồ Tát đến bỉ ngạn rốt ráo thiện xảo phương tiện, lòng thường ngó lại tất cả chúng sinh, chẳng nhàm cảnh giới thế tục phàm ngu, chẳng thích đạo xuất ly của Nhị thừa, chẳng ham sự an lạc của mình, chỉ siêng hóa độ khéo có thể nhập xuất thiền định giải thoát, nơi các tam muội đều được tự tại, qua lại chốn sinh tử như dạo trong vườn chưa từng tạm sinh lòng mỏi nhàm. Hoặc ở ma cung, hoặc làm Thiên Ðế, Phạm Vương, Thế Chủ. Tất cả chỗ có chúng sinh, không nơi nào chẳng hiện thân trong đó. Hoặc xuất gia trong chúng ngoại đạo mà luôn xa lìa tất cả tà kiến. Tất cả văn từ chú thuật tự ấn toán số nhẫn đến ca vũ du hí của thế gian thảy đều thị hiện không một môn nào chẳng tinh xảo. Hoặc có lúc thị hiện làm phụ nữ xinh đẹp, trí huệ tài năng đệ nhất trong đời. Nơi pháp thế gian và xuất thế đều hay hỏi hay thuyết, vấn đáp quyết nghi đều rốt ráo cả. Tất cả sự thế gian và xuất thế cũng đều thông đạt đến bỉ ngạn. Tất cả chúng sinh thường đến chiêm ngưỡng. Dầu hiện oai nghi Thanh Văn, Bích Chi Phật mà chẳng mất tâm Ðại thừa. Dầu trong mỗi niệm thị hiện thành Chánh giác mà chẳng dứt Bồ Tát hạnh. Ðây là pháp bất cộng thứ tư: chẳng do người dạy, được phương tiện thiện xảo rốt ráo bỉ ngạn.

Ðại Bồ Tát khéo biết đạo quyền thiệt song hành, trí huệ tự tại đến rốt ráo. Những là an trụ nơi Niết Bàn mà thị hiện sinh tử. Biết không chúng sinh mà siêng thực hành công hạnh giáo hóa. Rốt ráo tịch diệt mà thị hiện khỏi phiền não. An trụ một pháp thân trí huệ kiên mật, mà hiện khắp vô lượng thân chúng sinh. Thường nhập thâm thiền định mà thị hiện thọ dục lạc. Thường xa rời tam giới mà chẳng bỏ chúng sinh. Thường thích pháp lạc mà hiện có thể nữ ca ngâm hát múa. Dầu dùng những tướng hảo trang nghiêm thân mình mà thị hiện thọ thân bần tiện xấu xí. Thường chứa nhóm những điều lành không có lỗi ác mà thị hiện sinh địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ. Dầu đã đến nơi Phật trí bỉ ngạn mà cũng chẳng bỏ trí thân Bồ Tát. Ðại Bồ Tát thành tựu vô lượng trí huệ như vậy. Thanh Văn Bích Chi Phật còn chẳng biết được, huống là tất cả hàng đồng môn chúng sinh. Ðây là pháp bất cộng thứ năm: chẳng do người dạy, quyền thiệt song hành.

Ðại Bồ Tát thân khẩu ý ba nghiệp tùy trí huệ hành thảy đều thanh tịnh. Những là đầy đủ đại từ lìa hẳn tâm sát sinh, nhẫn đến đầy đủ chính giải không có tà kiến. Ðây là pháp bất cộng thứ sáu: chẳng do người dạy, thân khẩu ý ba nghiệp tùy trí huệ hành.

Ðại Bồ Tát đầy đủ đại bi chẳng bỏ chúng sinh, thay tất cả chúng sinh mà chịu khổ. Những là chịu khổ địa ngục, khổ súc sinh, khổ ngạ quỷ. Vì lợi ích cho chúng sinh nên chẳng sinh mỏi nhọc, chỉ chuyên độ thoát tất cả chúng sinh, chưa từng nhiễm say cảnh giới ngũ dục. Thường vì chúng sinh mà chuyên cần diệt trừ mọi sự khổ. Ðây là pháp bất cộng thứ bảy: chẳng do người dạy, thường có lòng đại bi.

Ðại Bồ Tát thường được chúng sinh thích thấy: Phạm Vương, Ðế Thích, Tứ Thiên Vương nhẫn đến tất cả chúng sinh thấy không biết chán. Tại sao vậy? Vì đại Bồ Tát từ đời lâu xa đến nay, hành nghiệp thanh tịnh không có lỗi lầm, vì thế nên chúng sinh thích thấy không nhàm. Ðây là pháp bất cộng thứ tám: không do người dạy, tất cả chúng sinh thảy đều thích thấy.

Ðại Bồ Tát nơi nhất thiết trí đại thệ trang nghiêm chí nguyện kiên cố. Dầu ở chỗ phàm phu, Thanh Văn, Ðộc Giác, hiểm nạn, trọn không thối thất tâm nhất thiết trí diệu bửu sáng sạch. Như có bửu châu tên là Tịnh trang nghiêm để trong bùn lầy vẫn không thay đổi màu sáng, có thể làm cho nước đục thảy đều đứng sạch. Cũng vậy đại Bồ Tát dầu ở chỗ phàm ngu tạp trược, trọn chẳng hư mất bửu tâm thanh tịnh cầu nhất thiết trí, mà có thể làm cho những chúng sinh ác kia xa rời uế trược phiền não vọng kiến để được tâm bửu cầu nhất thiết trí. Ðây là pháp bất cộng thứ chín: chẳng do người dạy: tại những chỗ hiểm nạn chẳng mất trân bửu Nhất thiết trí.

Ðại Bồ Tát thành tựu trí tự giác cảnh giới. Không thầy tự ngộ rốt ráo tự tại đến bỉ ngạn. Dùng lụa pháp ly cấu để đội trên đầu, mà chẳng bỏ sự thân cận thiện hữu, thường thích tôn trọng chư Như Lai. Ðây là pháp bất cộng thứ mười: chẳng do người dạy, được pháp tối thượng chẳng rời thiện tri thức, chẳng bỏ tôn trọng Phật.

Trên đây là mười pháp bất cộng của Bồ Tát. Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp này thời được pháp bất cộng quảng đại vô thượng của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười nghiệp:

Tất cả thế giới nghiệp, vì đều có thể trang nghiêm thanh tịnh. Tất cả chư Phật nghiệp, vì đều có thể cúng dường.

Tất cả Bồ Tát nghiệp, vì đồng gieo thiện căn.

Tất cả chúng sinh nghiệp, vì đều có thể giáo hóa. Tất cả vị lai nghiệp, vì nhiếp thủ tột thuở vị lai.

Tất cả thần lực nghiệp, vì chẳng rời một thế giới đến khắp tất cả thế giới.

Tất cả quang minh nghiệp, vì phóng quang minh vô biên màu, trong mỗi quang minh có tòa liên hoa đều có Bồ Tát ngồi kiết già trên đó. Dùng đây để hiển hiện.

Tất cả giống Tam Bửu chẳng đoạn nghiệp, vì sau khi Ðức Phật diệt độ thời thủ hộ trụ trì những Phật pháp.

Tất cả biến hóa nghiệp, vì ở tất cả thế giới thuyết pháp giáo hóa các chúng sinh.

Tất cả gia trì nghiệp, ở trong một niệm tùy tâm sở thích của các chúng sinh đều vì họ mà thị hiện làm cho tất cả nguyện vọng đều thành mãn.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được nghiệp quảng đại vô thượng của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thân:

Bất lai thân, vì chẳng thọ sinh ở tất cả thế gian.  Bất khứ thân, vì nơi tất cả thế gian cầu chẳng được. Bất thiệt thân, vì tất cả thế gian được như thiệt.

Bất hư thân, vì dùng lý như thiệt thị hiện thế gian. Bất tận thân, vì tột thuở vị lai không đoạn tuyệt.

Kiên cố thân, vì tất cả chúng sinh ma chẳng phá hoại được. Bất động thân, vì chúng ma ngoại đạo chẳng động được. Cụ tướng thân, vì thị hiện tướng trăm phước thanh tịnh.

Vô tướng thân, vì pháp tướng rốt ráo đều vô tướng. Phổ chí thân, vì đồng một thân với tam thế Phật.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thân vô thượng vô tận của Như Lai. Ðại Bồ Tát có mười thân nghiệp:

Thân nghiệp nơi một thân tràn đầy tất cả thế giới.

Thân nghiệp ở trước tất cả chúng sinh đều có thể thị hiện. Thân nghiệp nơi tất cả loài đều có thể thọ sinh.

Thân nghiệp du hành tất cả thế giới.

Thân nghiệp qua đến tất cả chúng hội của chư Phật.

Thân nghiệp dùng một tay có thể che khắp tất cả thế giới.

Thân nghiệp có thể dùng một tay chà tất cả thế giới Kim Cương vi sơn nát như vi trần. Thân nghiệp ở trong tự thân hiện tất cả cõi Phật thành hoại chỉ bày cho chúng sinh. Thân nghiệp dùng một thân dung thọ tất cả chúng sinh giới.

Thân nghiệp ở trong thân hiện khắp tất cả cõi Phật thanh tịnh tất cả chúng sinh, rồi ở trong đó hiện thành đạo.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được Phật nghiệp vô thượng của Như Lai. Ðều có thể giác ngộ tất cả chúng sinh.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát lại có mười thân: Ba la mật thân, vì đều chính tu hành.

Tứ nhiếp thân, vì chẳng bỏ tất cả chúng sinh.

Ðại bi thân, vì thay tất cả chúng sinh chịu vô lượng khổ không mỏi nhàm. Ðại từ thân, vì cứu hộ tất cả chúng sinh.

Phước đức thân, vì lợi ích tất cả chúng sinh.

Trí huệ thân, vì đồng một tính với tất cả Phật thân. Pháp thân, vì lìa hẳn thọ sinh các loài.

Phương tiện thân, vì tất cả xứ hiện tiền. Thần lực thân, vì thị hiện tất cả thần biến.

Bồ đề thân, vì tùy thích tùy thời thành Chính giác.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thân đại trí huệ vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười ngữ:

Nhu nhuyến ngữ, vì làm cho tất cả chúng sinh đều an ổn. Cam lồ ngữ, vì làm cho tất cả chúng sinh đều thanh lương. Bất cuống ngữ, vì bao nhiêu lời nói đều chân thiệt.

Chân thiệt ngữ, vì nhẫn đến trong chiêm bao cũng không vọng ngữ.

Quảng đại ngữ, vì tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương v.v... đều tôn kính. Thậm thâm ngữ, vì hiển thị pháp tính.

Kiên cố ngữ, vì thuyết pháp vô tận. Chính trực ngữ, vì phát ngôn dễ hiểu. Chủng chủng ngữ, vì tùy thời thị hiện.

Khai ngộ tất cả chúng sinh ngữ, vì tùy theo chỗ dục lạc của họ mà làm cho họ được hiểu rõ. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được vi diệu ngữ vô thượng của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều tịnh tu ngữ nghiệp:

Tịnh tu ngữ nghiệp, thích lắng nghe âm thanh của Ðức Như Lai. Tịnh tu ngữ nghiệp, thích nghe nói công đức của Bồ Tát.

Tịnh tu ngữ nghiệp, chẳng nói những lời mà tất cả chúng sinh chẳng thích nghe. Tịnh tu ngữ nghiệp, chân thiệt xa lìa bốn lỗi lầm của lời nói.

Tịnh tu ngữ nghiệp, hoan hỷ hớn hở tán thán Như Lai.

Tịnh tu ngữ nghiệp, ở chỗ tháp Như Lai to tiếng khen ngợi công đức như thiệt của chư Phật. Tịnh tu ngữ nghiệp, dùng tâm thâm tịnh ban bố chính pháp cho chúng sinh.

Tịnh tu ngữ nghiệp, âm nhạc ca tụng tán thán Ðức Như Lai.

Tịnh tu ngữ nghiệp, ở chỗ chư Phật lắng nghe chính pháp chẳng tiếc thân mạng.

Tịnh tu ngữ nghiệp, xả thân thừa sự tất cả Bồ Tát và các Pháp Sư để lãnh thọ diệu pháp. Nếu đại Bồ Tát đem mười việc này để tịnh tu ngữ nghiệp thời được mười điều thủ hộ: Ðược Thiên Vương cầm đầu cùng tất cả Thiên chúng thủ hộ.

Ðược Thiên Vương cầm đầu cùng tất cả Long chúng thủ hộ. Ðược Dạ Xoa Vương cầm đầu cùng tất cả chúng Dạ Xoa thủ hộ.

Ðược Càn Thát Bà Vương cầm đầu cùng tất cả chúng Càn Thát Bà thủ hộ.

Ðược A Tu La Vương cầm đầu, Ca Lâu La Vương cầm đầu, Khẩn Na La Vương cầm đầu, Ma Hầu La Già Vương cầm đầu, Phạm Vương cầm đầu. Mỗi Vương đều cùng chúng của mình để thủ hộ Bồ Tát này.

Ðược Như Lai Pháp Vương cầm đầu, tất cả Pháp Sư thảy đều thủ hộ.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát được sự thủ hộ này rồi thời có thể thành tựu mười đại sự: Tất cả chúng sinh đều làm cho hoan hỷ.

Tất cả thế giới đều có thể qua đến. Tất cả căn tính đều có thể rõ biết.

Tất cả thắng giải đều làm cho thanh tịnh. Tất cả phiền não đều làm cho đoạn trừ. Tất cả tập khí đều làm cho xả ly.

Tất cả dục lạc đều làm cho sáng sạch.

Tất cả thâm tâm đều làm cho tăng trưởng. Tất cả pháp giới đều làm cho cùng khắp. Tất cả Niết Bàn khắp làm cho thấy rõ. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tâm:

Tâm như đại địa, vì có thể gìn có thể lớn những thiện căn của tất cả chúng sinh. Tâm như đại hải, vì tất cả chư Phật vô lượng vô biên đại trí pháp thủy đều chảy vào.

Tâm như Tu Di Sơn Vương, vì đặt tất cả chúng sinh nơi chỗ thiện căn xuất thế gian vô lượng. Tâm như Ma ni bửu vương, vì lạc dục thanh tịnh không tạp nhiễm.

Tâm như Kim Cương, vì quyết định thâm nhập tất cả pháp.

Tâm như Kim Cương vi sơn, vì chư ma ngoại đạo chẳng có thể động. Tâm như liên hoa, vì tất cả thế pháp chẳng nhiễm được.

Tâm như hoa ưu đàm bát, vì trong tất cả kiếp khó gặp gỡ. Tâm như tịnh nhật, vì có thể phá trừ chướng tối tăm.  Tâm như hư không, vì chẳng lường được.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tâm đại thanh tịnh vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ phát tâm:

Phát tâm: Tôi sẽ độ thoát tất cả chúng sinh.

Phát tâm: Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sinh dứt trừ phiền não. Phát tâm: Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sinh tiêu diệt tập khí. Phát tâm: Tôi sẽ dứt trừ tất cả tâm nghi hoặc.

Phát tâm: Tôi sẽ diệt trừ khổ não cho tất cả chúng sinh. Phát tâm: Tôi sẽ trừ diệt tất cả ác đạo chư nạn.

Phát tâm: Tôi sẽ kính thuận tất cả Như Lai.

Phát tâm: Tôi sẽ khéo học tất cả sở học của Bồ Tát.

 Phát tâm: Tôi sẽ ở chỗ mỗi đầu lông trong tất cả thế gian thị hiện tất cả Phật thành Chính giác.

Phát tâm: Tôi sẽ ở nơi tất cả thế giới đánh đại pháp cổ làm cho các chúng sinh tùy theo căn dục của họ đều được ngộ hiểu.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tâm đại phát khởi năng sự vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tâm cùng khắp:

Tâm cùng khắp tất cả hư không, vì phát ý rộng lớn. Tâm cùng khắp tất cả pháp giới, vì thâm nhập vô biên. Tâm cùng khắp tất cả tam thế, vì một niệm đều biết rõ.

Tâm cùng khắp tất cả Phật xuất hiện, vì đều biết rõ nơi nhập thai, giáng sinh, xuất gia, thành đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết Bàn.

Tâm cùng khắp tất cả chúng sinh, vì biết rõ căn dục tập khí. Tâm cùng khắp tất cả trí huệ, vì tùy thuận biết rõ pháp giới.

Tâm cùng khắp tất cả vô biên, vì biết những huyễn vọng sai biệt. Tâm cùng khắp tất cả vô sinh, vì các pháp tự tính bất khả đắc. Tâm cùng khắp tất cả vô ngại, vì chẳng trụ tự tâm tha tâm.

Tâm cùng khắp tất cả tự tại, vì một niệm khắp hiện thành Phật.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được vô lượng Phật pháp vô thượng cùng khắp trang nghiêm. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười căn:

Hoan hỷ căn, vì thấy tất cả Phật lòng tin chẳng hư hoại.

Hy vọng căn, vì những Phật pháp đã nghe đều tỏ ngộ tất cả. Bất thối căn, vì tất cả tác sự đều rốt ráo.

An trụ căn, vì chẳng dứt tất cả Bồ Tát hạnh.  Vi tế căn, vì nhập lý vi diệu Bát nhã Ba la mật.

Bất hưu tức căn, vì rốt ráo sự việc tất cả chúng sinh. Như Kim Cương căn, vì chứng biết tất cả những pháp tính.

Kim Cương quang diệm căn, vì chiếu khắp tất cả Phật cảnh giới.

Vô sai biệt căn, vì tất cả Như Lai đồng một thân.

Vô ngại tế căn, vì thâm nhập mười trí lực của Như Lai.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được căn đại trí viên mãn vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thâm tâm:

Thâm tâm chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian. Thâm tâm chẳng tạp tất cả đạo Nhị thừa. Thâm tâm thấu rõ tất cả Phật Bồ đề.

Thâm tâm tùy thuận đạo Nhất thiết chủng trí.

Thâm tâm chẳng bị tất cả chúng ma ngoại đạo làm động. Thâm tâm tịnh tu trí viên mãn của tất cả Như Lai.

Thâm tâm thọ trì tất cả pháp đã được nghe.  Thâm tâm chẳng nhiễm trước tất cả chỗ thọ sinh. Thâm tâm đầy đủ tất cả trí vi tế.

Thâm tâm tu tất cả Phật pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được thâm tâm thanh tịnh nhất thiết trí vô thượng. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thâm tâm tăng thượng:

Thâm tâm tăng thượng bất thối chuyển, vì chứa nhóm tất cả thiện căn. Thâm tâm tăng thượng rời nghi hoặc, vì hiểu mật ngữ của tất cả Như Lai. Thâm tâm tăng thượng chính trì, vì đại nguyện đại hạnh lưu xuất.

Thâm tâm tăng thượng tối thắng, vì thâm nhập tất cả Phật pháp. Thâm tâm tăng thượng làm chủ, vì tất cả Phật pháp đều tự tại.  Thâm tâm tăng thượng quảng đại, vì vào khắp tất cả pháp môn. Thâm tâm tăng thượng thượng thủ, vì tất cả việc làm đều thành tựu.

Thâm tâm tăng thượng tự tại, vì tất cả tam muội thần thông biến hóa trang nghiêm. Thâm tâm tăng thượng an trụ, vì nhiếp thọ bản nguyện.

Thâm tâm tăng thượng không thôi nghỉ, vì thành thục tất cả chúng sinh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thâm tâm tăng thượng thanh tịnh vô thượng của tất cả chư Phật.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều siêng tu:

Siêng tu bố thí, vì đều xả thí tất cả mà không cầu báo đáp.

Siêng tu trì giới, vì đầu đà khổ hạnh thiểu dục tri túc không khi dối.

Siêng tu nhẫn nhục, vì rời quan niệm tự tha, nhẫn chịu tất cả điều khổ não trọn không sinh lòng sân hại. Siêng tu tinh tất, vì thân ngữ ý ba nghiệp chưa từng tán loạn, tất cả việc làm đều chẳng thối chuyển mãi đến rốt ráo.

Siêng tu thiền định, vì giải thoát tam muội xuất hiện thần thông, rời lìa tất cả quyến thuộc dục lạc phiền não đấu tranh.

Siêng tu trí huệ, vì tu tập chứa nhóm tất cả công đức không mỏi nhàm. Siêng tu đại từ, vì biết các chúng sinh không tự tính.

Siêng tu đại bi, vì biết các pháp không, thay thế khắp tất cả chúng sinh thọ khổ không mỏi nhàm. Siêng tu giác ngộ Thập lực của Như Lai, vì rõ thấu vô ngại chỉ bày cho chúng sinh.

Siêng tu pháp luân bất thối, vì chuyển đến tâm của tất cả chúng sinh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được siêng tu đại trí huệ vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ quyết định giải:

Quyết định giải tối thượng, vì gieo trồng tôn trọng thiện căn.

Quyết định giải trang nghiêm, vì xuất sinh những thứ trang nghiêm. Quyết định giải quảng đại, vì tâm chưa từng hèn kém.

Quyết định giải tịch diệt, vì hay nhập pháp tính thậm thâm. Quyết định giải phổ biến, vì phát tâm không chỗ nào chẳng đến. Quyết định giải kham nhiệm, vì hay thọ Phật lực gia trì.

Quyết định giải kiên cố, vì dẹp phá tất cả nghiệp ma. Quyết định giải minh đoán, vì biết rõ tất cả nghiệp báo.

Quyết định giải hiện tiền, vì tùy ý hay hiện thần thông. Quyết định giải thiệu long, vì ở chỗ tất cả Phật được thọ ký. Quyết định giải tự tại, vì tùy ý tùy thời thành Phật.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được quyết định giải vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười quyết định giải biết tất cả thế giới:

Biết tất cả thế giới vào một thế giới. Biết một thế giới vào tất cả thế giới.

Biết tất cả thế giới, một thân Như Lai, một tòa liên hoa thảy đều cùng khắp. Biết tất cả thế giới đều như hư không.

Biết tất cả thế giới đủ Phật trang nghiêm. Biết tất cả thế giới Bồ Tát đầy khắp.

Biết tất cả thế giới vào một lỗ lông.

Biết tất cả thế giới vào một thân chúng sinh.

Biết tất cả thế giới, một cây Phật Bồ đề, một Phật đạo tràng thảy đều cùng khắp.

Biết tất cả thế giới, một âm thanh cùng khắp làm cho các chúng sinh đều riêng hiểu biết lòng sinh hoan hỷ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được quyết định giải Phật độ quảng đại vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười quyết định giải biết chúng sinh giới:

Biết tất cả chúng sinh giới bản tính không thiệt.

Biết tất cả chúng sinh giới đều vào thân một chúng sinh. Biết tất cả chúng sinh giới đều vào thân Bồ Tát.

Biết tất cả chúng sinh giới đều vào Như Lai tạng.

Biết một thân chúng sinh vào khắp tất cả chúng sinh giới.

Biết tất cả chúng sinh giới đều kham làm pháp khí của chư Phật.

Biết tất cả chúng sinh giới tùy theo sở thích của họ mà vì họ hiện thân Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương.

Biết tất cả chúng sinh giới tùy theo sở thích của họ mà hiện oai nghi tịch tịnh của Thanh Văn, Bích Chi Phật.

Biết tất cả chúng sinh giới vì họ mà hiện thân công đức trang nghiêm của Bồ Tát.

Biết tất cả chúng sinh giới vì họ mà hiện thân tướng hảo oai nghi tịch tịnh của Như Lai để khai ngộ họ. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được quyết định giải đại oai lực vô thượng của Như Lai.

(1) Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ tập khí: Tập khí của Bồ đề tâm.

Tập khí của thiện căn.

Tập khí giáo hóa chúng sinh. Tập khí thấy Phật.

Tập khí thọ sinh nơi thế giới thanh tịnh. Tập khí của công hạnh.

Tập khí của thệ nguyện. Tập khí của Ba la mật.

Tập khí tư duy pháp bình đẳng.

Tập khí của những cảnh giới sai biệt.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời lìa hẳn tất cả tập khí phiền não, được trí đại trí tập khí phi tập khí của Như Lai.

Chư Phật tử! Đại Bồ Tát có mười điều thủ lấy, do đây nên không dứt hạnh Bồ Tát: Thủ tất cả chúng sinh giới, vì rốt ráo giáo hoá.

Thủ tất cả thế giới, vì rốt ráo nghiêm tịnh.

Thủ Như Lai, vì tu hạnh Bồ Tát để cúng dường.

Thủ thiện căn, vì chứa nhóm tướng hảo công đức của chư Phật. Thủ đại bi, vì diệt khổ cho tất cả chúng sinh.

Thủ đại từ, vì cho tất cả chúng sinh những trí lạc.

Thủ Ba la mật, vì tích tập những trang nghiêm của Bồ Tát.

Thủ thiện xảo phương tiện, vì đều thị hiện ở tất cả chỗ. Thủ Bồ đề, vì được trí vô ngại.

Thủ tất cả pháp, vì ở tất cả chỗ đều dùng minh trí để hiện rõ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi mười điều thủ lấy này thời có thể chẳng dứt Bồ Tát hạnh, được pháp vô sở thủ vô thượng của tất cả Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều tu:

Tu các môn Ba la mật. Tu học. Tu huệ. Tu nghĩa. Tu pháp. Tu xuất ly. Tu thị hiện. Tu siêng thực hành chẳng lười. Tu thành Ðẳng Chính giác. Tu chuyển Chính Pháp Luân.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được tu vô thượng tu tất cả pháp. Ðại Bồ Tát có mười điều thành tựu Phật pháp:

Chẳng rời thiện tri thức, thành tựu Phật pháp. Thâm tín Phật ngữ thành tựu Phật pháp.

Chẳng hủy báng chính pháp, thành tựu Phật pháp.

Dùng vô lượng vô tận thiện căn hồi hướng, thành tựu Phật pháp.

Tin hiểu cảnh giới của Ðức Như Lai vô biên tế, thành tựu Phật pháp. Biết cảnh giới của tất cả thế giới, thành tựu Phật pháp.

Chẳng bỏ cảnh giới pháp giới, thành tựu Phật pháp. Xa rời những cảnh giới ma, thành tựu Phật pháp.

Chính niệm cảnh giới của tất cả Phật, thành tựu Phật pháp. Thích cầu cảnh giới Thập lực của Như Lai, thành tựu Phật pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thành tựu đại trí huệ vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều thối thất Phật pháp cần phải xa kìa:

Khinh mạn thiện tri thức, thối thất Phật pháp. Sợ khổ sinh tử, thối thất Phật pháp.

Nhàm tu hạnh Bồ Tát, thối thất Phật pháp. Chẳng thích trụ thế gian, thối thất Phật pháp.

Say đắm tam muội, thối thất Phật pháp. Chấp lấy thiện căn, thối thất Phật pháp. Hủy báng chính pháp, thối thất Phật pháp. Ðoạn Bồ Tát hạnh, thối thất Phật pháp. Thích đạo Nhị thừa, thối thất Phật pháp. Hiềm hận chư Bồ Tát, thối thất Phật pháp.

Nếu chư Bồ Tát xa lìa pháp này, thời nhập đạo ly sinh của Bồ Tát. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo ly sinh:

Xuất sinh Bát nhã Ba la mật mà luôn quán sát tất cả chúng sinh. Ðây là đạo ly sinh thứ nhất.

Xa rời những kiến chấp mà độ thoát tất cả chúng sinh bị kiến chấp ràng buộc. Ðây là đạo ly sinh thứ hai.

Chẳng tưởng niệm tất cả tướng mà chẳng bỏ tất cả chúng sinh chấp tướng. Ðây là đạo ly sinh thứ ba. Siêu quá tam giới mà thường ở tại tất cả thế giới. Ðây là đạo ly sinh thứ tư.

Rời hẳn phiền não mà ở chung với tất cả chúng sinh. Ðây là đạo ly sinh thứ năm.

Ðắc pháp ly dục mà thường dùng đại bi thương xót tất cả chúng sinh nhiễm trước dục lạc. Ðây là đạo ly sinh thứ sáu.

Thường thích tịch tịnh mà luôn thị hiện tất cả quyến thuộc. Ðây là đạo ly sinh thứ bảy. Rời sinh thế gian mà chết đây sinh kia khởi hạnh Bồ Tát. Ðây là đạo ly sinh thứ tám.

Chẳng nhiễm tất cả pháp thế gian mà chẳng dứt tất cả việc làm thế gian. Ðây là đạo ly sinh thứ chín.

Chư Phật Bồ đề đã hiện ra trước mà chẳng bỏ tất cả hạnh nguyện của Bồ Tát. Ðây là đạo ly sinh thứ mười.

Ðây là mười đạo ly sinh của Bồ Tát, xuất ly thế gian chẳng cùng chung với thế gian mà cũng chẳng tạp hạnh Nhị thừa. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quyết định của Bồ Tát.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp quyết định: Quyết định sinh trong chủng tộc của Ðức Như Lai. Quyết định an trụ trong cảnh giới của chư Phật. Quyết định biết rõ việc làm của chư Bồ Tát.

 Quyết định an trụ trong các môn Ba la mật.

Quyết định được dự trong chúng hội của Như Lai. Quyết định có thể hiển bày chủng tính của Như Lai. Quyết định an trụ trong trí lực của Như Lai.

Quyết định thâm nhập Bồ đề của chư Phật. Quyết định đồng một thân với tất cả chư Phật. Quyết định đồng một chỗ ở với tất cả chư Phật.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo xuất sinh Phật pháp:

Tùy thuận thiện hữu là đạo xuất sinh Phật pháp, vì đồng gieo căn lành. Thâm tâm tin hiểu là đạo xuất sinh Phật pháp, vì biết Phật tự tại.

Phát thệ nguyện lớn là đạo xuất sinh Phật pháp, vì tâm rộng rãi.

Nhẫn thọ thiện căn của mình là đạo xuất sinh Phật pháp, vì biết nghiệp chẳng mất. Tất cả kiếp tu hành không nhàm đủ là đạo xuất sinh Phật pháp, vì tột thưở vị lai. Vô số thế giới đều thị hiện là đạo xuất sinh Phật pháp, vì thành thục chúng sinh. Chẳng dứt Bồ Tát hạnh là đạo xuất sinh Phật pháp, vì tăng trưởng đại bi.

Vô lượng tâm là đạo xuất sinh Phật pháp, vì một niệm khắp tất cả hư không giới. Hạnh thù thắng là đạo xuất sinh Phật pháp, vì công hạnh đã tu không hư mất.

Như Lai chủng là đạo xuất sinh Phật pháp, vì làm cho tất cả chúng sinh thích phát tâm Bồ đề dùng tất cả pháp lành giúp đỡ giữ gìn.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được danh hiệu đại trượng phu: Hiệu là Bồ đề Tát Ðỏa, vì Bồ đề trí sinh ra.

Hiệu là Ma Ha Tát Ðoả, vì an trụ nơi Ðại thừa. Hiệu là Ðệ nhất Tát Ðoả, vì chứng pháp đệ nhất. Hiệu là Thắng Tát Ðoả, vì giác ngộ pháp thù thắng. Hiệu là Tối Thắng Tát Ðỏa, vì trí huệ tối thắng.

Hiệu là Thượng Tát Ðỏa, vì phát khởi thượng tinh tấn. Hiệu là Vô Thượng Tát Ðỏa, vì khai thị pháp vô thượng. Hiệu là Lực Tát Ðỏa, vì biết rộng Thập lực.

Hiệu là Vô Ðẳng Tát Ðỏa, vì thế gian không sánh được. Hiệu là Bất Tư Nghì Tát Ðỏa, vì một niệm thành Phật.

Nếu chư Bồ Tát được danh hiệu này thời thành tựu Bồ Tát đạo. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đạo:

Nhất đạo là Bồ Tát đạo, vì chẳng bỏ Bồ đề tâm độc nhất. Nhị đạo là Bồ Tát đạo, vì xuất sinh trí huệ và phương tiện.

Tam đạo là Bồ Tát đạo, vì thực hành không, vô tướng, vô nguyện, chẳng nhiễm trước tam giới.

Tứ hạnh là Bồ Tát đạo, vì sám trừ tội chướng, tùy hỉ phước đức, cung kính tôn trọng khuyến thỉnh Như Lai, thiện xảo hồi hướng không thôi nghỉ.

Ngũ căn là Bồ Tát đạo, vì an trụ tịnh tín kiên cố bất động, khởi đại tinh tấn việc làm rốt ráo, một bề chính niệm không phan duyên khác lạ, khéo biết tam muội nhập xuất phương tiện hay khéo phân biệt cảnh giới trí huệ.

Lục thông là Bồ Tát đạo, vì thiên nhãn thấy rõ những hình sắc của tất cả thế giới, biết các chúng sinh chết đây sinh kia. Thiên nhĩ nghe rõ chư Phật thuyết pháp thọ trì ghi nhớ, rộng vì chúng sinh tùy căn cơ để khai diễn. Tha tâm trí hay biết tâm người tự tại vô ngại. Túc mạng thông nhớ biết rõ tất cả kiếp số quá khứ thêm lớn căn lành. Thần túc thông tùy theo những chúng sinh đáng được quá độ, vì họ mà biến hiện nhiều thứ cho họ thích mến chính pháp. Lậu tận trí hiện chứng thiệt tế khởi Bồ Tát hạnh chẳng đoạn tuyệt.

Thất niệm là Bồ Tát đạo. Vì niệm Phật, ở, một lỗ lông thấy vô lượng Phật khai ngộ tất cả tâm chúng sinh. Niệm Pháp, chẳng rời chúng hội của một Ðức Như Lai, ở trong chúng hội của tất cả Như Lai thân thừa diệu pháp, tùy căn tính dục lạc của các chúng sinh mà vì họ diễn thuyết cho họ được ngộ nhập. Niệm Tăng luôn nối tiếp thấy không thôi dứt, nơi tất cả thế gian thấy Bồ Tát. Niệm xả, biết rõ tất cả Bồ Tát hạnh xả tăng trưởng, tâm bố thí rộng lớn. Niệm giới chẳng bỏ tâm Bồ đề, đem tất cả thiện căn hồi hướng chúng sinh. Niệm Thiên thường ghi nhớ Bồ Tát nhất sinh bổ xứ tại Ðâu Suất Thiên cung. Niệm chúng sinh, trí huệ phương tiện giáo hóa điều phục đến khắp tất cả không gián đoạn.

Tùy thuận Bồ đề Bát thánh đạo là Bồ Tát đạo. Thực hành đạo chính kiến xa lìa tất cả tà kiến. Khởi chính tư duy bỏ vọng phân biệt tâm thường tùy thuận nhất thiết trí. Thường thực hành chính ngữ rời bốn lỗi của ngữ nghiệp tùy thuận thánh ngôn. Hằng tu chính nghiệp giáo hóa chúng sinh cho họ được điều phục. An trụ chính mạng, đầu đà tri túc oai nghi thẩm chính, tùy thuận Bồ đề thực hành tứ thánh chủng, tất cả lỗi lầm đều rời hẳn. Khởi chính tinh tấn siêng tu tất cả khổ hạnh của Bồ Tát nhập Thập lực của Phật không chướng ngại. Tâm thường chính niệm đều có thể ghi nhớ tất cả ngôn âm, trừ diệt tâm tán động của thế gian. Tâm thường chính định, khéo nhập môn Bồ Tát bất tư nghì giải thoát, ở trong một tam muội xuất sinh tất cả môn tam muội. Nhập cửu thứ đệ định là Bồ Tát đạo. Rời dục nhiễm sân hại mà dùng tất cả ngữ nghiệp thuyết pháp vô ngại. Diệt trừ giác quán mà dùng tất cả trí giác quán giáo hóa chúng sinh. Xả ly hỷ ái mà thấy tất cả chư Phật lòng rất hoan hỷ. Rời thế gian lạc mà tùy thuận Bồ Tát đạo xuất thế lạc từ đây bất động. Nhập vô sắc định mà cũng chẳng bỏ thọ sinh nơi Dục giới và Sắc giới. Dầu trụ trong diệt thọ tưởng định mà cũng chẳng dứt Bồ Tát hạnh.

Học Phật Thập lực là Bồ Tát đạo: Trí khéo biết thị xứ phi xứ. Trí khéo biết nghiệp báo nhân quả quá khứ vị lai hiện tại của tất cả chúng sinh. Trí khéo biết tất cả chúng sinh căn thượng trung hạ chẳng đồng mà tùy cơ nghi thuyết pháp. Trí khéo biết tất cả chúng sinh có vô lượng tính. Trí khéo biết tất cả chúng sinh kiến giải hạ trung thượng sai biệt làm cho họ nhập vào pháp phương tiện. Trí biết khắp tất cả thế gian, tất cả cõi, tất cả tam thế, tất cả kiếp, hiện khắp hình tướng oai nghi của Như Lai, mà cũng chẳng bỏ việc làm của Bồ Tát. Trí khéo biết tất cả các thiền giải thoát và các tam muội, hoặc cấu, hoặc tịnh, thời cùng phi thời, phương tiện xuất sinh những Bồ Tát giải thoát môn. Trí biết tất cả chúng sinh ở trong các loài chết đây sinh kia sai khác nhau. Trí ở trong một niệm đều biết tam thế tất cả kiếp số. Trí khéo biết tất cả chúng sinh lạc dục, phiền não hoặc tập đều diệt hết, mà chẳng bỏ rời hạnh Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi đây thời được đạo phương tiện thiện xảo vô thượng của tất cả Như Lai.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có vô lượng đạo, vô lượng trợ đạo, vô lượng tu đạo, vô lượng trang nghiêm đạo.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng đạo:

Vì hư không vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì pháp giới vô biên nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Vì chúng sinh giới vô tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì thế giới vô tế nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Vì kiếp số bất khả tận nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Vì pháp ngữ ngôn của tất cả chúng sinh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Vì Như Lai thân vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Vì âm thanh vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.  Vì Như Lai lực vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng.

Vì nhất thiết chủng trí vô lượng nên Bồ Tát đạo cũng vô lượng. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng trợ đạo:

Như hư không giới vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng. Như pháp giới vô biên, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô biên.

Như chúng sinh giới vô tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tận. Như thế giới vô tế, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô tế.

Như kiếp số thuyết bất khả tận, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng là tất cả thế gian thuyết bất khả tận.

Như pháp ngữ ngôn của chúng sinh vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo xuất sinh trí huệ biết pháp ngữ ngôn cũng vô lượng.

Như thân Như Lai vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo khắp tất cả chúng sinh, tất cả cõi, tất cả đời, tất cả kiếp cũng vô lượng.

Như âm thanh của Phật vô lượng, Bồ Tát phát một âm thanh cùng khắp pháp giới tất cả chúng sinh không ai chẳng nghe biết, trợ đạo đã tích tập cũng vô lượng.

Như Phật lực vô lượng, Bồ Tát thừa Như Lai lực tích tập trợ đạo cũng vô lượng. Như nhất thiết chủng trí vô lượng, Bồ Tát tích tập trợ đạo cũng vô lượng như vậy. Nếu chư Bồ Tát an trụ nơi pháp này thời được vô lượng trí huệ của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười vô lượng đạo hạnh tu tập:

Bất lai bất khứ, là hạnh tu của Bồ Tát, vì ba nghiệp thân, ngữ, ý không động tác. Bất tăng bất giảm là hạnh tu của Bồ Tát, vì như bản tính.

Phi hữu phi vô là hạnh tu của Bồ Tát, vì không tự tính.

Như huyễn như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng trong gương, như ánh nắng khi trời quá nóng, như mặt trăng trong nước, là hạnh tu của Bồ Tát, vì rời lìa tất cả các chấp trước.

Không, vô tướng, vô nguyện, vô tác là hạnh tu của Bồ Tát, vì thấy rõ ba cõi mà chứa phước đức chẳng thôi dứt.

Bất khả thuyết, ly ngôn thuyết là hạnh tu của Bồ Tát, vì xa rời pháp thi thiết an lập. Bất hoại pháp giới là hạnh tu của Bồ Tát, vì trí huệ hiện biết tất cả pháp.

Bất hoại chân như thiệt tế là hạnh tu của Bồ Tát, vì vào khắp chân như thiệt tế hư không tế. Trí huệ quảng đại là hạnh tu của Bồ Tát, vì bao nhiêu việc làm năng lực vô tận.

An trụ nơi Thập lực tứ vô ý của Như Lai, nhất thiết chủng trí bình đẳng, là hạnh tu của Bồ Tát, vì hiện thấy tất cả pháp không nghi lầm.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được hạnh tu thiện xảo vô thượng nhất thiết trí của Như Lai. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười đạo trang nghiêm:

Ðại Bồ Tát chẳng rời Dục giới mà nhập Sắc giới, Vô Sắc giới, thiền định giải thoát và các tam muội cũng chẳng nhân đây mà thọ sinh. Ðây là đạo trang nghiêm thứ nhất.

Trí huệ hiện tiền nhập Thanh Văn đạo, chẳng do đạo này mà chứng lấy quả xuất ly. Ðây là đạo trang nghiêm thứ hai.

Trí huệ hiện tiền nhập Bích Chi Phật đạo, mà phát khởi đại bi chẳng thôi dứt. Ðây là đạo trang nghiêm thứ ba.

Dầu có quyến thuộc Nhân Thiên vây quanh, trăm ngàn thể nữ ca múa hầu hạ, mà chưa từng tạm bỏ thiền định giải thoát và các tam muội. Ðây là đạo trang nghiêm thứ tư.

Cùng tất cả chúng sinh thọ những dục lạc, cùng nhau vui đùa mà vẫ chưa từng tạm trong một niệm rời bỏ Bồ Tát bình đẳng tam muội. Ðây là đạo trang nghiêm thứ năm.

Ðã đến bỉ ngạn, tất cả thế gian, nơi các thế pháp đều không chấp trước mà cũng chẳng bỏ hạnh độ chúng sinh. Ðây là đạo trang nghiêm thứ sáu.

An trụ chính đạo, chính trí, chính kiến mà hay thị hiện vào tất cả tà đạo, chẳng lấy làm thiệt, chẳng chấp làm tịnh, làm cho chúng sinh đó xa rời tà pháp. Ðây là đạo trang nghiêm thứ bảy.

Thường khéo hộ trì tịnh giới của Như Lai, ba nghiệp thân, khẩu, ý không lầm lỗi, vì muốn giáo hóa chúng sinh phạm giới nên thị hiện làm tất cả hạnh phàm ngu. Dầu đã đầy đủ phước đức thanh tịnh trụ bậc Bồ Tát, mà thị hiện sinh nơi tất cả địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ cùng những chỗ hiểm nạn bần cùng, làm cho những chúng sinh đó đều được giải thoát. Nhưng thiệt ra Bồ Tát chẳng sinh vào những loài đó. Ðây là đạo tràng trang nghiêm thứ tám.

Chẳng do người dạy mà được vô ngại biện, trí huệ quang minh có thể chiếu rõ khắp cả Phật pháp, được thần lực của tất cả Như Lai hộ trì đồng một pháp thân với tất cả chư Phật, thành tựu tất cả pháp kiên cố bí mật minh tịnh của bậc đại nhân, an trụ những thừa tất cả bình đẳng, cảnh giới chư Phật đều hiện ra trước đầy đủ tất cả thế trí quang minh, soi thấy tất cả chúng sinh giới, có thể vì chúng sinh mà làm tri pháp sư, thị hiện cầu chính pháp không thôi dứt, dầu thiệt làm Vô Thượng Sư cho chúng sinh mà thị hiện tôn kính Hòa Thượng A Xà Lê. Tạo sao vậy? Vì Ðại Bồ Tát thiện xảo phương tiện trụ Bồ Tát đạo, tùy theo sở nghi đều vì chúng sinh mà thị hiện. Ðây là đạo trang nghiêm thứ chín.

Thiện căn đầy đủ, công hạnh rốt ráo, tất cả Như Lai cùng chung quán đỉnh, đến bĩ ngạn tất cả pháp tự tại, lụa pháp vô ngại dùng đội trên đầu thân, hình đến khắp tất cả thế giới, hiện khắp thân vô ngại của Như Lai, nơi pháp tự tại rốt ráo tối thượng, chuyển pháp luân vô ngại thanh tịnh tất cả pháp tự tại của Bồ Tát đều đã thành tựu, mà vì chúng sinh nên thị hiện thọ sinh nơi tất cả quốc độ, đồng một cảnh giới với tất cả chư Phật trong ba đời. Nhưng vẫn chẳng phế hạnh Bồ Tát, chẳng bỏ pháp Bồ Tát, chẳng lười nghiệp Bồ Tát, chẳng rời đạo Bồ Tát, chẳng lơi oai nghi Bồ Tát, chẳng dứt bậc Bồ Tát, chẳng thôi phương tiện thiện xảo Bồ Tát, chẳng tuyệt việc làm của Bồ Tát, chẳng nhàm sinh thành công dụng của Bồ Tát, chẳng dừng sức trụ trì của Bồ Tát. Tại sao vậy? Vì Bồ Tát muốn mau chứng Vô thượng Bồ đề, quán môn nhất thiết trí, tu hạnh Bồ Tát không thôi nghỉ. Ðây là đạo trang nghiêm thứ mười.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đạo đại trang nghiêm Vô thượng của Như Lai, cũng chẳng bỏ Bồ Tát đạo.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chân:

Chân trì giới, vì đại nguyện thù thắng đều thành tựu viên mãn.  Chân tinh tấn, vì tích tập tất cả pháp Bồ đề phần không thối chuyển.

Chân thần thông, vì tùy theo dục lạc của chúng sinh làm cho hoan hỷ. Chân thần lực, vì chẳng rời một cõi Phật mà qua đến tất cả cõi Phật. Chân thân tâm, vì nguyện cầu tất cả pháp thù thắng.

Chân kiên thệ, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.

Chân tùy thuận, vì chẳng trái lời dạy của bậc tôn túc.

Chân lạc pháp, vì nghe và thọ trì tất cả pháp của chư Phật nói không mỏi lười. Chân pháp vũ, vì đại chúng thuyết pháp không khiếp nhược.

Chân tu hành, vì tất cả điều ác đều xa lìa.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chân vô thượng tối thắng của Ðức Như Lai. Nếu cất chân một bước đều có thể đến khắp tất cả thế giới.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tay:

Tay thâm tín, vì nơi lời nói của Phật đều tin sâu nhẫn thọ rốt ráo thọ trì. Tay bố thí, có người đến cầu, tùy chỗ họ muốn đều làm cho được đầy đủ. Tay hỏi thăm trước, vì giơ tay mặt nghinh tiếp nhau.

Tay cúng dường chư Phật, vì chứa nhóm những phước đức không mỏi nhàm. Tay đa văn thiện xảo, vì đều dứt tất cả chúng sinh nghi.

Tay khiến siêu tam giới, vì trao cho chúng sinh vớt họ ra khỏi bùn ái dục. Tay đặt nơi bĩ ngạn, vì cứu chúng sinh đắm trong bốn dòng nước cuộn. Tay chẳng tiếc chính pháp, vì có bao nhiêu diệu pháp đều đem khai thị.

Tay khéo dùng những luận nghị, vì dùng thuốc trí huệ trừ bịnh nơi thâm tâm. Tay hằng chấp trì trí bửu, vì khai pháp quang minh phá tối phiền não.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được tay vô thượng của Như Lai, che khắp tất cả thế giới mười phương.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười bụng: Bụng lìa dua vạy, vì tâm thanh tịnh. Bụng lìa huyễn ngụy, vì tính chất trực.

Bụng chẳng hư giả, vì không hiểm dối.

Bụng không khi đoạt, vì không tham đối với tất cả vật. Bụng dứt phiền não, vì đầy đủ trí huệ.

Bụng thanh tịnh tâm, vì rời các điều ác.

Bụng quán sát uống ăn, vì nhớ pháp như thiệt. Bụng quán sát vô tác, vì giác ngộ duyên khởi.

Bụng ngộ tất cả đạo xuất ly, vì khéo thành thục thâm tâm.

Bụng xa rời tất cả cấu nhơ biên kiến, vì làm cho tất cả chúng sinh nhập vào bụng Phật.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bụng rộng lớn vô thượng của Như Lai, đều có thể dung thọ tất cả chúng sinh.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười tạng:

Chẳng dứt Phật chủng là Bồ Tát tạng, vì khai thị Phật pháp vô lượng oai đức.

Tăng trưởng Pháp chủng là Bồ Tát tạng, vì xuất sinh trí huệ quang minh quảng đại. Trụ trì tăng trưởng là Bồ Tát tạng, vì làm cho họ được nhập pháp luân bất thối.

Giác ngộ chính định chúng sinh là Bồ Tát tạng, vì khéo theo thời nghi không sai một niệm.

Rốt ráo thành thục bất định chúng sinh là Bồ Tát tạng, vì làm cho nhân tương tục không gián đoạn. Vì tà định chúng sinh phát sinh lòng đại bi là Bồ Tát tạng, vì làm cho nhân vị lai đều được thành tựu.

Viên mãn nhân bất hoại nơi Phật thập lực là Bồ Tát tạng, vì đầy đủ vô đối thiện căn hàng phục ma quân. Tối thắng vô úy đại sư tử hống là Bồ Tát tạng, vì làm cho tất cả chúng sinh đều hoan hỷ.

Ðược Phật mười tám pháp bất cộng là Bồ Tát tạng, vì trí huệ vào khắp tất cả xứ.

Biết rõ khắp tất cả chúng sinh, tất cả cõi, tất cả Pháp, tất cả Phật là Bồ Tát tạng, vì ở trong một niệm đều thấy rõ.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thiện căn vô thượng, tạng đại trí huệ bất hoại của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tâm: Tâm tinh cần, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.

Tâm chẳng lười, vì chứa nhóm hạnh tướng hảo phước đức. Tâm dũng kiện lớn, vì dẹp phá tất cả ma quân.

Tâm thực hành đúng lý, vì trừ diệt tất cả phiền não.

Tâm chẳng thối chuyển, vì nhẫn đến quả Bồ đề trọn chẳng thôi dứt. Tâm tính thanh tịnh, vì biết tâm bất động vô trước.

Tâm biết chúng sinh, vì tùy theo chỗ hiểu biết và sở thích của họ mà làm cho được xuất ly.

Tâm đại phạm trụ khiến nhập Phật pháp, vì biết những chỗ hiểu biết và sở thích của chúng sinh, chẳng dùng thừa khác để cứu độ.

Tâm không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vì thấy tướng tam giới không chấp trước.

Tâm tướng chữ “vạn”, tạng thù thắng trang nghiêm kiên cố như Kim Cương, vì chúng ma đồng bằng số tất cả chúng sinh đến cũng chẳng động được một sợi lông của Bồ Tát.

Nếu Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được tâm vô thượng đại trí quang minh tạng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ mặc giáp:

Mặc giáp đại từ, vì cứu hộ tất cả chúng sinh. Mặc giáp đại bi, vì kham chịu tất cả sự khổ.

Mặc giáp đại nguyện, vì tất cả việc làm đều rốt ráo.

Mặc giáp hồi hướng, vì kiến lập tất cả sự trang nghiêm của Phật. Mặc giáp phước đức, vì lợi ích tất cả chúng sinh.

Mặc giáp Ba la mật, vì độ thoát tất cả chúng sinh.

Mặc giáp trí huệ, vì dứt tối phiền não của tất cả chúng sinh.

Mặc giáp thiện xảo phương tiện, vì xuất sinh thiện căn phổ môn.

Mặc giáp nhất thiết trí tâm kiên cố chẳng tán loạn, vì chẳng thích những thừa khác. Mặc giáp nhất tâm quyết định, vì nơi tất cả pháp lìa nghi hoặc.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời mặc mão giáp vô thượng của Như Lai, đều có thể xô dẹp tất cả quân ma. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thứ khí trượng:

Bố thí là khí trượng của Bồ Tát, vì dẹp phá tất cả xan lẫn.

Trì giới là khí trượng của Bồ Tát, vì vứt bỏ tất cả sự hủy phạm. Bình đẳng là khí trượng của Bồ Tát, vì dứt trừ tất cả phân biệt. Trí huệ là khí trượng của Bồ Tát, vì tiêu diệt tất cả phiền não. Chính mạng là khí trượng của Bồ Tát, vì xa rời tất cả tà mạng.

Thiện xảo phương tiện là khí trượng của Bồ Tát, vì thị hiện tất cả xứ.

Lược nói tham, sân, si tất cả phiền não là khí trượng của Bồ Tát, vì dùng môn phiền não để độ chúng sinh.

Sinh tử là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng dứt hạnh Bồ Tát luôn giáo hóa chúng sinh. Nói pháp như thật là khí trượng của Bồ Tát, vì hay phá tất cả chấp trước.

Nhất thiết trí là khí trượng của Bồ Tát, vì chẳng bỏ hạnh môn của Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời có thể trừ diệt những phiền não kiết sử đã chứa nhóm từ lâu của tất cả chúng sinh.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười đầu: Ðầu Niết Bàn, vì không ai thấy được đỉnh.

Ðầu tôn kính, vì tất cả Nhân Thiên đều kính lễ.

Ðầu thắng giải quảng đại, vì tối thắng trong Ðại Thiên thế giới. Ðầu đệ nhất thiện căn, vì tam giới chúng sinh đều cúng dường. Ðầu gánh đội chúng sinh, vì thành tựu tướng nhục kế trên đỉnh.

Ðầu chẳng khinh tiện người, vì ở tất cả chỗ thường là bậc tôn thắng. Ðầu Bát nhã Ba la mật, vì trưởng dưỡng tất cả pháp công đức.

Ðầu tương ưng phương tiện trí, vì hiện khắp tất cả thân đồng loại. Ðầu giáo hóa tất cả chúng sinh, vì dùng tất cả chúng sinh làm đệ tử.

Ðầu thủ hộ pháp nhãn của chư Phật, vì làm cho Tam Bảo chủng chẳng đoạn tuyệt. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời, được đầu đại trí huệ vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười mắt:

Nhục nhãn, vì thấy tất cả hình sắc.

Thiên nhãn, vì thấy tâm niệm của tất cả chúng sinh.

Huệ nhãn, vì thấy những căn cảnh giới của tất cả chúng sinh. Pháp nhãn, vì thấy tướng như thiệt của tất cả pháp.

Phật nhãn, vì thấy thập lực của Như Lai. Trí nhãn, vì thấy biết các pháp.

Quang minh nhãn, vì thấy quang minh của Ðức Phật. Xuất sinh tử nhãn, vì thấy Niết Bàn.

Vô ngại nhãn, vì chỗ thấy không chướng ngại. Nhất thiết trí nhãn, vì thấy phổ môn pháp giới.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ nhãn vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười tai:

Nghe tiếng khen ngợi thời dứt trừ tâm tham ái. Nghe tiếng hủy báng thời dứt trừ tâm hờn giận. Nghe nói Nhị thừa thời chẳng ham chẳng cầu. Nghe đạo Bồ Tát thời vui mừng hớn hở.

Nghe địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ, những chỗ khổ nạn thời phát tâm đại bi lập thệ nguyện rộng lớn. Nghe sự thắng diệu của thiên nhân thời biết đó đều là những pháp vô thường.

Nghe tán thán công đức của chư Phật thời siêng tu tinh tấn cho mau được viên mãn. Nghe nói các pháp lục độ tứ nhiếp thời phát tâm tu hành nguyện đến bĩ ngạn.

Nghe tất cả âm thanh trong thập phương thế giới, thời đều biết như vang, nhập bất khả thuyết diệu nghĩa thậm thâm.

Ðại Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đạo tràng thường nghe chính pháp chưa từng tạm nghĩ, mà hằng chẳng bỏ việc giáo hóa chúng sinh.

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được đại trí huệ nhĩ vô thượng của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười mũi:

Nghe những vật hôi, không cho đó là hôi.

Nghe những hơi thơm, không cho đó là thơm. Thơm hôi đều nghe tâm Bồ Tát bình đẳng. Chẳng thơm chẳng hôi thời an trụ nơi xả.

Nếu nghe y phục, ngọa cụ và thân thể của chúng sinh có hơi thơm hôi, thời biết được họ khởi lòng tham hay sân, si đẳng phần.

Nếu nghe hơi của cỏ, cây, hầm mỏ v.v... thời biết rõ tàng như đối trước mắt.

Nếu nghe mùi của chúng sinh trên đến trời Hữu Ðảnh, dưới đến địa ngục A Tỳ, thời đều biết hạnh nghiệp quá khứ của họ đã gây tạo.

Nếu nghe hơi bố thí, trì giới, đa văn, trí huệ của hàng Thanh Văn thời an trụ tâm nhất thíêt trí chẳng cho tán động.

Nếu nghe hơi của tất cả Bồ Tát hạnh, thời dùng trí huệ bình đẳng nhập Phật địa. Nghe hơi cảnh giới trí huệ của tất cả Phật, cũng chẳng phế bỏ những hạnh Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được vô lượng vô biên thanh tịnh tỷ của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười lưỡi:

Lưỡi khai thị diễn thuyết vô tận hạnh chúng sinh. Lưỡi khai thị diễn thuyết vô tận pháp môn.

Lưỡi tán thán chư Phật vô tận công đức. Lưỡi diễn xướng từ biện vô tận.

Lưỡi khai xiển đại thừa trợ đạo.

Lưỡi trùm khắp thập phương hư không. Lưỡi chiếu khắp tất cả cõi Phật.

Lưỡi làm cho tất cả chúng sinh được tỏ ngộ. Lưỡi đều làm cho tất cả chư Phật hoan hỷ.

Lưỡi hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo, diệt trừ tất cả sinh tử phiền não làm cho đến Niết Bàn.

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được lưỡi vô thượng trùm khắp tất cả Phật độ của Ðức Như Lai.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười thân:

Thân người, vì giáo hoá tất cả loài người.

Thân phi nhân, vì giáo hoá địa ngục, súc sinh, ngạ quỷ.

Thân trời, vì giáo hóa chúng sinh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô Sắc. Thân hữu học, vì thị hiện bậc hữu học.

Thân vô học, vì thị hiện bậc A la hán.

Thân Duyên giác, vì giáo hoá cho được vào bậc Bích Chi Phật. Thân Bồ Tát, vì làm cho thành tựu đại thừa.

Thân Như Lai, vì trí thủy quán đỉnh. Ý sinh thân, vì thiện xảo xuất sinh.

Pháp thân vô lậu, vì dùng vô công dụng thị hiện thân tất cả chúng sinh. Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời được thân vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười ý:

Ý thượng thủ, vì phát khởi tất cả thiện căn. Ý an trụ, vì tin sâu kiên cố bất động.

Ý thâm nhập, vì tùy thuận Phật pháp mà hiểu.

Ý rõ biết ở trong, vì biết rõ tâm sở thích của chúng sinh. Ý vô loạn, vì tất cả phiền não chẳng tạp.

Ý minh tịnh, vì khách trần chẳng nhiễm trước được.

Ý khéo quán sát chúng sinh, vì không có một niệm lỗi thời. Ý khéo lựa chỗ làm, vì chưa từng có một chỗ sinh lỗi lầm.

Ý kính giữ gìn các căn, vì điều phục chẳng cho buông lung tán loạn.

Ý khéo nhập tam muội, vì thâm nhập Phật tam muội, không ngã, không ngã sở. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được ý vô thượng của tất cả Phật.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười hạnh:

Hạnh nghe chính pháp, vì ưa thích chính pháp.

Hạnh thuyết pháp, vì lợi ích chúng sinh.

Hạnh rời tham, sân, si, bố úy vì điều phục tự tâm. Hạnh dục giới, vì giáo hóa chúng sinh cõi dục.

Hạnh chính định Sắc giới, Vô Sắc giới, vì làm cho họ mau xoay trở lại. Hạnh xu hướng pháp nghĩa, vì mau được trí huệ.

Hạnh thọ sinh tất cả xứ, vì tự tại giáo hóa chúng sinh. Hạnh tất cả cõi Phật, vì lễ bái cúng dường chư Phật. Hạnh Niết Bàn, vì chẳng dứt sinh tử tiếp nối.

Hạnh thành tựu viên mãn tất cả Phật pháp, vì chẳng bỏ pháp hạnh của Bồ Tát. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được hạnh vô lai vô khứ của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ an trụ:

An trụ tâm Bồ đề, vì chưa từng quên mất. An trụ Ba la mật, vì chẳng nhàm trợ đạo. An trụ thuyết pháp, vì tăng trưởng trí huệ. An trụ A lan nhã, vì chứng đại thiền định.

An trụ tùy thuận nhất thiết trí đầu đà tri túc tứ thánh chủng, vì thiểu dục thiểu sự. An trụ thâm tín, vì gánh vác chính pháp.

An trụ thân cận Ðức Như Lai, vì học Phật oai nghi. An trụ xuất sinh thần thông, vì viên mãn đại trí. An trụ đắc nhẫn, vì viên mãn thọ ký.

An trụ đạo tràng, vì đầy đủ Thập Lực, vô úy và tất cả Phật pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được an trụ nhất thiết trí vô thượng. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ ngồi:

Chỗ ngồi Chuyển Luân Vương, vì phát khởi mười thiện đạo.

Chỗ ngồi Tứ Thiên Vương, vì tất cả thế gian tự tại an lập Phật pháp.

Chỗ ngồi Ðế Thích, vì làm thắng chủ cho tất cả chúng sinh. Chỗ ngồi Phạm Vương, vì ở người và mình tâm đều được tự tại. Chỗ ngồi sư tử, vì hay thuyết pháp.

Chỗ ngồi chính pháp, vì dùng sức tổng trì biện tài mà khai thị. Chỗ ngồi kiên cố, vì thệ nguyện rốt ráo.

Chỗ ngồi đại từ, vì làm cho ác chúng sinh đều vui mừng. Chỗ ngồi đại bi, vì nhẫn chịu tất cả khổ chẳng mỏi nhàm. Chỗ ngồi Kim Cương, vì hàng phục ma quân và ngoại đạo.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ ngồi Chính giác vô thượng của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ nằm:

Chỗ nằm tịch tịnh, vì thân tâm yên lặng. Chỗ nằm thiền định, vì tu hành đúng lý.

Chỗ nằm tam muội, vì thân tâm nhu nhuyến.

Chỗ nằm Phạm Thiên, vì chẳng não hại mình và người. Chỗ nằm thiện nghiệp, vì chẳng bị khuynh động.

Chỗ nằm chính đạo, vì thiện hữu khai giác. Chỗ nằm diệu nguyện, vì thiện xảo hồi hướng.

Chỗ nằm tất cả việc đều xong, vì việc làm đều hoàn mãn. Chỗ nằm bỏ những công dụng, vì tất cả đều quen thuộc.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ nằm đại pháp vô thượng của Như Lai đều có thể khai ngộ tất cả chúng sinh.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười chỗ sở trụ:

Dùng đại từ làm chỗ sở trụ, vì tâm bình đẳng với tất cả chúng sinh. Dùng đại bi làm chỗ sở trụ, vì chẳng khinh người chưa học.

Dùng đại hỷ làm chỗ sở trụ, vì rời tất cả ưu não.

Dùng đại xả làm chỗ sở trụ, vì nơi hữu vi vô vi đều bình đẳng. Dùng tất cả Ba la mật làm chỗ sở trụ, vì Bồ đề tâm làm đầu. Dùng nhất thiết không để làm chỗ sở trụ, vì thiện xảo quan sát. Dùng vô tướng làm chỗ sở trụ, vì chẳng ra khỏi chính vị.  Dùng vô nguyện làm chỗ sở trụ, vì quán sát thọ sinh.

Dùng niệm huệ làm chỗ sở trụ, vì nhẫn pháp thành tựu viên mãn. Dùng tất cả pháp bình đẳng làm chỗ sở trụ, vì được thọ ký.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở trụ vô ngại vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười chỗ sở hành:

Dùng chính niệm làm chỗ sở hành, vì đầy đủ niệm xứ.

Dùng những xu hướng làm chỗ sở hành, vì xu hướng pháp Chính giác. Dùng trí huệ làm chỗ sở hành, vì được Phật hoan hỷ.

Dùng Ba la mật làm chỗ sở hành, vì đầy đủ Nhất thiết chủng trí. Dùng tứ nhiếp làm chỗ sở hành, vì giáo hóa chúng sinh.

Dùng sinh tử làm chỗ sở hành, vì chứa nhóm thiện căn.

Dùng sự nói chuyện đùa tạp với chúng sinh làm chỗ sở hành, vì tùy nghi giáo hóa xa lìa hẳn. Dùng thần thông làm chỗ sở hành, vì biết cảnh giới các căn của tất cả chúng sinh.

Dùng thiện xảo phương tiện làm chỗ sở hành, vì tương ưng Bát nhã Ba la mật. Dùng đạo tràng làm chỗ sở hành, vì thành Nhất thiết trí mà chẳng dứt hạnh Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được chỗ sở hành đại trí huệ vô thượng của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ quán sát:

Biết các nghiệp quán sát, vì vi tế đều thấy.

Biết các loài quán sát, vì chẳng chấp chúng sinh. Biết các căn quán sát, vì rõ thấu các căn.

Biết các pháp quán sát, vì chẳng hoại pháp giới.

Thấy Phật pháp quán sát, vì siêng tu Phật nhãn. Ðược trí huệ quán sát, vì thuyết pháp đúng lý. Vô sinh nhẫn quán sát, vì quyết rõ Phật pháp.

Bất thối địa quán sát vì diệt phiền não vượt khỏi tam giới Nhị thừa địa. Quán đỉnh địa quán sát, nơi tất cả Phật pháp được tự tại bất động. Thiện giác trí tam muội quán sát, vì ra làm Phật sự khắp mười phương.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được trí đại quán sát vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười môn phổ quán sát:

Phổ quán sát tất cả những kẻ đến cầu xin, vì dùng tâm không trái nghịch để làm thỏa mãn ý của họ. Phổ quán sát tất cả những chúng sinh phạm giới, vì an trí họ trong giới thanh tịnh của Ðức Như Lai. Phổ quán sát tất cả những chúng sinh có tâm tổn hại, vì an trí họ trong nhẫn lực của Ðức Như Lai. Phổ quán sát tất cả những chúng sinh giải đãi, vì khuyên họ tinh cần chẳng bỏ gánh lấy gánh Ðại thừa.

Phổ quán sát tất cả chúng sinh loạn tâm, vì làm cho họ an trụ nhất thiết trí địa không tán động của Ðức Như Lai.

Phổ quán sát tất cả những chúng sinh ác huệ, vì làm cho họ trừ nghi hoặc phá kiến chấp hữu lậu.

Phổ quán sát tất cả những thiện hữu bình đẳng, vì thuận giáo mạng của thiện hữu mà an trụ trong Phật pháp.

Phổ quán sát tất cả pháp đã được nghe, vì mau được chứng thấy nghĩa tối thượng. Phổ quán sát tất cả chúng sinh vô biên, vì thường chẳng bỏ rời sức đại bi.

Phổ quán sát tất cả Phật pháp, vì mau được thành tựu Nhất thiết trí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ phổ quán sát vô thượng của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều phấn tấn:

Ngưu Vương phấn tấn, vì che chói tất cả đại chúng Thiên, Long, Bát Bộ v.v... Tượng Vương phấn tấn, vì tâm khéo điều nhu gánh vác tất cả những chúng sinh.

Long Vương phấn tấn, vì nổi mây dầy đại pháp, chiếu điển quang giải thoát, chấn sấm nghĩa như thật, rưới mưa cam lồ căn, lực, giác phần, thiền định, giải thoát, tam muội.

Ðại Kim Sí Ðiểu Vương phấn tấn, vì cạn nước tham ái, phá vỏ ngu si, chụp bắt những ác độc long phiền não, khiến ra khỏi biển khổ lớn sinh tử.

Đại Sư Tử Vương phấn tấn, vì an trụ đại trí vô úy, bình đẳng dùng làm khí trượng, xô dẹp chúng ma và ngoại đạo.

Dũng kiện phấn tấn, vì có thể ở trong chiến trận lớn sinh tử, xô diệt tất cả phiền não oan thù. Ðại Trí phấn tấn, vì biết uẩn, xứ, giới và các duyên khởi tự tại khai thị tất cả pháp.

Ðà La Ni phấn tấn, dùng sức niệm huệ thọ trì chính pháp chẳng quên, tùy theo căn của chúng sinh mà vì họ tuyên thuyết.

Biện tài phấn tấn, vì vô ngại mau chóng phân biệt tất cả, đều làm cho được lợi ích tâm hoan hỷ.

Như Lai phấn tấn, vì nhất thiết chủng trí những pháp trợ đạo đều thành tựu viên mãn, dùng một niệm tương ưng huệ, những chỗ đáng được tất cả đều được, những chỗ đáng ngộ tất cả đều ngộ; ngồi tòa sư tử, hàng ma oán địch thành Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được nơi tất cả pháp phấn tấn tự tại vô thượng của chư Phật. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sư tử hống:

Ðại Bồ Tát xướng rằng:

Tôi sẽ quyết định thành Ðẳng Chính giác. Ðây là đại bồ đề tâm đại sư tử hống.

Tôi sẽ làm cho tất cả chúng sinh, người chưa được độ thời được độ, người chưa giải thoát được giải thoát, người chưa an được an, người chưa Niết Bàn được chứng Niết Bàn. Ðây là đại bi sư tử hống.

Tôi sẽ làm cho chủng tính của Tam Bảo Phật, Pháp và Tăng không đoạn tuyệt. Ðây là báo đáp ơn Như Lai đại sư tử hống.

Tôi sẽ nghiêm tịnh tất cả cõi Phật. Ðây là thệ nguyện rốt ráo kiên cố đại sư tử hống. Tôi sẽ trừ diệt tất cả ác đạo và các nạn xứ. Ðây là tự trì tịnh giới đại sư tử hống.

Tôi sẽ đầy đủ thân, ngữ, ý tướng hảo trang nghiêm của chư Phật. Ðây là cầu phước không nhàm đại sư tử hống.

Tôi sẽ thành tựu viên mãn những trí huệ của tất cả chư Phật. Ðây là cầu trí không nhàm đại sư tử hống. Tôi sẽ trừ diệt tất cả chúng ma và những nghiệp ma. Ðây là tu chính hạnh dứt các phiền não đại sư tử hống.

Tôi sẽ rõ biết tất cả pháp không ngã, không chúng sinh, không thọ mạng, không bổ đặc già la, trống không, vô tướng, vô nguyện, sạch như hư không. Ðây là vô sinh pháp nhẫn đại sư tử hống.

Tối hậu sinh Bồ Tát chấn động tất cả Phật độ đều làm cho trang nghiêm thanh tịnh. Bấy giờ tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Tứ Thiên Vương đều đến tán thán khuyến thỉnh: “Ngưỡng mong Bồ Tát dùng pháp vô sinh mà thị hiện thọ sinh”. Bồ Tát liền dùng huệ nhãn vô ngại quán sát khắp thế gian tất cả chúng sinh không ai bằng ta. Liền thị hiện đản sinh ở vương cung tự đi bảy bước đại sư tử hống: Ta là tối thắng đệ nhất ở thế gian. Ta sẽ hết hẳn biên tế sinh tử. Ðây là như thuyết mà làm đại sư tử hống.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại sư tử hống của Như Lai.

(1) Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp thanh tịnh thí: Bình đẳng bố thí, vì chẳng lựa chúng sinh.

Tùy ý bố thí, vì thỏa mãn chỗ nguyện cầu. Chẳng loạn bố thí, vì làm cho được lợi ích. Tùy nghi bố thí, vì biết thượng trung hạ. Chẳng trụ bố thí, vì chẳng cầu quả báo. Mở rộng xả thí, vì tâm chẳng luyến tiếc. Tất cả bố thí, vì rốt ráo thanh tịnh.

Hồi hướng bồ đề thí, vì xa rời hữu vi vô vi.

Giáo hóa chúng sinh bố thí, vì nhẫn đến đạo tràng chẳng bỏ.

Tam luân thanh tịnh bố thí, vì chính niệm quán sát người thí, kẻ thọ và vật thí như hư không. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được bố thí quảng đại thanh tịnh vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh giới:

Thân thanh tịnh giới, vì giữ gìn ba điều ác nơi thân. Ngữ thanh tịnh giới, vì xa lìa bốn lỗi nơi lời nói. Tâm thanh tịnh giới, vì xa lìa tham, sân, tà kiến.

Thanh tịnh giới chẳng phá tất cả học xứ, vì làm tôn chủ ở trong tất cả nhân thiên. Thanh tịnh giới thủ hộ tâm Bồ đề, vì chẳng thích Tiểu thừa.

Thanh tịnh giới giữ gìn điều chế của Ðức Như Lai, vì nhẫn đến tội vi tế cũng sinh lòng rất e sợ. Thanh tịnh giới ẩn mật hộ trì, vì khéo cứu chúng sinh phạm giới.

Thanh tịnh giới chẳng làm tất cả điều ác, vì thệ tu tất cả pháp lành. Thanh tịnh giới xa lìa tất cả kiến chấp hữu lậu, vì không chấp nơi giới.

Thanh tịnh giới thủ hộ tất cả chúng sinh, vì phát khởi đại bi.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh giới vô thượng không lỗi lầm của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh nhẫn:

Thanh tịnh nhẫn an thọ sự mắng nhục, vì thủ hộ các chúng sinh. Thanh tịnh nhẫn an thọ dao gậy, vì khéo hộ trì mình và người. Thanh tịnh nhẫn chẳng sinh giận hại, vì nơi tâm chẳng động.

Thanh tịnh nhẫn chẳng trách kẻ ti tiện, vì người trên hay rộng lượng. Thanh tịnh nhẫn có ai về nương đều cứu độ, vì xả bỏ thân mạng mình. Thanh tịnh nhẫn xa lìa ngã mạn, vì chẳng khinh kẻ chưa học.

Thanh tịnh nhẫn bị tàn hại hủy báng chẳng sân, vì quán sát như huyễn. Thanh tịnh nhẫn bị hại không báo oán, vì chẳng thấy mình và người. Thanh tịnh nhẫn chẳng theo phiền não, vì lìa những cảnh giới.

Thanh tịnh nhẫn tùy thuận chân thiệt trí của Bồ Tát biết tất cả vô sinh, vì chẳng do người dạy mà được nhập cảnh Nhất thiết trí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp nhẫn vô thượng chẳng do tha ngộ của tất cả chư Phật. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp tinh tấn thanh tịnh:

Thân thanh tịnh tinh tấn, vì thừa sự cúng dường chư Phật, Bồ Tát và các sư trưởng, tôn trọng phước điền chẳng thối chuyển.

Ngữ thanh tịnh tinh tấn, vì pháp đã nghe rộng vì người mà diễn thuyết, tán thán công đức của chư Phật không mỏi mệt.

Ý thanh tịnh tinh tấn, vì khéo có thể nhập xuất từ, bi, hỷ, xả, thiền định, giải thoát và các tam muội không thôi nghỉ.

Tâm chính trực thanh tịnh tinh tấn, vì không dối, không dua bợ, không vạy vò, không hư giả tất cả siêng tu không thối chuyển.

Tâm tăng thắng thanh tịnh tinh tấn, vì thường xu cầu thượng thượng trí huệ nguyện đủ tất cả pháp bạch tịnh.

Thanh tịnh tinh tấn chẳng luống bỏ vì nhiếp lấy bố thí, giới, nhẫn, đa văn và bất phóng dật nhẫn đến Bồ đề không nghỉ giữa chừng.

Dẹp phục tất cả ma thanh tịnh tinh tấn, vì đều có thể trừ diệt tham dục, sân hận, ngu si, tà kiến, tất cả phiền não, những cái triền.

Thành tựu viên mãn trí huệ quang minh thanh tịnh tinh tấn, có làm việc chi đều khéo quán sát, đều khiến rốt ráo chẳng cho ăn năn về sau, được Phật bất cộng pháp.

Vô lai vô khứ thanh tịnh tinh tấn, vì được trí như thiệt nhập môn pháp giới, thân ngữ và tâm thảy đều bình đẳng, rõ tướng tức là phi tướng không chấp trước.

Thành tựu pháp quang thanh tịnh tinh tấn, vì vượt quá các địa được Phật quán đỉnh, dùng thân vô lậu mà thị hiện mất, thọ, sinh, xuất gia, thành đạo, thuyết pháp, diệt độ, đầy đủ sự Phổ Hiền như vậy.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này, thời được đại thanh tịnh tinh tấn vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh thiền:

Thanh tịnh thiền, thường thích xuất gia, vì rời bỏ tất cả sở hữu. Thanh tịnh thiền, được chân thiện hữu, vì chỉ dạy chính đạo.

Thanh tịnh thiền, ở a lan nhã nhẫn chịu mưa gió, vì lìa ngã và ngã sở. Thanh tịnh thiền, lìa chúng sinh ồn náo, vì thường thích tịch tịnh. Thanh tịnh thiền, tâm nghiệp điều nhu, vì thủ hộ các căn.

Thanh tịnh thiền, tâm trí tịch diệt, vì tất cả âm thanh những chướng thiền định chẳng thể làm loạn. Thanh tịnh thiền, giác đạo phương tiện, vì quán sát tất cả đều hiện chứng.

Thanh tịnh thiền, rời tham đắm, vì chẳng bỏ cõi dục.

Thanh tịnh thiền, phát khởi thông minh, vì biết tất cả căn tính chúng sinh. Thanh tịnh thiền, tự tại du hý, vì nhập Phật tam muội biết vô ngã.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được đại thanh tịnh thiền vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh huệ:

Thanh tịnh huệ, biết tất cả nhân, vì chẳng hoại quả báo. Thanh tịnh huệ, biết tất cả duyên vì chẳng trái hòa hiệp.

Thanh tịnh huệ, biết chẳng đoạn chẳng thường, vì rõ thấu duyên khởi đều như thiệt. Thanh tịnh huệ, trừ tất cả kiến chấp, vì không thủ xả nơi tướng chúng sinh.

Thanh tịnh huệ, quán tâm hành của tất cả chúng sinh, vì biết rõ như huyễn.

Thanh tịnh huệ, biện tài quảng đại, vì phân biệt các pháp vấn đáp vô ngại.

Thanh tịnh huệ, tất cả ma, ngoại đạo, Thanh Văn, Duyên Giác, chẳng biết được, vì thâm nhập Như Lai trí.

Thanh tịnh huệ, thấy pháp thân vi diệu của Phật, thấy bản tính thanh tịnh của tất cả chúng sinh, thấy tất cả pháp đều tịch diệt, thấy tất cả cõi đồng như hư không, vì biết tất cả tướng đều vô ngại.

Thanh tịnh huệ, tất cả tổng trì, biện tài, phương tiện đều đến bĩ ngạn, vì làm cho được nhất thiết trí tối thắng.

Thanh tịnh huệ, nhất niệm tương ưng Kim Cương trí, rõ tất cả pháp bình đẳng, vì được nhất thiết pháp tối tôn trí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây, thời được đại trí huệ vô ngại của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh từ:

Thanh tịnh từ, tâm bình đẳng, vì nhiếp khắp chúng sinh không lựa chọn. Thanh tịnh từ, lợi ích, vì tùy có chỗ làm đều làm cho hoan hỷ.

Thanh tịnh từ, nhiếp người đồng như mình, vì rốt ráo đều làm cho ra khỏi sinh tử. Thanh tịnh từ, chẳng bỏ thế gian, vì tâm thường duyên niệm chứa nhóm thiện căn. Thanh tịnh từ, có thể đến giải thoát, vì khiến khắp chúng sinh trừ diệt tất cả phiền não. Thanh tịnh từ, xuất sinh Bồ đề, vì khiến khắp chúng sinh phát tâm cầu nhất thiết trí. Thanh tịnh từ, thế gian vô ngại, vì phóng đại quang minh bình đẳng chiếu khắp.   Thanh tịnh từ, đầy khắp hư không, vì cứu hộ chúng sinh không xứ nào chẳng đến. Thanh tịnh từ, pháp duyên, chúng pháp như như chân thiệt.

Thanh tịnh từ, vô duyên vì nhập Bồ Tát ly sinh tính.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh từ quảng đại vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh bi:

Thạnh tịnh bi, không bạn bè, vì riêng mình phát tâm đó.

Thạnh tịnh bi, không mỏi nhàm, vì thay thế tất cả chúng sinh thọ khổ chẳng cho là nhọc. Thạnh tịnh bi, thọ sinh ở xứ nạn, vì cứu độ chúng sinh nạn.

Thạnh tịnh bi, thọ sinh ở đường lành, vì thị hiện vô thường.

Thạnh tịnh bi, vì tà định chúng sinh, vì nhiều kiếp chẳng bỏ hoằng thệ.

Thạnh tịnh bi, chẳng nhiễm trước sự vui của mình, vì cho khắp chúng sinh sự sung sướng. Thạnh tịnh bi, chẳng cầu báo ân, vì tu tâm trong sạch.

Thạnh tịnh bi, có thể trừ điên đảo vì nói pháp như thiệt.

Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp bản tính thanh tịnh không nhiễm trước không nhiệt não, vì do khắp trần phiền não nên thọ những điều khổ. Biết như vậy rồi Bồ Tát ở nơi chúng sinh mà khởi đại bi gọi là bản tính thanh tịnh, vì họ mà diễn thuyết pháp vô cấu thanh tịnh, quang minh.

Ðại Bồ Tát biết tất cả pháp như dấu chim bay giữa không gian, chúng sinh si lòa chẳng thể quán sát biết rõ các pháp Bồ Tát phát khởi tâm đại bi tên là chân thiệt trí, vì họ mà khai thị pháp Niết Bàn. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh bi quảng đại vô thượng của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh hỷ: Thanh tịnh hỷ, phát Bồ đề tâm.

Thanh tịnh hỷ, đều xả bỏ sở hữu.

Thanh tịnh hỷ, chẳng ghét bỏ chúng sinh phá giới giáo hóa cho họ được thành tựu. Thanh tịnh hỷ, có thể nhẫn thọ chúng sinh tạo ác mà thệ nguyện cứu độ họ.

Thanh tịnh hỷ, xả thân cầu pháp chẳng sinh lòng ăn năn. Thanh tịnh hỷ, tự bỏ dục lạc thường thích pháp lạc.

Thanh tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sinh bỏ tư sinh lạc thường thích pháp lạc.

Thanh tịnh hỷ, thấy chư Phật thời cung kính cúng dường không nhàm đủ, an trụ nơi pháp giới bình đẳng.

Thanh tịnh hỷ, làm cho tất cả chúng sinh ưa thích thiền định giải thoát tam muội du hý nhập xuất. Thanh tịnh hỷ, lòng ưa thích đầy đủ công hạnh thuận tất cả khổ hạnh của Bồ Tát đạo, chứng được định huệ tịch tịnh bất động của đức Mâu Ni.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được thanh tịnh hỷ quảng đại vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thanh tịnh xả:

Thanh tịnh xả, tất cả chúng sinh cung kính cúng dường, Bồ Tát chẳng sinh lòng ái trước. Thanh tịnh xả, tất cả chúng sinh khinh mạn hủy nhục, Bồ Tát chẳng sinh lòng giận hờn. Thanh tịnh xả, thường đi trong thế gian chẳng bị tám pháp thế gian làm nhiễm.

Thanh tịnh xả, đối với pháp khí chúng sinh chờ thời mà hóa độ, với chúng sinh không pháp khí cũng chẳng hiềm ghét.

Thanh tịnh xả, chẳng cầu pháp học và vô học của Nhị thừa. Thanh tịnh xả, tâm thường xa lìa tất cả dục lạc thuận phiền não. Thanh tịnh xả, chẳng khen hàng Nhị thừa nhàm lìa sinh tử.

Thanh tịnh xả, xa lìa tất cả lời thế gian, lời phi Niết Bàn, lời phi ly dục, lời chẳng thuận lý, lời não loạn người khác, lời Thanh Văn, lời Duyên Giác, nhẫn đến những chướng Bồ Tát đạo đều xa lìa tất cả.

Thanh tịnh xả, hoặc có chúng sinh căn đã thành thục phát sinh niệm huệ mà chưa biết được pháp tối thượng, chờ thời tiết mới hóa độ.

Thanh tịnh xả, hoặc có chúng sinh đã được Bồ Tát giáo hóa từ thuở trước, đến Phật địa mới điều phục được, Bồ Tát cũng chờ thời tiết.

Thanh tịnh xả, đối với hai hạng chúng sinh trên Bồ Tát, không có quan niệm cao hạ thủ xả, xa lìa tất cả những phân biệt, hằng trụ chính định, nhập pháp như thiệt, tâm được kham nhẫn.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được thanh tịnh xả quảng đại vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười nghĩa:

Ða văn nghĩa, vì kiên cố tu hành.

Pháp nghĩa, vì khéo léo suy gẫm lựa chọn. Không nghĩa, vì đệ nhất nghĩa không.

Tịch tịnh nghĩa, rời những chúng sinh ồn náo.

Bất khả thuyết nghĩa, vì chẳng chấp tất cả ngữ ngôn. Như thiệt nghĩa, vì rõ thấu tam thế bình đẳng.

Pháp giới nghĩa, vì tất cả các pháp đồng một vị. Chân như nghĩa, vì tất cả Như Lai thuận nhập. Thiệt tế nghĩa, vì biết rõ rốt ráo như thiệt.

Ðại Bát Niết Bàn nghĩa, vì diệt tất cả khổ mà tu những hạnh Bồ Tát.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong pháp này thời được Nhất thiết trí vô thượng nghĩa. 

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp:

Chân thiệt pháp, vì như thuyết tu hành.  Ly thủ pháp, vì đều lìa năng thủ và sở thủ.

Vô tránh pháp, vì không có tất cả mê lầm gây gỗ. Tịch diệt pháp, vì trừ diệt tất cả nhiệt não.

Ly dục pháp, vì tất cả tham dục đều dứt trừ.

Vô phân biệt pháp, vì dứt hẳn phan duyên phân biệt. Vô sinh pháp, vì dường như hư không bất động.

Vô vi pháp, vì lìa những tướng sinh trụ diệt. Bản tính pháp, vì tự tính vô nhiễm thanh tịnh.

Xả bỏ tất cả Ô ba đề Niết Bàn pháp, vì hay sinh tất cả Bồ Tát hạnh tu tập chẳng dứt. Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được pháp quảng đại vô thượng của Ðức Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo phước đức:

Khuyên chúng sinh phát khởi tâm Bồ đề là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì chẳng dứt ngôi Tam Bảo.

Tùy thuận Thập hồi hướng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì dứt tất cả pháp bất thiện, chứa nhóm tất cả thiện pháp.

Trí huệ dạy dỗ là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì vượt hơn phước đức tam giới.

Tâm không mỏi mệt là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì rốt ráo độ thoát tất cả chúng sinh.

Xả bỏ tất cả sở hữu trong thân ngoài thân là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì nơi tất cả vật chẳng chấp trước.

Vì đầy đủ tướng hảo mà tinh tấn bất thối là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì mở cử đại thí không hạn cuộc.

Thượng, trung, hạ, ba phẩm thiện căn đều đem hồi hướng vô thượng Bồ đề tâm không khinh trọng là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì tương ứng với thiện xảo phương tiện.

Với chúng sinh tà định hạ liệt bất thiện đều sinh lòng đại bi chẳng khinh tiện là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì thường phát khởi tâm hoằng thệ của bậc đại nhân.

Cung kính cúng dường tất cả Như Lai với tất cả Bồ Tát khởi Như Lai tưởng làm cho chúng sinh đều hoan hỉ, đây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì giữ bản chí nguyện rất bền chắc.

Trong vô số kiếp, đại Bồ Tát tích tập thiện căn tự muốn được chứng vô thượng Bồ Ðề như ở trong bàn tay, nhưng đầu đem xả thí cho tất cả chúng sinh lòng không ưu não cũng không hối hận, tâm Bồ Tát rộng lớn đồng hư không giới. Ðây là công cụ trợ đạo phước đức của Bồ Tát, vì phát khởi trí huệ chứng đại pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời đầy đủ phước đức quảng đại vô thượng của Như Lai. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười công cụ trợ đạo trí huệ:

Gần gũi chân thiện tri thức đa văn, cung kính, cúng dường, tôn trọng, lễ bái tùy thuận mọi việc chẳng trái lời dạy bảo. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ nhất, vì tất cả chính trực không hư dối.

Lìa hẳn kiêu mạn thường có hạnh khiêm hạ cung kính, thân ngữ ý ba nghiệp không thô bạo, nhu hòa thiện thuận chẳng dối trá, chẳng vạy vò. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ hai, vì thân Bồ Tát kham làm pháp khí.

Niệm huệ tùy giác chưa từng tán loạn, hổ thẹn, nhu hòa tâm an bất động, thường nhớ lục niệm, thường thực hành lục hòa kính, thường tùy thuận trụ sáu pháp kiên cố. Ðây là công cụ trí huệ thứ ba, vì làm phương tiện cho mười trí.

Thích pháp thích nghĩa, lấy pháp làm vui, thường thích lóng nghe chính pháp không nhàm đủ, bỏ rời thế luận và thế ngôn thuyết, chuyên tâm nghe thọ lời xuất thế gian, xa lìa Tiểu thừa, nhập Ðại thừa huệ. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tư, vì nhất tâm ghi nhớ không tán động.

Tâm chuyên gánh vác sáu môn Ba la mật, thực hành đã thành thục bốn pháp phạm trụ, đều khéo tu hành tùy thuận minh pháp, điều siêng thỉnh hỏi người trí thông mẫn, xa lìa ác thú quy hướng đường lành tâm thường mến thích chính niệm quán sát, điều phục lòng mình, thủ hộ ý người. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ năm, vì kiên cố tu hành chân thiệt hạnh.

Thường thích xuất ly chẳng chấp ba cõi, hằng giác tự tâm không bao giờ có ác niệm, ba giác quán đã tuyệt, ba nghiệp đều lành quyết định biết rõ tự tính của tâm. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ sáu, vì có thể làm cho mình và người được tâm thanh tịnh.

Quán sát ngũ uẩn đều như huyễn sự, thập bát giới như độc xà, thập nhị xứ như hư không, tất cả pháp như huyễn, như diệm, như trăng trong nước, như mộng, như ảnh, như hưởng, như tượng, như vẽ giữa hư không, như vòng lửa quây, như màu mống rán, như ánh sáng mặt nhật mặt nguyệt, vô tướng vô hình, phi thường phi đoạn, chẳng đến chẳng đi, cũng không sở trụ, quán sát như vậy biệt tất cả pháp vô sinh vô diệt. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ bảy, vì biết tất cả pháp tính không tịch.

Ðại Bồ Tát nghe tất cả pháp không ngã, không chúng sinh, không thọ giả, không bổ đặc già la, không tâm, không cảnh, không tham sân si, không thân, không vật, không chủ, không đối đãi, không chấp trước, không hành động, như vậy, tất cả đều vô sở hữu, trọn về nơi tịch diệt. Nghe rồi tin sâu chẳng nghi chẳng hủy báng. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ tám, vì có thể thành tựu tri giải viên mãn.

Ðại Bồ Tát khéo điều các căn như lý tu hành, hằng trụ chỉ quán tâm ý tịch tịnh, tất cả động niệm đều trọn chẳng phát khởi, vô ngã, vô nhân, vô tác, vô hành, không chấp ngã tưởng, không chấp ngả nghiệp, không có tỳ vết, không có nứt rạn, cũng không đức nhẫn nơi đây, thân ngữ ý ba nghiệp không lai không khứ, không có tinh tấn cũng không dũng mãnh. Quán tất cả chúng sinh tất cả các pháp đều bình đẳng mà không sở trụ. Chẳng phải thử ngạn, chẳng phải bỉ ngạn, thử bĩ tính ly, không từ đâu đến, đi không đến đâu. Thường dùng trí huệ tư duy như vậy. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ chín, vì đến chỗ bỉ ngạn phân biệt tướng.

Ðại Bồ Tát thấy pháp duyên khởi nên thấy pháp thanh tịnh, vì thấy pháp thanh tịnh nên thấy quốc độ thanh tịnh, vì thấy quốc độ thanh tịnh nên thấy hư không thanh tịnh, vì thấy hư không thanh tịnh nên thấy pháp giới thanh tịnh, vì thấy pháp giới thanh tịnh nên thấy trí huệ thanh tịnh. Ðây là công cụ trợ đạo trí huệ thứ mười của Bồ Tát, vì tu hành tích tập nhất thiết trí.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười pháp này thời được trí huệ vi diệu thanh tịnh vô ngại nơi tất cả pháp của Ðức Như Lai.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười minh túc: Minh túc, khéo phân biệt các pháp.

Minh túc, chẳng chấp trước các pháp. Minh túc, lìa điên đảo kiến.

Minh túc, trí huệ quang chiếu soi các căn. Minh túc, khéo phát khởi chính tinh tấn. Minh túc, hay thâm nhập chân đế trí.

Minh túc, diệt nghiệp phiền não thành tựu tận trí vô sinh trí. Minh túc, thiên nhãn trí khéo quán sát.

Minh túc, túc trụ niệm biết thuở trước thanh tịnh.

Minh túc, lậu tận thần thông trí dứt những lậu của chúng sinh.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại quang minh vô thượng nơi tất cả Phật pháp của Như Lai. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười điều cầu pháp:

Trực tâm cầu pháp, vì không dua nịnh phỉnh phờ. Tinh tấn cầu pháp, vì xa lìa lười biếng khinh mạn. Nhất hướng cầu pháp, vì chẳng tiếc thân mạng.

Vì trừ phiền não cho tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì chẳng vì danh lợi cung kính. Vì lợi ích mình và người tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì chẳng riêng tự lợi.

Vì nhập trí huệ mà cầu pháp, vì chẳng thích văn tự.

Vì thoát khỏi sinh tử mà cầu pháp, vì chẳng tham thế lạc.

Vì độ chúng sinh mà cầu pháp, vì phát Bồ đề tâm.

Vì dứt nghi cho tất cả chúng sinh mà cầu pháp, vì làm cho họ không do dự. Vì đầy đủ Phật pháp mà cầu pháp, vì chẳng thích những thừa khác.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí huệ tất cả Phật pháp chẳng do người khác dạy. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười pháp minh liễu:

Tùy thuận thế tục sinh trưởng thiện căn, đây là đồng mông phàm phu minh liễu pháp.

Ðược bất hoại tín vô ngại, tỏ ngộ tự tính của các pháp, đây là tùy tín hành nhân minh liễu pháp. Siêng tu tập chính pháp, tùy thuận chính pháp mà an trụ, đây là tùy pháp hành nhân minh liễu pháp. Xa lìa bát tà, hướng về bát chính đạo, đây là đệ bát nhân minh liễu pháp.

Trừ diệt những kiết sử, dứt lậu sinh tử thấy chân thiệt đế, đây là tu đà hoàn nhân chân minh liễu pháp. Quán sát ham muốn là họa hoạn biết không qua lại, đây là Tư Ðà Hàm nhân minh liễu.

Chẳng luyến tam giới, cầu hết hữu lậu, đối với pháp thọ sinh, nhẫn đến chẳng sinh một niệm ái trước, đây là A Na Hàm nhân minh liễu pháp.

Chứng lục thần thông, được bát giải thoát, cửu định, tứ biện tài thảy đều thành tựu, đây là A La Hán nhân minh liễu pháp.

Tính thích quán sát nhất vị duyên khởi, tâm thường tịch tịnh, tri túc, ít việc, tỏ ngộ do mình được chẳng do người thành tựu các môn thần thông trí huệ, đây là Bích Chi Phật nhân minh liễu pháp.

Trí huệ rộng lớn, các căn sáng lẹ, thường thích độ thoát tất cả chúng sinh, siêng tu phước trí các pháp trợ đạo, tất cả công đức thập lực tứ vô úy của Như Lai đều đầy đủ viên mãn, đây là Bồ Tát nhân minh liễu pháp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ pháp này thời được đại trí nhân minh liễu pháp vô thượng của Ðức Như Lai. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười pháp tu hành:

Cung kính tôn trọng chư Thiện tri thức, là pháp tu hành của Bồ Tát. Thường được chư Thiên giác ngộ, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Ðối với chư Phật thường có lòng tàm quý, là pháp tu hành của Bồ Tát. Thương xót chúng sinh chẳng bỏ sinh tử, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Công việc tất làm đến rốt ráo tâm không biến động, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Chuyên niệm theo dõi chúng Bồ Tát phát tâm Ðại thừa tinh cần tu học, là pháp tu hành của Bồ Tát. Xa lìa tà kiến siêng cầu chính đạo, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Dẹp phá chúng ma và nghiệp phiền não, là pháp tu hành của Bồ Tát.

Biết các chúng sinh căn tính thắng liệt mà vì họ thuyết pháp cho họ an trụ nơi Phật địa, là pháp tu hành của Bồ Tát.

An trụ pháp giới quảng đại vô biên, diệt trừ phiền não cho thân thanh tịnh, là pháp tu hành của Bồ Tát. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong đây thời được pháp tu hành vô thượng của Như Lai.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ ma: Ngũ uẩn ma, vì sinh các chấp thủ.

Phiền não ma, vì hằng tạp nhiễm. Nghiệp ma, vì hay chướng ngại. Tâm ma, vì khởi cao mạn.

Tử ma, vì bỏ chỗ sinh.

Thiên ma, vì tự kiêu căn phóng túng. Thiện căn ma, vì hằng chấp thủ.  Tam muội ma, vì từ lâu say đắm.

Thiện tri thức ma, vì phát khởi tâm chấp trước. Bồ đề pháp trí ma, vì chẳng nguyện xả lìa.

Ðại Bồ Tát phải dùng phương tiện mau cầu xa rời mười thứ ma này. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười thứ ma nghiệp:

Quên mất Bồ đề tâm tu các thiện căn đây là ma nghiệp.

Ác tâm bố thí, sân tâm trì giới, bỏ người tính ác, xa kẻ lười biếng, khinh mạn kẻ loạn ý, cơ hiềm người ác huệ, đây là ma nghiệp.

Nơi pháp thậm thâm tâm sinh xan lẫn, có người kham được hóa độ mà chẳng vì họ thuyết pháp. Nếu được tài lợi cung kính cúng dường, dầu chẳng phải pháp khí mà cũng gượng vì họ thuyết pháp. Ðây là ma nghiệp.

Chẳng thích lắng nghe các môn Ba la mật, giả sử nghe nói mà chẳng tu hành, dầu cũng tu hành mà phần nhiều lười biếng. Vì lười biếng nên chí ý hèn kém chẳng cầu pháp đại Bồ đề Vô thượng. Ðây là ma nghiệp.

Xa thiện tri thức, gần ác tri thức, thích cầu Nhị thừa, chẳng thích thọ sinh, chỉ chuộng Niết Bàn ly dục tịch tịnh. Ðây là ma nghiệp.

Ở chỗ Bồ Tát, khởi tâm sân hận ác nhãn nhìn ngó tìm cầu tội hở để nói kể lỗi lầm, ngăn dứt tài lợi cúng dường. Ðây là ma nghiệp.

Phỉ báng chính pháp chẳng thích lắng nghe, giả sử được nghe liền sinh lòng chê bai, thấy người thuyết pháp chẳng sinh lòng tôn trọng, cho lời mình nói là phải, lời của người là quấy. Ðây là ma nghiệp.

Thích học thế luận xảo thuật văn từ, khai xiển thâm pháp ẩn phú của Nhị thừa, hoặc dùng diệu nghĩa truyền dạy cho người chẳng đáng dạy, xa rời Bồ đề, trụ nơi tà đạo. Ðây là ma nghiệp.

Người đã được giải thoát đã được an ổn thời thường thích gần gũi mà cúng dường. Người chưa giải thoát chưa an ổn thời chẳng chịu thân cận, cũng chẳng giáo hoá. Ðây là ma nghiệp.

Thêm lớn ngã mạn không cung kính. Với các chúng sinh làm nhiều sự não hại, chẳng cầu chính pháp trí huệ chân thiệt. Tâm ý tệ ác khó khai ngộ được. Ðây là ma nghiệp.

Chư Bồ Tát phải mau xa lìa mười ma nghiệp này mà siêng cầu Phật nghiệp. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều bỏ rời ma nghiệp:

Gần thiện tri thức cung kính cúng dường. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Chẳng tụ cao tự đại, chẳng tự khen ngợi. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Nơi thâm pháp của Phật tin hiểu chẳng chê. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Chưa từng quên mất tâm nhất thiết trí. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Siêng tu diệu hạnh hằng chẳng phóng dật. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Thường cầu tất cả pháp Bồ Tát tạng. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Hằng diễn thuyết chính pháp tâm không mỏi nhọc. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Quy y tất cả chư Phật mười phương, phát khởi tưởng niệm được cứu hộ. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Tin thọ ức niệm tất cả chư Phật thần lực gia trì. Ðây là bỏ rời ma nghiệp.

Cùng tất cả Bồ Tát đồng gieo căn lành bình đẳng không hai. Ðây là bỏ rời ma nghiệp. Nếu chư Bồ Tát an trụ mười pháp này thời có thể ra khỏi tất cả ma đạo.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười môn kiến Phật:

Vô trước kiến, đối với Phật thành Chính giác an trụ thế gian. Xuất sinh kiến, đối với nguyện Phật.

Thâm tín kiến, đối với nghiệp báo Phật. Tùy thuận kiến, đối với trụ trì Phật. Thâm nhập kiến, đối với Niết Bàn Phật. Phổ chí kiến, đối với pháp giới Phật.  An trụ kiến, đối với tâm Phật.

Vô lượng vô y kiến, đối với tam muội Phật. Minh liễu kiến, đối với bản tính Phật.

Phổ thọ kiến, đối với tùy lạc Phật.

Nếu chư Bồ Tát an trụ mười môn kiến Phật này thời thường được thấy Ðức Như Lai vô thượng. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười Phật nghiệp:

Tùy thời tiết để khai đạo, là Phật nghiệp, vì làm cho tu hành Chính pháp. Trong chiêm bao khiến thấy, là Phật nghiệp, vì giác ngộ thiện căn thưở xưa.

Vì người mà diễn thuyết kinh chưa được nghe, là Phật nghiệp, vì làm cho sinh trí dứt nghi.

Vì người ăn năn bị kiết sử triền phược mà nói pháp xuất ly, là Phật nghiệp, vì làm cho lìa tâm nghi.

Nếu có chúng sinh khởi tâm xan lẫn nhẫn đến khởi tâm ác huệ, tâm Nhị thừa, tâm tổn hại, tâm nghi hoặc, tâm tán động, tâm kiêu mạn, Bồ Tát vì họ hiện thân tướng hảo trang nghiêm của Như Lai, là Phật nghiệp, vì sinh trưởng quá khứ hiện căn.

Lúc khó gặp Chính pháp, vì họ mà rộng thuyết pháp, làm cho họ nghe xong được trí Ðà la ni, trí thần thông, khắp có thể lợi ích vô lượng chúng sinh, là Phật nghiệp, vì thắng giải thanh tịnh.

Nếu có ma sự khởi lên, có thể dùng phương tiện hiện tiếng khắp hư không giới thuyết pháp chẳng tổn não người khác, dùng đây để đối trị làm cho họ được khai ngộ. Chúng ma nghe xong, oai quang tắt mất. Ðây là Phật nghiệp, vì chí thích oai đức lớn thù thắng.

Tâm Bồ Tát không xen hở thường tự giữ gìn, chẳng cho chứng nhập chính vị Nhị thừa. Nếu có chúng sinh căn tính chưa thành thục thời trọn chẳng vì họ mà nói cảnh giới giải thoát. Ðây là Phật nghiệp vì bản nguyện mà làm.

Sinh tử kiết lậu tất cả đều lìa, tu hạnh Bồ Tát nối tiếp chẳng dứt, dùng tâm đại bi nhiếp thủ chúng sinh làm cho họ khởi hạnh rốt ráo giải thoát. Ðây là Phật nghiệp, vì chẳng dứt tu hành hạnh Bồ Tát.

Ðại Bồ Tát thấu rõ tự thân cùng với chúng sinh bản lai tịch diệt, chẳng kinh sợ, mà siêng tu phước trí không nhàm dủ. Dẫu biết tất cả Pháp không tạo ác mà cũng chẳng bỏ tự tướng của các pháp. Dầu nơi các cảnh giới lìa hẳn tham dục, mà thường thích chiêm ngưỡng phụng thờ sắc thân của chư Phật. Dầu biết ngộ nhập các pháp chẳng do nơi người, mà dùng nhiều phương tiện cầu nhất thiết trí. Dầu biết các quốc độ đều như hư không mà thường thích trang nghiêm tất cả cõi Phật. Dầu hằng quán sát vô nhân vô ngã, mà giáo hóa chúng sinh không có mỏi nhàm. Dầu nơi pháp giới bản lai bất động, mà dùng thần thông trí lục hiện những biến hoá. Dầu đã thành tựu nhất thiết chủng trí, mà không ngớt tu hạnh Bồ tát. Dầu biết các pháp bất khả ngôn thuyết, mà chuyển tịnh pháp luân làm cho đại chúng hoan hỷ. Dầu có thể thị hiện chư Phật thần lực, mà chẳng nhàm bỏ thân Bồ Tát. Dầu hiện nhập đại Niết Bàn, mà thị hiện thọ sinh Tất cả xứ. Có thể thực hành pháp quyền thiệt song hành như vậy là Phật nghiệp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười Phật nghiệp này, thời được nghiệp quảng đại vô thượng vô sư chẳng do người dạy.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười mạn nghiệp:

Ðối với Sư, Tăng, Cha, Mẹ, Sa Môn, Bà La Môn trụ nơi chính đạo hoặc hướng chính đạo, là những phước điền đáng tôn trọng, mà chẳng cung kính. Ðây là mạn nghiệp.

Hoặc có Pháp Sư được pháp tối thắng ngồi Ðại thừa, biết đạo xuất yếu đắc đà la ni, diễn thuyết pháp quảng đại trong khế kinh không thôi nghỉ. Mà đối với bậc ấy phát khởi tâm cao mạn và đối với pháp của bậc ấy giảng nói chẳng có lòng cung kính. Ðây là mạn nghiệp.

Ở trong chúng hội nghe thuyết diệu pháp chẳng chịu khen là hay cho người khác tin thọ. Ðây là mạn nghiệp.

Ưa sinh lòng quá mạn, tự cao ngạo lấn người, chẳng thấy mình lỗi, chẳng biết mình dở. Ðây là mạn nghiệp.

Ưa sinh lòng quá quá mạn. Thấy có Pháp Sư và người thuyết pháp, biết là pháp, là luật, là chân thiệt, là lời Phật, mà vì ghét người nên cũng ghét pháp, tự mình hủy báng cũng bảo người hủy báng. Ðây là mạn nghiệp.

Tự cầu tòa cao, tự xưng Pháp Sư, ưng thọ người cung cấp, chẳng ưng chấp sự. Thấy bậc kỳ cựu người tu hành lâu, chẳng chịu đứng dậy tiếp rước, chẳng chịu hầu hạ. Ðây là mạn nghiệp.

Thấy người có đức thời nhíu mày chẳng vui, nói lời thô lỗ tìm tòi lỗi lầm của bậc ấy. Ðây là mạn nghiệp.

Thấy có người thông minh biết chính pháp, chẳng chịu gần gũi cung kính cúng dường, chẳng chịu hỏi han gì là thiện, gì là bất thiện, những gì nên làm, những gì chẳng nên làm, làm những công hạnh gì mà được mãi mãi lợi ích an lạc. Là kẻ ngu si ngoan cố chìm trong ngã mạn, trọn không thấy được đạo xuất yếu. Ðây là mạn nghiệp.

Lại có chúng sinh tâm khinh mạn che đậy, chư Phật xuất thế chẳng có thể thân cận cung kính cúng dường, thiện căn mới chẳng sinh, thiện căn cũ tiêu mất, chẳng nên nói lại nói, chẳng nên cãi lại cãi. Ở vị lai tất cả phải đọa hầm sâu hiểm nạn trong trăm ngàn kiếp còn chẳng gặp Phật huống là được nghe pháp. Chỉ do từ trước đã từng phát Bồ đề tâm nên trọn tự tỉnh ngộ. Ðây là mạn nghiệp.

Nếu chư Bồ Tát lìa mười mạn nghiệp này thời được mười trí nghiệp.

Ðây là mười trí nghiệp:

Tin hiểu nghiệp báo chẳng hoại nhân quả. Ðây là trí nghiệp. Chẳng bỏ Bồ đề tâm, thường niệm chư Phật. Ðây là trí nghiệp.

Gần thiện tri thức cung kính cúng dường hết lòng tôn trọng, trọn không chán không lười. Ðây là trí nghiệp.

Thích pháp thích nghĩa không nhàm đủ, xa lìa tà niệm, siêng tu chính niệm. Ðây là trí nghiệp.

Ðối với tất cả chúng sinh, lìa ngã mạn. Ðối với chư Bồ Tát tưởng như Phật. Mến trọng chính pháp chẳng tiếc thân mình. Tôn thờ Như Lai như hộ mạng mình. Với người tu hành tưởng là Phật. Ðây là trí nghiệp.

Ba nghiệp thân, khẩu và ý không có sự bất thiện, ca ngợi bậc Hiền Thánh, tùy thuận Bồ đề. Ðây là trí nghiệp.

Chẳng hoại duyên khởi, lìa những tà kiến phá si ám được sáng suốt chiếu rõ tất cả pháp. Ðây là trí nghiệp.

Mười môn hồi hướng tùy thuận tu hành. Nơi các môn Ba la mật tưởng là từ mẫu. Nơi thiện xảo phương tiện tưởng là từ phụ. Dùng tâm thâm tịnh nhập nhà Bồ đề. Ðây là trí nghiệp.

Thí, giới, đa văn, chỉ, quán, phước và huệ, tất cả pháp trợ đạo như vậy thường siêng chứa nhóm không nhàm mỏi. Ðây là trí nghiệp.

Nếu có một nghiệp được Ðức Phật khen ngợi có thể phá chúng ma trừ phiền não đấu tranh, có thể rời lìa tất cả chướng cái triền phược, có thể giáo hóa điều phục tất cả chúng sinh, có thể tùy thuận trí huệ nhiếp thủ chính pháp, có thể nghiêm tịnh cõi Phật, có thể phát khởi thông minh thời đều chuyên cần tu tập không thối thất lười biếng. Ðây là trí nghiệp.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười trí nghiệp này thời được tất cả thiện xảo phương tiện đại trí nghiệp vô thượng của Ðức Như Lai.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều bị ma nhiếp trì: Tâm lười biếng, bị ma nhiếp trì.

Trí nguyện hèn kém, bị ma nhiếp trì.

Nơi công hạnh chút ít cho là đủ, bị ma nhiếp trì.

Lãnh thọ một hạnh, từ chối những hạnh khác, bị ma nhiếp trì. Chẳng phát đại nguyện, bị ma nhiếp trì.

Thích ở tịch diệt dứt trừ phiền não, bị ma nhiếp trì. Dứt hẳn sinh tử, bị ma nhiếp trì.

Bỏ hạnh Bồ Tát, bị ma nhiếp trì.

Chẳng giáo hóa chúng sinh, bị ma nhiếp trì. Nghi báng chính pháp, bị ma nhiếp trì.

Nếu chư Bồ Tát rời bỏ được mười điều bị ma nhiếp trì này thời được mười điều được chư Phật nhiếp trì. Ðây là mười điều được Phật nhiếp trì:

Ban sơ có thể phát tâm Bồ đề, được Phật nhiếp trì.

Trong nhiều đời gìn giữ tâm Bồ đề không để quên mất, được Phật nhiếp trì. Rõ biết ma sự đều có thể xa lìa, được Phật nhiếp trì.

Nghe các môn Ba la mật, tu hành đúng pháp, được Phật nhiếp trì. Biết khổ sinh tử mà chẳng nhàm ghét, được Phật nhiếp trì.

Quán pháp thậm thâm được vô lượng quả, được Phật nhiếp trì.

Vì chúng sinh diễn thuyết pháp Nhị thừa mà chẳng chứng lấy quả giải thoát của Nhị thừa, được Phật nhiếp trì.

Thích quán pháp vô vi mà chẳng trụ trong đó, đối với hữu vi vô vi không tưởng là hai, được Phật nhiếp trì.

Ðến chỗ vô sinh mà hiện thọ sinh, được Phật nhiếp trì.

Dầu chứng được nhất thiết trí mà khởi hạnh Bồ Tát chẳng dứt giống Bồ đề, được Phật nhiếp trì. Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười điều này thì được sức nhiếp trì vô thượng của chư Phật.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều được pháp nhiếp trì: Biết tất cả hành pháp là vô thường, được pháp nhiếp trì. Biết tất cả hành pháp là khổ, được pháp nhiếp trì.

Biết tất cả hành pháp là vô ngã, được pháp nhiếp trì. Biết tất cả pháp tịch diệt Niết Bàn, được pháp nhiếp trì.

Biết tất cả pháp theo duyên mà phát khởi, không có duyên thời không khởi, được pháp nhiếp trì.

Biết vì do tư duy chẳng chính nên sinh khởi vô minh. Vì do có vô minh khởi nên nhẫn đến có lão tử phát khởi. Vì tư duy chẳng chính diệt nên vô minh diệt. Vì vô minh diệt nên nhẫn đến lão tử diệt. Ðược pháp nhiếp trì.

Biết ba môn giải thoát xuất sinh Thanh Văn thừa, chứng pháp vô tránh xuất sinh Ðộc Giác thừa, được pháp nhiếp trì.

Biết pháp Lục Ba la mật, pháp Tứ nhiếp xuất sinh Ðại thừa, được pháp nhiếp trì.

Biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sinh, tất cả thế là cảnh giới của Phật trí, được pháp nhiếp trì. Biết dứt tất cả niệm, bỏ tất cả thủ, rời tiền tế hậu tế, tùy thuận Niết Bàn, được pháp nhiếp trì.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười điều được pháp nhiếp trì này thời được pháp nhiếp trì vô thượng của tất cả chư Phật.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất thiên cung có mười công việc:

Vì chư Thiên Tử cõi Dục mà nói pháp nhàm lìa. Bảo rằng tất cả tự tại đều là vô thường, tất cả khoái lạc đều sẽ suy mất, khuyên chư Thiên Tử phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ nhất.

Vì chư Thiên cõi Sắc mà nói nhập xuất các thiền tam muội giải thoát. Nếu ở trong đây mà sinh lòng ái trước thời nhân nơi ái lại phát khởi thân kiến, tà kiến, vô minh v. v… Vì họ mà nói trí huệ như thiệt. Nếu họ đối với những pháp sắc, phi sắc phát khởi tưởng điên đảo cho là thanh tịnh, thời vì họ mà nói bất tịnh đều là vô thường. Khuyên họ phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ hai.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung nhập tam muội tên là quang minh trang nghiêm. Thân phóng quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới. Tùy tâm chúng sinh mà dùng các thứ âm thanh để thuyết pháp. Chúng sinh nghe pháp xong, tín tâm thanh tịnh, sau khi chết sinh về cung trời Ðâu Suất. Bồ Tát lại khuyên họ phát tâm Bồ đề. Ðây là công việc thứ ba.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung dùng vô ngại nhãn thấy khắp tất cả Bồ Tát trong cung trời Ðâu Suất ở mười phương. Chư Bồ Tát kia cũng đều thấy đây. Ðã thấy nhau, chư Bồ Tát cùng luận nói diệu pháp: những là giáng thần, nhập thai, sơ sinh, xuất gia, qua đến đạo tràng, đủ đại trang nghiêm. Và lại thị hiện những công hạnh đã làm từ xưa đến nay. Do công hạnh đó mà thành đại trí này và tất cả công đức. Chẳng rời bản xứ mà có thể thị hiện những sự như vậy. Ðây là công việc thứ tư.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung, chúng Bồ Tát ở tất cả cung trời Ðâu Suất mười phương đều vân tập đến vây quanh cung kính. Bấy giờ Ðại Bồ Tát muốn cho chư Bồ Tát đó đều được thỏa mãn tâm nguyện sinh lòng hoan hỷ, nên tùy theo chư Bồ Tát đáng ở bậc nào, tùy theo sở hành, sở đoạn, sở tu, sở chứng mà diễn thuyết pháp môn. Chư Bồ Tát đó nghe pháp xong đều rất hoan hỷ được chưa từng có đều trở về bản độ. Ðây là công việc thứ năm.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung. Bấy giờ chúa cõi Dục, Thiên ma Ba Tuần vì muốn phá hoại công nghiệp của Bồ Tát nên cùng quyến thuộc đến chỗ Bồ Tát. Bồ Tát vì hàng phục ma quân nên trụ Kim Cương đạo nhiếp Bát nhã Ba la mật phương tiện thiện xảo trí huệ môn, dùng hai lời nói nhu nhuyến và thô bạo mà thuyết pháp cho họ, làm cho Ma Vương Ba Tuần không hại được. Ma quân thấy oai lực tự tại của Bồ Tát nên đều phát tâm Bồ đề Vô thượng. Ðây là công việc thứ sáu.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung biết chư Thiên Tử cõi Dục chẳng thích nghe pháp. Bây giờ Bồ Tát phát tiếng to bảo họ rằng: ngày nay Bồ Tát ở trong Thiên cung sẽ hiện sự hy hữu, nếu muốn được thấy thời phải mau đến. Chư Thiên Tử nghe lời này xong đều vân tập đến cung Ðâu Suất. Bồ Tát vì họ mà hiện sự hy hữu. Chư Thiên Tử được thấy nghe đều rất hoan hỷ say sưa. Trong âm nhạc lại có tiếng bảo rằng: “Này các Ngài! Tất cả hành pháp đều vô thường, đều là khổ. Tất cả pháp đều vô ngã, là Niết Bàn tịch diệt”. Rồi lại bảo rằng: “Các Ngài đều phải tu hạnh Bồ Tát, đều phải viên mãn nhất thiết chủng trí”. Chư Thiên Tử nghe xong, lo buồn than thở đều sinh lòng yểm ly, tất cả đều phát tâm Vô thượng Bồ đề. Ðây là công việc thứ bảy.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung, chẳng rời bỏ bản xứ mà đều có thể qua đến mười phương vô lượng tất cả chỗ chư Phật, thấy chư Như Lai thân cận lễ bái cung kính nghe pháp. Bấy giờ chư Phật muốn cho Bồ Tát được pháp tối thượng quán đỉnh nên nói Bồ Tát địa tên là nhất thiết thần thông, dùng một niệm tương ưng huệ đầy đủ tất cả công đức tối thắng nhập vị nhất thiết chủng trí. Ðây là công việc thứ tám.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung vì muốn cúng dường chư Phật Như Lai nên dùng đại thần lực hiện khởi những đồ cúng dường tên là thù thắng khả lạc, khắp tất cả thế giới trong pháp giới hư không giới để cúng dường chư Phật. Trong các thế giới ấy, vô lượng chúng sinh thấy sự cúng dường này đều phát tâm vô thượng Bồ đề. Ðây là công việc thứ chín.

Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung xuất sinh vô lượng vô biên như huyễn như ảnh pháp môn cùng khắp mười phương tất cả thế giới, thị hiện những sắc, những tướng, những hình thể, những oai nghi, những sự nghiệp, những phương tiện, những ví dụ, những ngôn thuyết, tùy tâm chúng sinh đều làm cho họ hoan hỷ. Ðây là công việc thứ mười.

Nếu chư Bồ Tát thành tựu pháp này thời có thể sau này sinh xuống thế gian.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát ở Ðâu Suất Thiên cung lúc sắp giáng sinh hiện ra mười sự:

Ðại Bồ Tát từ trời Ðâu Suất giáng sinh, từ dưới chân phóng đại quang minh tên là an lạc trang nghiêm, chiếu khắp cõi Ðại Thiên thế giới, tất cả ác đạo, những chúng sinh hoạn nạn được quang minh chạm nhầm mình thời đều khỏi khổ được an lạc. Ðược an lạc rồi biết sắp có bậc đại nhân kỳ đặc xuất hiện thế gian. Ðây là sự thị hiện thứ nhất.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc giáng sinh, từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày phóng đại quang minh tên là giác ngộ chiếu khắp Ðại Thiên thế giới, soi đến thân của chư Bồ Tát đồng hành với mình từ đời trước chư Bồ Tát đó được quang minh chiếu đến, biết đại Bồ Tát sắp giáng sinh, liền đem vô lượng đồ cúng dường đến chỗ Ðại Bồ Tát để cúng dường. Ðây là sự thị hiện thứ hai.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh, ở trong bàn tay hữu phóng đại quang minh tên là thanh tịnh cảnh giới đều có thể trang nghiêm thanh tịnh tất cả Ðại Thiên thế giới. Trong đây nếu có hàng Bích Chi Phật chứng được vô lậu, thấy biết quang minh này thời liền xả thọ mạng. Nếu những vị không hay biết thời oai lực của quang minh dời họ đến trong những thế giới phương khác. Tất cả những ma và các ngoại đạo, hàng chúng sinh có kiến chấp đều cũng dời đến thế giới phương khác, chỉ trừ những chúng sinh đáng được hoá độ do thần lực của Phật nhiếp trì. Ðây là sự thị hiện thứ ba.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh từ đầu gối phóng đại quang minh tên là Thanh tịnh trang nghiêm chiếu khắp cung điện của chư Thiên, dưới chiếu đến trời Hộ Thế Tứ Thiên Vương, trên chiếu suốt trời Tịnh Cư. Chư Thiên trong tất cả cõi trời đều biết đại Bồ Tát ở cung Ðâu Suất sắp giáng sinh, tất cả đồng có lòng luyến mộ buồn than lo rầu, cùng nhau đem những tràng hoa, y phục, hương bột, hương thoa, phan lọng, kỹ nhạc đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường, theo Bồ Tát hạ sinh nhẫn đến nhập Niết Bàn. Ðây là sự thị hiện thứ tư.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh, trong tâm trạng Kim Cương trang nghiêm nơi tướng chữ “vạn" phóng đại quang minh tên là Vô năng thắng tràng, chiếu khắp tất cả thế giới mười phương đến thân của tất cả Kim Cương lực sĩ. Bấy giờ có trăm ức Kim Cương lực sĩ đều vân tập theo hầu hạ đại Bồ Tát từ lúc giáng sinh nhẫn đến lúc nhập Niết Bàn. Ðây là sự thị hiện thứ năm.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh, từ tất cả lỗ lông trên thân phóng đại quang minh tên là phân biệt chúng sinh, chiếu khắp Ðại Thiên thế giới, chạm đến thân của tất cả Bồ Tát, lại chạm đến tất cả chư Thiên và người đời. Chư Bồ Tát đó đồng nghĩ rằng tôi phải ở lại đây để cúng dường Ðức Như Lai giáo hóa chúng sinh. Ðây là sự thị hiện thứ sáu.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh từ trong điện đại ma ni bửu tạng phóng đại quang minh tên là Thiện trụ quán sát chiếu đến chỗ của Bồ Tát này sẽ sinh. Quang minh này đã chiếu xong, những Bồ Tát khác đều theo dõi xuống Diêm Phù Ðề, hoặc ở nơi nhà, hoặc ở tụ lạc, hoặc ở thành ấp mà hiện thọ sinh, vì muốn giáo hoá các chúng sinh. Ðây là sự thị hiện thứ bảy.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh từ cung điện cõi trời và trong những đồ trang nghiêm nơi đại lâu các phóng đại quang minh tên là Nhất thiết cung điện thanh tịnh trang nghiêm chiếu đến bụng của mẹ sẽ thác sinh. Quang minh chiếu xong, làm cho Thánh Mẫu an ổn vui vẻ, thành tựu đầy đủ tất cả công đức. Trong bụng Thánh Mẫu tự nhiên có lâu các quảng đại trang nghiêm với đại ma ni bửu, nơi đây là chỗ sẽ ở của thân đại Bồ Tát. Ðây là sự thị hiện thứ tám.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh, từ dưới hai chân phóng đại quang minh tên là Thiện Trụ. Nếu chư Thiên Tử và các Phạm Thiên sắp lâm chung được quang minh chạm đến thân thời đều được trụ thọ mạng cúng dường đại Bồ Tát từ lúc mới hạ sinh nhẫn đến nhập Niết Bàn. Ðây là sự thị hiện thứ chín.

Ðại Bồ Tát ở trời Ðâu Suất lúc sắp giáng sinh từ trong tùy hình hảo phóng đại quang minh tên là Nhật nguyệt trang nghiêm, thị hiện những công nghiệp củ Bồ Tát. Bấy giờ người và trời hoặc thấy Bồ Tát ở cung Ðâu Suất, hoặc thấy nhập thai, hoặc thấy sơ sinh, hoặc thấy xuất gia, hoặc thấy Thành đạo hoặc thấy hàng ma, hoặc thấy chuyển Pháp luân, hoặc thấy nhập Niết Bàn. Ðây là sự thị hiện thứ muời.

Ðại Bồ Tát nơi thân, nơi tòa, nơi cung điện, trong lâu các phóng trăm muôn vô số đại quang minh như vậy đều hiển hiện những sự nghiệp của đại Bồ Tát. Thị hiện sự nghiệp này rồi, vì đầy đủ tất cả công đức nên từ cung trời Ðâu Suất sinh xuống nhân gian.

(1) Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ có mười sự:

Ðại Bồ Tát vì muốn thành tựu những chúng sinh tâm nhỏ hiểu kém, chẳng muốn cho họ nghĩ rằng: Nay đức Bồ Tát này tự nhiên hóa sinh trí huệ thiện căn đều tự được chẳng từ công phu tu tập. Vì cớ đây nên Bồ Tát thị hiện ở thai mẹ. Ðây là sự thứ nhất.

Ðại Bồ Tát vì thành thục phụ mẫu và các quyến thuộc, những chúng sinh đồng tu thiện căn từ đời trước nên thị hiện ở thai mẹ. Tại sao vậy? Vì những người này cần phải thấy Bồ Tát ở thai mẹ mới thành thục những thiện căn mà họ đã có. Ðây là sự thứ hai.

Ðại Bồ Tát lúc vào thai mẹ, luôn chính niệm chính tri không mê lầm. Ðã ở thai mẹ, tâm Bồ Tát hằng chính niệm cũng không lầm loạn. Ðây là sự thứ ba.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ thường diễn thuyết pháp. Chư đại Bồ Tát ở thập phương thế giới cùng Ðế Thích, Phạm Thiên, Hộ Thế Tứ Thiên Vương đều đến tập hội, đều làm cho được vô lượng thần lực, vô biên trí huệ. Lúc ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thành tựu biện tài công dụng thù thắng như vậy. Ðây là sự thứ tư.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ nhóm họp đại hội, dùng sức bản nguyện giáo hoá tất cả chúng Bồ Tát. Ðây là sự thứ năm.

Ðại Bồ Tát thành Phật ở trong loài người thời phải đủ sự thọ sinh tối thắng. Do cớ này nên thị hiện ở thai mẹ. Ðây là sự thứ sáu.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ, chúng sinh trong Ðại Thiên thế giới đều thấy Bồ Tát như thấy bóng mình hiện rõ trong gương. Bấy giờ chư Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân, Phi nhân v.v…những hàng có đại tâm, đều đến chỗ Bồ Tát để cung kính cúng dường. Ðây là sự thứ bảy.

Ðại Bồ Tát ở trong thai mẹ, tất cả tối hậu sinh Bồ Tát ở thai mẹ trong mười phương đều đến cùng hội họp diễn thuyết pháp môn đại tập tên là quảng đại trí huệ tạng. Ðây là sự thứ tám.

Ðại Bồ Tát ở trong lúc thai me nhập ly cấu tạng tam muội. Dùng sức tam muội ở trong thai mẹ hiện cung điện lớn trang nghiêm tốt đẹp. Thiên cung Ðâu Suất không sánh kịp. Nhưng thân mẹ vẫn an ổn vô sự. Ðây là sự thứ chín.

Ðại Bồ Tát lúc ở thai mẹ dùng oai lực sắm đồ cúng dường tên là khai đại phước đức ly cấu tạng khắp đến tất cả thế giới mười phương để cúng dường tất cả chư Phật Như Lai. Chư Như Lai đó đều vì đại Bồ Tát mà diễn nói vô biên Bồ Tát ở pháp giới tạng. Ðây là sự thứ mười.

Nếu chư Bồ Tát rõ thấu mười sự thị hiện ở thai mẹ này, thời có thể thị hiện sự qua đến thậm thâm vi tế. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười sự qua đến thậm thâm vi tế:

Ở trong thai mẹ, đại Bồ Tát thị hiện sơ phát tâm Bồ đề nhẫn đến bậc quán đỉnh. Ở trong thai mẹ thị hiện ở Ðâu Suất Thiên cung.

Ở trong thai mẹ thị hiện sơ sinh.

Ở trong thai mẹ thị hiện đồng tử.

Ở trong thai mẹ thị hiện ở vương cung.

Ở trong thai mẹ thị hiện xuất gia.

Ở trong thai mẹ thị hiện khổ hạnh đến ngồi đạo tràng thành bậc Ðẳng Chính giác.

Ở trong thai mẹ thị hiện Chuyển pháp luân.

Ở trong thai mẹ thị hiện nhập Niết Bàn.

Ở trong thai mẹ thị hiện đại vi tế: những là tất cả Bồ Tát hạnh, tất cả Như Lai tự tại thần lực vô lượng môn sai biệt.

Nếu chư Bồ Tát an trụ trong mười môn qua đến thậm thâm vi tế này thời được đại trí huệ thâm thâm vi tế vô thượng của Ðức Như Lai.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều sinh: Xa lìa ngu si, chính niệm chính tri mà sinh.

Phóng lưới đại quang minh chiếu khắp Ðại Thiên thế giới mà sinh. Trụ tối hậu hữu chẳng còn thọ thân sau mà sinh.

Bất sinh bất khởi mà sinh.

Biết tam giới như huyễn mà sinh.

Khắp hiện thân nơi thập phương thế giới mà sinh. Chứng thân nhất thiết chủng trí mà sinh.

Phóng tất cả Phật quang minh khắp giác ngộ tất cả chúng sinh mà sinh. Nhập đại trí quán sát tam muội mà sinh.

Bồ Tát lúc sinh, chấn động tất cả cõi Phật, giải thoát tất cả chúng sinh, trừ diệt tất cả ác đạo che chói tất cả các ma, vô lượng Bồ Tát đều đến nhóm họp.

Ðây là mười điều sinh của đại Bồ Tát, vì điều phục chúng sinh mà thị hiện như vậy. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện vi tiếu tâm tự thệ:

Ðại Bồ Tát nghĩ rằng: Tất cả thế gian chìm tại vũng bùn ái dục, trừ một tôi ra không ai có thể cố gắng cứu tế được. Nghĩ biết như vậy rồi, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Lại nghĩ rằng: Tất cả thế gian bị phiền não làm mù, duy có tôi nay là người đầy đủ trí huệ. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Lại nghĩ rằng: Nay tôi do thân giả danh này sẽ được pháp thân vô thượng sinh mãn tam thế của Ðức Như Lai. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bấy giờ Bồ Tát dùng mắt vô chướng ngại quan sát tất cả Phạm Thiên nhẫn đến tất cả Ðại Tự Tại Thiên trong mười phương mà tự nghĩ rằng: những chúng sinh này đều tự cho rằng mình có đại trí lực. Bồ Tát nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bấy giờ Bồ Tát quán sát các chúng sinh từ lâu gieo trồng căn lành, nay đều thối mất. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy thế gian chủng tử gieo trồng dầu ít mà được quả rất nhiều. Nghĩ biết như vậy vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy tất cả chúng sinh được Phật giáo hoá quyết định được lợi ích. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy trong đời quá khứ chư Bồ Tát đồng hành nhiễm trước việc khác nên chẳng được công đức quảng đại của Phật pháp. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bồ Tát quán sát thấy trong đời quá khứ, hàng nhân thiên cùng mình tập hội nay còn ở bậc phàm phu, không xả ly được, cũng chẳng nhàm mỏi. Nghĩ biết như vậy, Bồ Tát vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Bấy giờ Bồ Tát được quang minh của tất cả Như Lai chiếu đến càng thêm hân hoan, vui vẻ vi tiếu tâm tự thệ.

Ðại Bồ Tát vì điều phục chúng sinh nên thị hiện như vậy. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sự mà thị hiện đi bảy bước: Vì hiện Bồ Tát lực mà thị hiện đi bảy bước.

Vì hiện xả thí bảy Thánh tài mà thị hiện đi bảy bước. Vì cho địa thần thỏa nguyện nên thị hiện đi bảy bước. Vì hiện tướng siêu tam giới nên thị hiện đi bảy bước.

Vì hiện bước đi tối thắng của Bồ Tát hơn hẳn bước đi của tượng vương, ngưu vương, sư tử vương mà thị hiện đi bảy bước.

Vì hiện tướng Kim Cương địa mà thị hiện đi bảy bước.

Vì hiện muốn ban cho chúng sinh sức dũng mãnh mà thị hiện đi bảy bước. Vì hiện tu hành thất giác bửu mà thị hiện đi bảy bước.

Vì hiện pháp đã được chẳng do người khác dạy nên thị hiện đi bảy bước. Vì hiện là tối thắng vô tỷ ở thế gian nên thị hiện đi bảy bước.

Ðại Bồ Tát vì điều phục chúng sinh nên thị hiện đi bảy bước như vậy. Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát do mười sự mà hiện ở thân đồng tử:

Vì hiện thông đạt tất cả văn tự, toán số, đồ thơ, ấn tỷ, những nghề nghiệp thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì hiện thông đạt tất cả những nghề nghiệp vũ thuật binh trận thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử. Vì hiện thông đạt tất cả những văn bút, đàm luận, cờ nhạc thế gian, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì hiện xa lìa những lỗi lầm của ba nghiệp thân ngữ ý, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì hiện môn nhập định trụ Niết Bàn khắp cùng mười phương vô lượng thế giới, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì hiện sức mạnh siêu quá tất cả Thiên, Long, Bát Boa, Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, Nhân, Phi Nhân v.v… mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì hiện sắc tướng oai quang của Bồ Tát siêu quá tất cả Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì làm cho những chúng sinh tham đắm nơi dục lạc mến thích pháp lạ, mà thị hiện ở thân đồng tử.

Vì tôn trọng chính pháp siêng cúng dường Phật cùng khắp tất cả thế giới mười phương, mà hiện ở thân đồng tử.

Vì hiện được Ðức Phật gia bị, được pháp quang minh mà thị hiện ở thân đồng tử.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát thị hiện ở thân đồng tử rồi, do mười sự mà thị hiện ở Vương cung:

Vì làm cho những chúng sinh đồng tu hành từ đời trước được thiện căn thành thục mà thị hiện ở Vương cung. Vì hiển thị sức thiện căn của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.

Vì những người, trời tham đắm nơi đồ vui thích, nên hiển hiện đồ vui thích đại oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện ở Vương cung.

Vì thuận tâm chúng sinh đời ngũ trược mà thị hiện ở Vương cung.

Vì hiện sức đại oai đức của Bồ Tát có thể ở thâm cung nhập tam muội, mà thị hiện ở Vương cung. Vì làm cho chúng sinh đồng nguyện ở đời trước thỏa mãn ý niệm, mà thị hiện ở Vương cung.

Vì muốn dùng kỹ nhạc phát ra tiếng diệu pháp cúng dường tất cả chư Phật Như Lai, mà thị hiện ở Vương cung.

Vì muốn ở tại trong cung trụ tam muội vi diệu, ban đầu từ thành Phật nhẫn đến Niết Bàn đều hiển bày mà thị hiện ở Vương cung.

Vì tùy thuận thủ hộ Phật pháp mà thị hiện ở Vương Cung.

Tối hậu thân Bồ Tát thị hiện ở Vương Cung như vậy rồi, sau đó mới xuất gia. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát do mười sự mà thị hiện xuất gia:

Vì nhàm ở tại gia, mà thị hiện xuất gia.

Vì chúng sinh tham đắm tại gia, mà thị hiện xuất gia.

Vì tùy thuận tin mến đạo Thánh nhân, mà thị hiện xuất gia.

Vì tuyên dương tán thán công đức xuất gia, mà thị hiện xuất gia. Vì hiển bày lìa hẳn kiến chấp nhị biên, mà thị hiện xuất gia.

Vì làm cho chúng sinh lìa dục lạc và ngã lạc, mà thị hiện xuất gia. Vì trước hiện tướng xuất tam giới, mà thị hiện xuất gia.

Vì hiện tự tại chẳng hệ thuộc người khác, mà thị hiện xuất gia.

Vì hiển bày sẽ được Thập lực vô úy của Ðức Như Lai, mà thị hiện xuất gia. Vì tối hậu thân Bồ Tát pháp phải như vậy, mà thị hiện xuất gia.

Ðại Bồ Tát dùng pháp xuất gia này mà điều phục chúng sinh. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát vì mười sự mà thị hiện khổ hạnh:

Vì thành tựu những chúng sinh có trình độ hiểu biết kém ít, mà thị hiện khổ hạnh. Vì trừ tà kiến của chúng sinh, mà thị hiện khổ hạnh.

Vì những chúng sinh chẳng tin nghiệp báo làm cho họ thấy nghiệp báo, mà thị hiện khổ hạnh. Vì tùy thuận pháp phải có của thế giới tạp nhiễm, mà thị hiện khổ hạnh.

Vì hiện có thể nhẫn chịu khổ nhọc để siêng tu đạo pháp; mà thị hiện khổ hạnh. Vì làm cho chúng sinh thích cầu pháp, mà thị hiện khổ hạnh.

Vì những chúng sinh say đắm dục lạc ngã lạc, mà thị hiện khổ hạnh.

Vì hiển bày Bồ Tát khởi hạnh thù thắng, nhẫn đến đời tối hậu còn chẳng bỏ siêng năng tinh tấn mà thị hiện khổ hạnh.

Vì làm cho chúng sinh thích pháp tịch tịnh tăng trưởng thiện căn, mà thị hiện khổ hạnh.

Vì chư Thiên và thế nhân căn tính chưa thành thục chờ thời gian để được thành thục, mà thị hiện khổ hạnh.

Ðại Bồ Tát dùng phương tiện khổ hạnh này để điều phục chúng sinh. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát đi đến Bồ đề đạo tràng có mười sự:

Lúc đến đạo tràng, chiếu sáng tất cả thế giới mười phương.  Lúc đến đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương. Lúc đến đạo tràng, hiện thân khắp tất cả thế giới mười phương.

Lúc đến đạo tràng, giác ngộ tất cả Bồ Tát và tất cả chúng sinh đồng hành ở đời trước. Lúc đến đạo tràng, thị hiện tất cả sự trang nghiêm nơi đạo tràng.

Lúc đến đạo tràng, tùy tâm sở thích của các chúng sinh mà vì họ hiện những oai nghi nơi thân và tất cả sự trang nghiêm nơi cây Bồ đề.

Lúc đến đạo tràng, thị hiện thấy tất cả Như Lai mười phương.

Lúc đến đạo tràng, cất chân hạ chân thường nhập tam muội, niệm niệm thành Phật không có vượt cách. Lúc đến đạo tràng, tất cả Thiên, Long, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu

La Già, Ðế Thích, Phạm Vương, Hộ Thế Tứ Thiên Vương, đều sắm dưng những đồ cúng dường thượng diệu lên đại Bồ Tát mà chẳng biết nhau.

Lúc đến đạo tràng, dùng trí vô ngại quán sát khắp tất cả chư Phật Như Lai, nơi tất cả thế giới tu hạnh Bồ Tát mà thành Ðẳng Chính Giác.

Ðại Bồ Tát dùng mười sự đến đạo tràng này để giáo hóa chúng sinh. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát ngồi đạo tràng có mười sự:

Lúc ngồi đạo tràng, chấn động tất cả thế giới mười phương.

Lúc ngồi đạo tràng, bình đẳng chiếu sáng tất cả thế giới mười phương. Lúc ngồi đạo tràng, trừ diệt tất cả khổ các ác đạo.

Lúc ngồi đạo tràng, làm cho tất cả thế giới Kim Cương hiệp thành.  Lúc ngồi đạo tràng, hiện khắp tất cả tòa sư tử của chư Phật Như Lai. Lúc ngồi đạo tràng, tâm vô phân biệt như hư không.

Lúc ngồi đạo tràng, tùy theo sở nghi mà hiện oai nghi nơi thân. Lúc ngồi đạo tràng, tùy thuận an trụ Kim Cương tam muội.

Lúc ngồi đạo tràng, thọ diệu xứ thanh tịnh của tất cả Như Lai thần lực gia trì. Lúc ngồi đạo tràng, sức thiện căn của mình có thể gia bị tất cả chúng sinh. Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát có mười sự kỳ đặc vị tằng hữu.

Những gì là mười?

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả Ðức Như Lai trong mười phương thế giới đều hiện ra trước đồng giơ tay khen ngợi rằng: Lành thay! Lành thay! Ðấng vô thượng Ðạo Sư. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ nhất.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, tất cả Ðức Như Lai thảy đều hộ niệm ban cho oai lực. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ hai.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, chúng Bồ Tát đồng hành đời trước đều đến vây quanh cung kính cúng dường những vật trang nghiêm. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ ba.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, những loài vô tình như cỏ cây rừng lùm trong tất cả thế giới đều cong thân thấp bóng nghiêng hướng về phía đạo tràng. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tư.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên quán sát pháp giới. Sức tam muội này có thể làm cho Bồ Tát tất cả công hạnh đều được viên mãn. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ năm.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được đà la ni tên là tối thượng ly cấu diệu quang hải tạng, có thể lãnh thọ đại vân pháp vũ của tất cả chư Phật Như Lai. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ sáu.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, dùng sức oai đức hiện đồ cúng thượng diệu đến khắp tất cả thế giới cúng dường chư Phật. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ bảy.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, an trụ trí tối thắng, đều hiện biết rõ những căn ý hành của tất cả chúng sinh. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ tám.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, nhập tam muội tên là Thiện giác. Sức tam muội này có thể làm cho thân Bồ Tát đầy khắp tất cả thế giới trong thập phương tam thế. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ chín.

Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng, được ly cấu quang minh vô ngại đại trí làm cho thân nghiệp của mình vào khắp tam thế. Ðây là sự kỳ đặc vị tằng hữu thứ mười.

Chư Phật tử ! Ðại Bồ Tát lúc ngồi đạo tràng vì quán sát mười nghĩa mà thị hiện hàng ma:

Vì chúng sinh đời ngũ trược thích chiến đấu, muốn hiển bày sức oai đức của Bồ Tát, mà thị hiện hàng ma.

Vì trong hàng chư Thiên thế nhân có những kẻ hoài nghi, muốn dứt trừ lòng nghi ngờ cho họ, mà thị hiện hàng ma.

Vì giáo hóa điều phục các ma quân, mà thị hiện hàng ma.

Vì muốn cho hàng chư Thiên, thế nhân, những kẻ thích quân trận đều nhóm đến xem, để tâm họ được điều phục, nên thị hiện hàng ma.

Vì hiển bày oai lực của Bồ Tát trong đời không ai địch nổi, nên thị hiện hàng ma. Vì muốn phát khởi sức dũng mãnh của tất cả chúng sinh, nên thị hiện hàng ma. Vì thương xót chúng sinh đời mạt thế, nên thị hiện hàng ma.

Vì muốn hiển bày nhẫn đến chốn đạo tràng mà còn quân ma tới quấy nhiễu, từ đây về sau mới siêu cảnh giới ma, nên thị hiện hàng ma.

Vì hiển bày nghiệp dụng của phiền não kém yếu, đại từ thiện căn thế lực mạnh mẽ, nên thị hiện hàng ma.

Vì muốn tùy thuận pháp hành của thế giới trược ác, nên thị hiện hàng ma.

Chư Phật tử! Ðại Bồ Tát có mười điều thành Như Lai lực:

Vì siêu quá tất cả những ma phiền não nghiệp, nên thành Như Lai lực.

Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát hạnh, vì du hý tất cả Bồ Tát tam muội môn, nên thành Như Lai lực. Vì đầy đủ tất cả Bồ Tát quảng đại thiền định, nên thành Như Lai lực.

Vì viên mãn tất cả pháp trợ đạo bạch tịnh, nên thành Như Lai lực.

Vì được tất cả pháp trí huệ quang minh khéo tư duy phân biệt, nên thành Như Lai lực. Vì thân cùng khắp tất cả thế giới, nên thành Như Lai lực.

Vì ngôn âm phát ra đều đồng với tâm của tất cả chúng sinh, nên thành Như Lai lực. Vì có thể dùng thần lực gia trì tất cả, nên thành Như Lai lực.

Vì ba nghiệp thân, ngữ, ý đồng với tất cả tam thế chư Phật, trong một niệm biết rõ những pháp trong tam thế, nên thành Như Lai lực.

Vì được thiện giác trí tam muội đủ Như Lai thập lực: những là thị xứ, phi xứ, trí lực nhẫn đến lậu tận trí lực, nên thành Như Lai lực.

Nếu chư Bồ Tát đủ mười Như Lai lực này thời gọi là Như Lai Chính Ðẳng Giác. Chư Phật tử! Ðức Như Lai Chính Ðẳng Giác chuyển đại pháp luân có mười sự: Một là thanh tịnh đầy đủ bốn trí vô úy.

Hai là xuất sinh bốn biện tài tùy thuận âm thanh. Ba là khéo có thể khai xiển tướng của bốn chân đế. Bốn là tùy thuận chư Phật vô ngại giải thoát.

Năm là có thể làm cho chúng sinh phát tâm tin thanh tịnh.

Sáu là những lời nói ra đều không luống công, đều có thể nhổ trừ tên độc đau khổ cho tất cả chúng sinh. Bảy là đại bi nguyện lực gia trì.

Tám là khi phát âm thanh đều khắp cùng tất cả thế giới mười phương. Chín là trong số kiếp chẳng ngớt thuyết pháp.

Mười là tùy thuyết pháp nào cũng đều có thể phát khởi những pháp căn, lực, giác. đạo, thiền định giải thoát tam muội.

Chư Phật Như Lai lúc chuyển đại pháp luân có vô lượng sự như vậy.

Chư Phật tử! Ðức Như Lai Chính Ðẳng Giác lúc chuyển đại pháp luân, do mười sự nên ở trong tâm chúng sinh gieo pháp bạch tịnh không hề luống công:

Vì quá khứ nguyện lực. Vì đại bi nhiếp trì.

Vì chẳng bỏ chúng sinh.

Vì trí huệ tự tại tùy sở thích của họ mà thuyết pháp cho họ. Vì tất đúng thời tiết chưa từng lỗi thời.

Vì tùy theo sở thích sở nghi không vọng thuyết. Vì trí biết tam thế khéo biết rõ tất cả.

Vì thân Phật tối thắng không ai sánh kịp.

Vì ngôn từ tự tại không ai có thể lường được.

Vì trí tuệ tự tại tùy chỗ phát ngôn thảy đều được khai ngô.

Chư Phật tử! Ðức Như Lai Ðẳng Chính giác đã thực hành Phật sự xong, vì quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết Bàn:

Vì chỉ bày tất cả hành pháp thiệt là vô thường.

Vì chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng phải là pháp an ổn.

Vì chỉ bày đại Niết Bàn là chỗ an ổn không tất cả sự bố uý.

Vì hàng Thiên, Nhân tham đắm sắc thân, nên vì họ mà thị hiện sắc thân là pháp vô thường, khiến họ phát nguyện trụ pháp thân thanh tịnh.

Vì chỉ bày sức vô thường chẳng thể chuyển được.

Vì chỉ bày tất cả pháp hữu vi chẳng tự tại chẳng trụ theo tâm. Vì chỉ bày tất cả ba cõi đều như huyễn hóa chẳng bền chắc. Vì chỉ bày tính Niết Bàn rốt ráo bền chắc chẳng thể hư hoại.

Vì chỉ bày tất cả pháp vô sinh vô khởi mà có tướng tụ họp và tán hoại.

Chư Phật tử! Như Lai Thế Tôn thực hành Phật sự rồi, bản nguyện đã mãn, chuyển pháp luân đã xong người đáng được hoá độ đều đã hóa độ xong, có chư Bồ Tát đáng thọ tôn hiệu sự thọ ký đã thành, theo pháp phải như vậy nhập nơi bất biến đại Niết Bàn.

Ðây là Ðức Như Lai Ðẳng Chính giác vì quán sát mười nghĩa nên thị hiện nhập Niết Bàn.

Chư Phật tử! Pháp môn này gọi là hạnh quảng đại thanh tịnh của Bồ Tát. Vô lượng chư Phật đồng tuyên thuyết như vậy. Có thể làm cho người trí tỏ thấu vô lượng nghĩa, đều rất hoan hỷ. Làm cho tất cả Bồ Tát đại nguyện đại hạnh đều được tiếp nối.

Chư Phật tử! Nếu có chúng sinh được nghe pháp này, nghe xong tin hiểu, hiểu rồi tu hành. Người này quyết định mau được quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

Tại sao vậy? Vì người này đúng như lời mà tu hành.

Chư Phật tử! Nếu Bồ Tát chẳng thực hành đúng như lời, phải biết người này lìa hẳn Phật Bồ đề. Do cớ đây nên Bồ Tát phải thực hành đúng như lời.

Chư Phật tử! Chỗ sở hành công đức nghĩa hoa quyết định của tất cả Bồ Tát đây vào khắp tất cả pháp, sinh khắp tất cả trí, siêu thế gian, lìa Nhị thừa, chẳng đồng chung với tất cả chúng sinh, đều có thể soi rõ tất cả pháp môn, thêm lớn thiện căn xuất thế của chúng sinh, là pháp môn phẩm lìa thế gian, phải tôn trọng, phải tin thọ, phải phụng trì, phải tư duy, phải mong mến, phải tu hành. Nếu được như vậy, nên biết người này mau được quả Vô thượng Chính đẳng Chính giác.

Lúc Phổ Hiền Bồ Tát nói phẩm này, vì Phật thần lực, va vì pháp tất nhiên của pháp môn này nên vô lượng vô biên vô số thế giới đều đại chấn động đại quang chiếu khắp mười phương.

Bấy giờ thập phương chư Phật đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ Tát mà đồng thanh khen rằng:

Lành thay! Lành thay! Phật tử bèn có thể diễn thuyết pháp môn phẩm xuất thế gian vào khắp tất cả Phật pháp, nghĩa hoa quyết định, hành xứ công đức của tất cả đại Bồ Tát này.

Phật tử đã khéo học pháp này, khéo nói pháp này. Phật tử dùng oai lực hộ trì pháp này.

Chư Phật chúng ta thảy đều tùy hỷ.

Như chư Phật chúng ta tùy hỷ cho Phật tử, tất cả chư Phật cũng đều tùy hỷ như vậy.

Phật tử! Chư Phật chúng ta đều cùng đồng tâm hộ trì kinh này, làm cho hiện tại vị lai các chúng Bồ Tát, những người chưa từng nghe đều sẽ được nghe.

Bấy giờ Phổ Hiền đại Bồ Tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả đại chúng mười phương, khắp đến pháp giới, rồi nói kệ rằng:

Trong vô lượng kiếp tu khổ hạnh  

Từ vô lượng Phật chính pháp sinh. 

Khiến vô lượng chúng trụ Bồ đề 

Hạnh vô đẳng kia nghe tôi nói. 

Cúng vô lượng Phật mà xả chấp

Rộng độ quần sinh chẳng nghĩ tưởng 

Cầu Phật công đức tâm vô y

Hạnh thắng diệu kia nay tôi nói. 

Lìa ma ba cõi nghiệp phiền não

Ðủ thánh công đức hạnh tối thắng 

Diệt những mê lầm lòng tịch tịnh 

Nay tôi nói đạo của kia làm.

Lìa hẳn thế gian những huyễn đối 

Những thứ biến hoá dạy chúng sinh

Tâm sinh trụ diệt các sự

Nói sở năng kia cho chúng mừng. 

Thấy các chúng sinh: sinh, già, chết

Phiền não lo khổ luôn bức ngặt 

Muốn họ giải thoát dạy phát tâm 

Hạnh công đức kia phải thính thọ.

Thí giới, nhẫn, tấn, thiền, trí huệ. 

Phương tiện, từ, bi, hỷ, xả thảy

Trăm ngàn muôn kiếp thường tu hành

Các Ngài nên nghe công đức đó. 

Ngàn muôn ức kiếp cầu Bồ đề

Bao nhiêu thân mạng đều không tiếc 

Nguyện lợi quần sinh chẳng vì mình 

Hạnh từ mẫn kia nay tôi nói.

Vô lượng ức kiếp nói công đức 

Như biển một giọt còn chưa ít 

Công đức vô tỉ chẳng thể dụ

Do Phật oai thần nay lược nói. 

Tâm kia chẳng cao hạ

Cầu đạo không nhàm mỏi

Khiến khắp các chúng sinh

Ở lành thêm pháp sạch. 

Trí huệ lợi ích khắp

Như cây, như sông suối

Cũng như nơi đại địa 

Chỗ sở y tất cả.

Bồ Tát như liên hoa

Gốc lành, cọng an ổn, 

Trí huệ là hương nhũ

Giới phẩm là sạch thơm.

Phật phóng pháp quang minh 

Cho hoa được xòe nở

Chẳng dính nước hữu vi

Ai thấy cũng hoan hỷ. 

Bồ Tát cây diệu pháp 

Sinh trên đất trực tâm 

Giống: tin, gốc: từ bi 

Trí huệ dùng làm thân,

Phương tiện làm cành nhánh 

Ngũ độ làm tàn rậm

Lá định, bông thần thông

Nhất Thiết trí làm trái, 

Cây to: tối thượng lực 

Che mát trùm tam giới. 

Bồ Tát: sư tử vương 

Pháp bạch tịnh làm thân 

Tứ đế dùng làm thân 

Chính niệm dùng làm cổ 

Mắt: từ đầu : trí huệ. 

Ðảnh vấn lụa giải thoát

Trong hang: thắng nghĩa không 

Rống: pháp, bố chúng ma.

Bồ Tát là thượng chủ

Thấy khắp các quần sinh 

Ở đồng hoang sinh tử

Xứ hiểm ác phiền não 

Bị giặc ma bắt cầm

Mê mù mất chính đạo, 

Chỉ cho đường chính trực 

Khiến vào vô úy thành.

Bồ Tát thấy chúng sinh 

Bịnh phiền não ba độc 

Chịu các thứ khổ não.

Lâu dài bị đốt nấu, 

Vì họ, phát đại bi 

Rộng nói môn đối trị

Có tám mươi bốn ngàn 

Diệt trừ những khổ hoạn.

Bồ Tát làm Pháp Vương

Chính đạo dạy chúng sinh 

Bảo xa ác, tu thiện

Chuyên cầu Phật công đức, 

Ở chỗ chư Như Lai

Quán đỉnh thọ Phật ký

Rộng ban những Thánh tài 

Bồ đề phần: trân bửu

Bồ Tát chuyển pháp luân

Như chư Phật đã chuyển

 Giới: trục, định: gọng xe

Trí: trang nghiêm, gươm: huệ 

Ðã phá giặc phiền não

Cũng dẹp những ma oán,

Tất cả các ngoại đạo. 

Vừa thấy liền ta rã. 

Bồ Tát biển trí huệ

Sâu rộng không ngằn mé 

Vị chính pháp đầy tràn

Báu giác phần sung mãn, 

Ðại tâm không bờ mé 

Nhất Thiết trí: nước triều

Chúng sinh chẳng thể lường 

Nói đó không hết được.

Bồ Tát núi Tu Di

Vượt hơn cả thế gian  

Ðảnh thần thông tam muội 

Ðại tâm an bất động.

Nếu có ai gần gũi 

Ðồng một màu trí huệ

Hơn hẳn các cảnh giới 

Tất cả đều xem thấy. 

Bồ Tát như Kim Cương

Chí cầu Nhất Thiết trí 

Tín tâm cùng khổ hạnh

Kiên cố chẳng động được.

Tâm Ngài không e sợ 

Lợi ích mọi quần sinh 

Chúng ma và phiền não

Tất cả đều trừ diệt. 

Bồ Tát đại từ bi

Ví như mây đầy kín

Tam minh phát điển quang

 Thần túc chấn lôi âm,

Khắp dùng tứ biện tài 

Mưa nước bát công đức

Ướt nhuần tất cả chỗ 

Khiến hết nóng phiền não. 

Bồ Tát: thành chính pháp

Bát nhã dùng làm vách 

Tàm qúy làm hào sâu 

Trí huệ làm khí giới

Mở rộng cửa giải thoát 

Chính niệm hằng phòng thủ 

Tứ đế: đường bằng thẳng

Lục thông: nhóm quân đội, 

Lại dựng tràng đại pháp

Bao quanh khắp dưới thành 

Những ma quân ba cõi

Tất cả không vào được.

Bồ Tát: Kim Diểu Vương 

Như ý làm chân cứng

Phương tiện: cánh mạnh khỏe

Từ bi: cặp mắt sáng 

Ðâu cây: Nhất Thiết trí 

Xem biển cả: tam giới

Chụp bắt rồng: nhân, thiên 

Ðể trên bờ tịch diệt.

Bồ Tát: chính pháp nhật 

Xuất hiện ở thế gian

Giới phẩm: vầng nhật tròn

Thần túc: xoay đi mau 

Chiếu sáng: trí huệ quang 

Lớn cây thuốc: căn, lực 

Diệt trừ tối phiền não 

Tiêu cạn biển ái dục.

Bồ Tát: trí quang nguyệt 

Pháp giới làm vầng trăng 

Ði nơi tất cánh không 

Thế gian đều xem thấy. 

Trong tam giới thức tâm 

Tùy thời có tăng giảm 

Trong tinh tú Nhị thừa 

Tất cả không sánh kịp.  

Bồ Tát: Ðại pháp vương

Công đức trang nghiêm thân 

Tướng hảo đều đầy đủ

Người, Trời đều chiêm ngưỡng 

Phương tiện: mắt thanh tịnh 

Trí huệ: chày Kim Cương

Nơi pháp được tự tại 

Ðem đạo dạy quần sinh. 

Bồ Tát: Ðại Phạm Vương

Tự tại siêu ba cõi

Nghiệp hoặc thảy đều dứt 

Từ, xả đều đủ cả,

Xư xứ thị hiện thân 

Khai ngộ dùng pháp âm 

Ở trong ba cõi kia

Nhổ những gốc tà kiến. 

Bồ Tát: Tự Tại Thiên

Siêu quá cõi sinh tử

Cảnh giới thường thanh tịnh 

Trí huệ không thối chuyển,

Tuyệt những đạo hạ thừa

Thọ những pháp quản đỉnh 

Ðủ công đức trí huệ

Tiếng tăm ai cũng nghe.

Bồ Tát: trí huệ tâm

Thanh tịnh như hư không

Không tính, không sở y

Tất cả bất khả đắc, 

Có sức đại tự tại

Hay nên việc thế gian

Tự đủ hạnh thanh tịnh 

Khiến chúng sinh cũng vậy. 

Bồ Tát: đất phương tiện

Lợi ích các quần sinh, 

Bồ Tát: nước từ bi

Rửa sạch những phiền não

Bồ Tát: lửa trí huệ

Ðốt những củi hoặc tập. 

Bồ Tát: gió không dừng

Du hành ba cõi trống. 

Bồ Tát: những trân bửu

Hay giúp nạn nghèo cùng. 

Bồ Tát: như Kim Cương  

Hay dẹp điên đảo kiến.

Bồ Tát: như anh lạc  

Trang nghiêm thân ba cõi. 

Bồ Tát: như ma ni

Tăng trưởng tất cả hạnh

Bồ Tát: đức như hoa

Thường phát Bồ đề phần. 

Bồ Tát: nguyện như tràng. 

Hằng trùm đầu chúng sinh.

Bồ Tát: tịnh giới hương 

Bền giữ không hủy phạm. 

Bồ Tát: trí hương thoa

Huân khắp cả ba cõi.  

Bồ Tát: lực như trướng 

Hay ngăn bụi phiền não.

Bồ Tát: trí như tràng 

Hay dẹp giặc ngã mạn.

Diệu hạnh làm gấm thêu 

Trang nghiêm nơi trí huệ. 

Tàm quý là y phục

Trùm khắp các quần sinh.

Bồ Tát: xe vô ngại

Ngồi đó ra ba cõi.

Bồ Tát: tượng đại lực 

Tâm tính khéo điều phục. 

Bồ Tát: ngựa thần túc

Bay chạy vượt các cõi. 

Bồ Tát: rồng thuyết pháp

Mưa khắp tâm chúng sinh. 

Bồ Tát: hoa ưu đàm

Thế gian khó gặp gỡ

Bồ Tát: tướng khỏe mạnh 

Chúng ma đều hàng phục, 

Bồ Tát: chuyển pháp luân 

Như chư Phật đã chuyển. 

Bồ Tát: đèn phá tối

Chúng sinh thấy chính đạo. 

Bồ Tát: sông công đức

Hằng thuận dòng chính đạo.

Bồ Tát: cầu tinh tấn 

Rộng độ các quần sinh. 

Ðại trí cùng hoằng thệ

Ðồng làm thuyền bền chắc 

Tiếp dẫn các chúng sinh

Ðặt ở bờ Bồ đề.

Bồ Tát: vườn du hý

Chân thiệt vui chúng sinh. 

Bồ Tát: giải thoát hoa

Trang nghiêm cung điện trí.

Bồ Tát: như diệu dược 

Diệt trừ bịnh phiền não.

Bồ Tát: như núi Tuyết

Xuất sinh thuốc trí huệ. 

Bồ Tát: đồng với Phật

Giác ngộ các quần sinh,

Tâm Phật đâu có khác 

Chánh giác giác thế gian. 

Như chỗ đến của Phật

Bồ Tát: đến như vậy. 

Cũng như nhất Thiết trí 

Dùng trí nhập phổ môn.

Bồ Tát: khéo khai đạo 

Tất cả các quần sinh.

Bồ Tát: tự nhiên giác 

Cảnh giới nhất Thiết trí. 

Bồ Tát: vô lượng lực

Thế gian chẳng hoại được. 

Bồ Tát: trí vô úy

Biết chúng sinh và pháp

Tất cả các thế gian

Sắc tướng đều sai khác. 

Âm thanh và danh tự

Ðều hay phân biệt biết. 

Dầu rời nơi danh sắc

Mà hiện các thứ tướng 

Tất cả các chúng sinh

Chẳng lường được đạo đó.

Những công đức như vậy 

Bồ Tát đều thành tựu. 

Biết tính đều vô tính

Hữu vô, không chấp trước. 

Nhất Thiết trí như vậy

Vô tận vô sở y

Nay tôi sẽ diễn thuyết 

Khiến chúng sinh hoan hỷ. 

Dầu biết các pháp tướng 

Như huyễn đều không tịch 

Mà dùng tâm bi nguyện

Và Phật oai thần lực 

Hiện thần thông biến hóa 

Vô biên vô lượng sự. 

Những công đức như vậy 

Các Ngài phải nghe thọ. 

Một thân hay thị hiện

Vô lượng thân sai biệt, 

Không tâm không cảnh giới

Khắp ứng tất cả chúng. 

Trong một âm diễn đủ 

Tất cả các ngôn âm

Ngôn ngữ của chúng sinh 

Tùy loại đều nói được.

Lìa hẳn thân phiền não 

Mà hiện thân tự tại

Biết pháp bất khả thuyết

Mà diễn thuyết các pháp. 

Tâm Ngài thường tịch diệt 

Thanh tịnh như hư không 

Trang nghiêm khắp các cõi 

Thị hiện tất cả chúng,

Nơi thân không chấp trước 

Mà hay thị hiện thân,

Trong tất cả thế gian

Tùy nghi mà thọ sinh, 

Dầu sinh tất cả xứ

Cũng chẳng trụ thọ sinh.

Biết thân như hư không 

Nhiều loại tùy tâm hiện, 

Bồ Tát thân vô biên 

Hiện khắp tất cả xứ,

Thường cung kính cúng dường 

Tối thắng Lưỡng Túc Tôn.

Hương hoa những kỹ nhạc

Tràng phan và Bảo cái 

Hằng dùng tâm thâm tịnh

Cúng dường lên chư Phật. 

Chẳng rời một Phật hội

Ở khắp chỗ chư Phật, 

Tại trong đại chúng kia 

Vấn nạn nghe thọ pháp,

Nghe pháp nhập tam muội 

Mỗi mỗi vô lượng môn,

Khởi định cũng như vậy 

Thị hiện không cùng tận. 

Trí huệ xảo phương tiện

Rõ thế đều như huyễn 

Mà hay hiện thế gian 

Vô biên nhiều loại sắc

Cùng hiện tâm và lời  

Vào trong lưới các tưởng

Mà hằng không chấp trước.

Hoặc hiện sơ phát tâm 

Lợi ích nơi thế gian

Hoặc hiện lâu tu hành
Rộng lớn vô biên tế,
Thí, giới, nhẫn, tinh tấn
Thiền định và trí huệ
Tứ phạm, tứ nhiếp thảy
Tất cả pháp tối thắng.
Hoặc hiện hạnh thành mãn
Đắc nhẫn vô phân biệt,
Hoặc hiện còn một đời
Chư Phật quán đảnh cho,
Hoặc hiện tướng Thanh Văn
Hoặc lại hiện Duyên Giác
Xứ xứ nhập Niết Bàn
Chẳng bỏ hạnh Bồ đề.
Hoặc hiện làm Đế Thích
Hoặc hiện làm Phạm Vương
Hoặc Thiên nữ vây quanh
Hoặc lại ngồi yên lặng.
Hoặc hiện làm Tỳ Kheo
Tịch tịnh điều tâm mình.
Hoặc hiện Tự Tại Vương
Thống lý pháp thế gian,
Hoặc hiện gái xảo thuật,
Hoặc hiện tu hạnh lành,
Hoặc hiện thọ ngũ dục,
Hoặc hiện nhập thiền định,
Hoặc hiện sơ thỉ sanh
Hoặc trẻ, hoặc già chết,
Nếu ai muốn nghĩa bàn
Tâm nghi phát cuồng loạn.
Hoặc hiện ở Thiên cung
Hoặc hiện mới giáng thần
Hoặc nhập hoặc trụ thai
Thành Phật chuyển pháp luân,
Hoặc sanh hoặc Niết Bàn
Hoặc hiện nhập học đường
Hoặc tại trong thể nữ
Hoặc ly tục tu thiền,
Hoặc ngồi cây Bồ đề
Tự nhiên thành Chánh giác,
Hoặc hiện chuyển Pháp luân
Hoặc hiện mới cầu đạo,
Hoặc hiện làm thân Phật
Ngồi yên vô lượng cõi,
Hoặc tu đạo bất thối
Tích tập hạnh Bồ đề,
Thâm nhập vô số kiếp
Thảy đều đến bỉ ngạn.
Vô lượng kiếp một niệm
Một niệm vô lượng kiếp,
Tất cả kiếp phi kiếp
Vì thế, thị hiện kiếp,
Không lai, không tích tập.
Thành tựu những kiếp sự
Ở trong một vi trần
Thấy khắp tất cả Phật.
Thập phương tất cả xứ
Không xứ nào chẳng có
Quốc độ, pháp chúng sanh
Thứ đệ thảy đều thấy.
Trải vô lượng kiếp số
Rốt ráo bất khả tận.
Bồ Tát biết chúng sanh
Rộng lớn không có biên,
Một thân chúng sanh kia
Vô lượng nhơn duyên sanh.
Như biết một vô lượng
Tất cả đều cũng vậy.
Theo minh đã thông đạt
Dạy những người chưa học
Đều biết căn chúng sanh
Thượng trung hạ chẳng đồng,
Cũng biết căn chuyển dời
Nên độ, chẳng nên độ.
Một căn tất cả căn
Triển chuyển sức nhơn duyên,
Vi tế đều sai khác
Thứ đệ không lầm loạn.
Lại biết dục giải kia
Tất cả tập phiền não
Cũng biết khứ, lai, kim
Bao nhiêu những tâm hạnh.
Thấu rõ tất cả hạnh
Không lai cũng không khứ,
Đã biết hạnh kia rồi
Vì nói pháp vô thượng.
Hạnh tạp nhiễm thanh tịnh
Tất cả đều biết rõ,
Một niệm được Bồ đề
Thành tựu Nhứt Thiết trí.
Trụ Phật bất tư nghì
Rốt ráo tâm trí huệ
Một niệm đều biết được
Tất cả hạnh chúng sanh
Bồ Tát trí thần thông
Công lực đã tự tại,
Có thể trong một niệm
Qua đến vô biên cõi.
Qua mau chóng như vậy
Tột đến vô số kiếp
Không xứ nào chẳng khắp
Chẳng động phần đầu lông.
Ví như nhà huyễn thuật
Hóa hiện những hình sắc.
Tìm trong hình huyễn đó
Không sắc, không phi sắc.
Bồ Tát cũng như vậy
Dùng phương tiện trí huyễn
Mọi thứ đều thị hiện
Đầy khắp nơi thế gian.
Ví như tịnh nhựt nguyệt
Gương sáng tại hư không
Bóng hiện ở trong nước
Chẳng bị nước làm tạp.
Bồ Tát tịnh pháp luân
Phải biết cũng như vậy
Hiện trong tâm thế gian
Chẳng bị thế gian tạp.
Như người ngủ nằm mộng.
Tạo tác nhiều công việc
Dầu trải ức ngàn năm
Nhưng một đêm chưa hết.
Bồ Tát trụ pháp tánh
Thị hiện tất cả sự
Vô lượng kiếp khả tận
Một niệm trí vô tận.
Ví như trong sơn cốc
Và cùng trong cung diện
Theo tiếng đều hưởng ứng
Mà thiệt vô phân biệt
Bồ Tát trụ pháp tánh
Hay dùng trí tự tại
Rộng phát âm tùy loại
Cũng vẫn vô phân biệt.
Như có thấy dương diệm
Tưởng đó cho là nước

Chạy theo chẳng được uống

Lần lựa càng thêm khát

Tâm chúng sanh phiền não
Nên biết cũng như vậy
Bồ Tát khởi từ mẫn
Cứu cho họ xuất ly
Quán sắc như bọt nước,
Thọ như bóng trên nước,
Tưởng như ánh nắng gắt,
Những hành như cây chuối ,
Tâm thức dường như huyễn,
Thị hiện đủ mọi sự.
Biết năm uẩn như vậy
Trí giả không chấp trước,
Các xứ đều không tịch
Như cơ quan động chuyển,
Các giới tánh lìa hẳn
Vọng hiện ở thế gian
Bồ Tát trụ chơn thiệt
Tịch diệt đệ nhứt nghĩa
Rộng tuyên xướng các pháp
Mà tâm không sở y.
Không lai cũng không khứ
Cũng lại không có trụ,
Phiền não nghiệp khổ nhơn,
Ba thứ hằng lưu chuyển.

Duyên khởi chẳng có không
Chẳng thiệt cũng chẳng hư
Như vậy vào trung đạo
Thuyết pháp không chấp trước,
Hay ở trong một niệm
Khắp hiện tâm tam thế
Dục, sắc, vô sắc giới
Tất cả mọi sự vật
Tuỳ thuận ba luật nghi
Diễn thuyết ba giải thoát
Kiến lập đạo tam thừa
Thành tựu nhứt thiết trí,
Thấu rõ xứ phi xứ
Các nghiệp và các căn
Giới, giải, cũng thiền định
Tất cả đạo chi xứ.
Túc mạng niện thiên nhãn
Diệt trừ tất cả hoặc
Biết thập lực của phật
Mà chưa thành tựu được,
Thấu rõ các pháp không
Mà thường cầu diệu pháp
Chẳng cùng phiền não hiệp
Mà cũng chẳng tận lậu.
Rộng biết đạo xuất ly
Mà dùng độ chúng sanh
Nơi đây được vô úy
Chẳng bỏ tu các hạnh.
Không lầm không trái đạo
Cũng chẳng mất chánh niệm
Tinh tấn, dục, tam muội
Quán huệ không tổn giảm.
Tam tụ đều thanh tịnh
Tam thế đều không sáng
Đạt từ mẫn chúng sanh
Tất cả không chướng ngại.
Do nhập pháp môn này
Được thành hạnh như vậy
Nghĩa công đức trang nghiêm
Tôi giải nói phần ít,
Tột ở vô số kiếp
Nói kia hạnh vô tận,
Nay tôi nói ít phần
Như hạt bụi trên đất.
Nương ở phật trí trụ
Phát tưởng là kỳ đặc
Tu hành hạnh tối thắng
Đầy đủ đại bi
Tinh cần tự an ổn
Giáo hoá các hàm thức,
An trụ trong tịnh giới
Đủ những hạnh thọ ký
Hay nhập phật công đức
Hạnh chúng sanh và cõi
Kiếp thế đều cũng biết
Không có tướng mỏi nhàm,
Sai biệt trí tổng trì
Thông đạt nghĩa chơn thiệt
Tư duy nói vô tỷ
Tịch tịnh đẳng chánh giác
Phát tâm của Phổ Hiền

Tu hạnh nguyện Phổ Hiền
Sức từ bi nhơn duyên
Đến đạo ý thanh tịnh ,
Tu hành ba la mật
Rốt ráo trí tuỳ giác
Sức chứng trí tự tại
Thành Bồ đề vô thượng .
Thành tựu trí bình đẳng
Diễn thuyết pháp tối thắng
Hay trì đủ diệu biện
Đến được bực pháp vương .
Xa lìa nơi chấp trước
Diễn thuyết tâm bình đẳng
Xuất sanh ra trí huệ
Biến hoá được Bồ đề .
Trụ trì tất cả kiếp
Trí giả rất hoan hỷ,
Thâm nhập và y chỉ
Không sợ không nghi hoặc
Rõ thấu bất tư nghì
Xảo mật khéo phân biệt
Khéo vào các tam muội
Thấy khắp cảnh giới trí.
Rốt ráo những giải thoát
Du hý thần thông, minh.
Đều lìa hẳn triền phược
Viên lâm tha hồ đạo.
Bạch pháp làm cung điện
Chư hạnh đẳng ưa thích
Hiện vô lượng trang nghiêm
Tại thế tâm khéo quán sát
Diệu biện hay khai diễn
Thanh tịnh Bồ đề ấn
Trí quang chiếu tất cả .
Sở trụ không gì sánh
Tâm đó chẳng hạ liệt
Lập chí như núi to
Gieo đức đường biển thẳm.
Như bửu, an trụ pháp
Mặc giáp, tâm thệ nguyện
Phát khởi những đại sự
Rốt ráo không thể hoại.
Được thọ ký Bồ đề
An trụ tâm quảng đại
Bí tạng vô cùng vô tận
Giác ngộ tất cả pháp
Thế trí đều tự tại
Diệu dụng không chướng ngại
Chúng sanh tất cả cõi
Và cùng các loại pháp.
Thân nguyện cùng cảnh giới
Trí huệ thần thông thảy
Thị hiện ở thế gian
Vô lượng trăm ngàn ức.
Du hý và cảnh giới
Tự tại không chướng ngại
Lực, vô úy, bất cộng,
Tất cả nghiệp trang nghiêm,
Những thân và thân nghiệp
Ngữ và tu ngữ nghiệp
Vì để được thủ hộ
Thành xong mười sự việc ,
Bồ Tát tâm sơ phát
Và cùng tâm châu biến
Các căn không tán động
Chứng được căn tối thắng
Thâm tâm, tăng thắng tâm
Xa lìa tâm phỉnh đối
Quyết định hiểu các pháp
Vào khắp ở thế gian,
Bỏ phiền não tập kia
Lấy đạo tối diệu thắng này
Khéo tu tối thắng này
Khéo tu cho viên mãn
Đến thành nhứt thiết trí.
Tiến tu nhập chánh vị
Quyết định chứng tịch diệt
Xuất sanh phật pháp đạo
Thành tựu hiệu công đức.
Đạo và vô lượng đạo
Nhẫn đến đạo tràng nghiêm
Thứ đệ khéo an trụ
Thảy đều không chấp trước
Tay, chân và phúc tạng
Kim cang dùng làm tâm
Mặc áo giáp từ bi
Đầy đủ những khí giới.
Đầu: trí, mắt: mì đạt
Hạnh Bồ đề làm tai
Giới thanh tịnh làm mũi
Diệt ám không chướng ngại.
Biện tài dùng làm lưỡi
Thân đến khắp mọi nơi
Trí tối thắng làm tâm
Đi đứng tu công hạnh .
Đạo tràng: tòa sư tử
Tịnh: nằm, chơn không: ở
Chỗ đi và quán sát
Vùng vẫy và gầm rống .
Rời tham, hằng bố thí
Bỏ mạn, gìn tịnh giới
Chẳng sân, thương nhẫn nhục
Chẳng lười, hằng tinh tấn.
Thiền định được tự tại
Trí huệ không sở hành
Từ tế, bi không mỏi
Hỷ pháp, xả phiền não.
Ở trong các cảnh giới
Biết nghĩa cũng biết pháp
Phước đức đều thành mãn
Trí huệ như gươm bén,
Chiếu khắp thích đa văn
Minh liễu xu hướng pháp
Biết ma và ma đạo
Thệ nguyện đều bỏ lìa.
Thấy phật cùng phật nghiệp
Phát tâm đều nhiếp lấy
Rời mạn, tu trí huệ
Chẳng bi ma nhiếp trì
Mà được phật nhiếp trì
Cũng được pháp nhiếp trì.
Hiện ở cung đâu suất
Và hiện ẩn thiên cung
Thị hiện ở thai mẹ
Cũng hiện vi tế thú
Hiện sanh và vi tiếu
Cũng hiện đi bảy bước,
Hiện tu những kỷ thuật
Cũng hiện ở thâm cung
Xuất gia tu khổ hạnh
Qua đến nơi đạo tràng
Đoan tọa phóng quang minh
Giác ngộ các quần sanh
Hàng ma thành chánh giác
Chuyển pháp luân vô thượng
Thị hiện đều đã trọn
Hiện nhập đại Niết Bàn
Những hạnh Bồ Tát kia
Vô lượng kiếp tu tập
Quảng đại không ngần mé
Nay tôi nói phần ít.
Dầu khiến vô lượng chúng
An trụ Phật công đức
Chúng sanh và trong pháp
Rốt ráo không chấp lấy,
Đầy đủ hạnh như vậy
Du hý những thần thông
Đầu lông để những cõi
Trải qua ức ngàn kiếp,
Tay cầm vô lượng cõi
Qua khắp thân không mỏi
Đem về để bổn xứ
Chúng sanh chẳng hay biết .
Bồ Tát dùng tất cả
Trang nghiêm nhiều quốc độ
Để ở một lỗ lông
Chơn thiệt đều cho thấy.
Lại dùng một lỗ lông
Nạp khắp tất cả biển
Biển lớn không tăng giảm
Chúng sanh chẳng nhiểu hại.
Vô lượng núi thiết vi
Tay bóp nát thành bụi
Một bụi nơi một cõi
Hết số vi trần này.
Đem những cõi trần đây
Lại nghiệm nát thành bụi
Bụi này biết được số
Khó lường trí Bồ Tát
Ở trong một lỗ lông
phóng vô lượng quang minh,
sáng nhựt nguyệt tinh tú
Sáng ma ni, sáng lửa,
Nhẫn đến sáng chư thiên
Tất cả đều bị khuất.
Diệt những khổ ác đạo
Vì nói pháp vô thượng
Tất cả các thế gian
Nhiều thứ tiếng sai biệt,
Bồ Tát một âm thanh
Hay diển nói tất cả,
Quyết định phân biệt nói
Tất cả những phật pháp nói
Tất cả những Phật pháp
Khiến khắp các quần sanh
Nghe đó rất hoan hỷ
Quá khứ tất cả kiếp
An trí nay, vị lai
Vị lai hiện tại kiếp
Xoay để kiếp quá khứ,
Thị hiện vô lượng cõi
Cháy tan và thành, trụ
Tất cả các thế gian
Đều tại một lỗ lông
Khứ, lai cùng hiện tại
Tất cả Phật mười phương
Đều ở tại trong thân
Phân minh mà hiển hiện
Biết sân khá biến hoá
Khéo ưng tâm chúng sanh
Thị hiện các loại thần
Mà đều vô sở trước
Hoặc hiện ở sáu loài
Tất cả thân chúng sanh
Thân Thích, Phạm hộ thê
Thân chư thiên, thân người
Thân thanh văn , duyên giác ,
Thân Chư Phật Như Lai ,
Hoặc hiện thân Bồ Tát
Tu hành nhứt thiết trí
Khéo nhập hạ, trung, thượng
Lưới tưởng của chúng sanh
Thị hiện thành Bồ đề
Nhẫn đến những cõi phật
Biết rõ những lưới tướng
Nơi tưởng được tự tại,
Hiện tu hạnh Bồ Tát .
Tất cả sự phương tiện
Thị hiện như vậy thảy
Những thần biến quãng đại .
Những cảnh giới như vậy
Thế gian chẳng biết được
Dầu hiện mà không hiện
Rốt ráo càng tăng thượng .
Tùy thuận tâm chúng sanh
Khiến được đạo chơn thiệt
Thân, ngữ và cùng tâm
Bình đẳng như hư không .
Tịnh giới lắm hương thoa
Các hạnh làm y phục
Gấm pháp trùm búi tóc
Ma ni: nhứt thiết trí,
Công đức đều cùng khắp
Quán đảnh lên vương vị,
Ba la mật làm xe,
Thần thông dùng làm tượng ,
Thần túc đúng như ngựa,
Trí huệ làm minh châu,
Diệu hạnh làm thể nử ,
Tứ nhiếp: chủ tạng thần ,
Phương tiện làm chủ binh ,
Bồ Tát chuyển luân vương ,
Tam muội làm thành quách,
Không tịch làm cung điện,

Giác từ gươm trí huệ
Cung: niệm, tên : minh lợi,
Giăng cao lọng thần lực,
Lại dựng tràng trí huệ,
Nhẫn lực chẳng lay động
Thẳng phá quân ma vương ,
Tổng trì làm đất bằng,
Những hạnh làm nước sông,
Tịnh trí làm suối chảy ,
Diệu huệ làm rừng cây,
Chơn không: ao đứng sạch,
Giác phần làm hoa sen,
Thần lực tự trang nghiêm
Tam muội thường đùa vui.
Tư duy làm thể nữ,
Cam lộ làm mỹ thực.
Giải thoát vị: nước uống,
Du hý nơi tam thừa,
Những hạnh Bồ Tát này
Vi diệu thêm tăng thượng
Vô lượng kiếp tu hành
Tâm ngài không nhàm đủ.
Cúng dường tất cả phật
Nghiêm tịnh tất cả cõi
Khiến khắp tất cả chúng
An trụ nhứt thiết trí,
Tất cả cõi vi trần
Đều biết được số đó,
Tất cả hư không giới
Hột cát đo lường được,
Tất cả tâm chúng sanh
Niệm niệm đếm biết được,
Phật tử các công đức
Nói đó không hết được.
Muốn đủ công đức này
Và những pháp thượng diệu,
Muốn cho những chúng sanh
Lìa khổ thường an lạc,
Muốn cho thân, ngữ, ý
Đều đồng như chư phật,
Phải phát kim cang nguyện.
Học hạnh công đức này.

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6328848
Số người trực tuyến: