Trang 05
PHẨM PHẠM HẠNH THỨ HAI MƯƠI
(Hán bộ trọn quyển 14, 15, 16, 17 và phần đầu quyển thứ 18)
Trang 05
Này Thiện nam tử! Đại Bồ Tát trong vô lượng vô số kiếp thường quán sát sinh tử là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, vì chúng sinh phân biệt diễn thuyết thường, lạc, ngã, tịnh. Dầu diễn thuyết như vậy nhưng chẳng phải là tà kiến. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện nam tử! Như người vào nước, nước chẳng trôi được, vào lửa, lửa chẳng cháy được. Như vậy thời chẳng thể nghĩ bàn. Cũng vậy, Đại Bồ Tát dầu ở sinh tử, nhưng chẳng bị sinh tử não hại. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện nam tử! Loài người có ba hạng: Thượng, trung và hạ.
Hạng người hạ lúc mới nhập thai nghĩ rằng: Nay tôi ở nhà tiêu đầy những hôi nhơ tối tăm. Lúc mới xuất thai nghĩ rằng nay tôi ra khỏi nhà tiêu, ra khỏi chỗ hôi nhơ tối tăm.
Hạng người bực trung nghĩ rằng: Nay tôi vào trong rừng cây, trong sông sạch sẽ, trong nhà cửa. Lúc xuất thai cũng vậy.
Hạng người bực thượng nghĩ rằng: Tôi lên điện, ở trong rừng hoa, cưỡi ngựa, cưỡi voi trèo lên núi cao. Lúc xuất thai cũng vậy.
Đại Bồ Tát lúc mới nhập thai, tự biết là nhập thai, lúc ở trong thai biết là ở, lúc xuất thai biết là xuất, trọn chẳng sinh tâm niệm tham sân, nhưng chưa lên bậc sơ trụ. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện nam tử! Vô thượng Bồ Đề thiệt không thể dùng thí dụ để so sánh, nhưng đều có thể nói.
Đại Bồ Tát không có thầy thưa hỏi học tập, mà có thể đặng pháp vô thượng Bồ Đề. Đặng pháp này rồi tâm không lẫn tiếc, thường diễn thuyết cho chúng sinh. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Này Thiện nam tử! Đại Bồ Tát có thân xa lìa mà chẳng phải khẩu, có khẩu xa lìa mà chẳng phải thân, có chẳng phải thân, chẳng phải khẩu mà cũng xa lìa. Lìa sát, đạo, dâm gọi là thân xa lìa mà chẳng phải khẩu. Lìa vọng ngữ, lưỡng thiệt, ác khẩu, vô nghĩa ngữ thời gọi là khẩu xa lìa mà chẳng phải thân. Xa lìa tham lam, ganh ghét, giận hờn, tà kiến thời gọi là ý xa lìa, mà chẳng phải thân chẳng phải khẩu. Đại Bồ tát chẳng thấy một pháp nào là thân là nghiệp cùng ông chủ xa lìa, nhưng cũng có xa lìa. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn, khẩu và ý cũng như vậy.
Này Thiện nam tử! Từ nơi thân xa lìa thân, từ nơi khẩu xa lìa khẩu, từ trí huệ xa lìa chẳng phải thân chẳng phải khẩu. Thật có trí huệ này nhưng chẳng thể khiến Bồ tát xa lìa vì không có một pháp nào hoại được làm được. Tính của pháp hữu vi, lúc sinh khác, lúc diệt khác. Vì thế nên trí huệ này chẳng thể xa lìa.
Này Thiện nam tử! Trí huệ chẳng thể phá, lửa chẳng thể cháy, nước chẳng thể rã, gió chẳng thể động, đất chẳng thể giữ, sinh chẳng thể sinh, lão chẳng thể lão, trụ chẳng thể trụ, hoại chẳng thể hoại, tham chẳng thể tham, sân chẳng thể sân, si chẳng thể si. Bởi tính của pháp hữu vi lúc sinh khác, lúc diệt khác. Đại Bồ Tát trọn chẳng nghĩ rằng tôi dùng trí huệ này phá các phiền não mà tự nói rằng tôi phá phiền não, dầu nói như vậy nhưng chẳng phải hư vọng. Do đây nên lại gọi là chẳng thể nghĩ bàn.
Ca Diếp Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Nay tôi mới biết Đại Bồ Tát chẳng thể nghĩ bàn, Phật, Pháp, chúng Tăng, kinh Đại Niết Bàn và người thọ trì Bồ Đề Niết Bàn đều chẳng thể nghĩ bàn.
Bạch Thế Tôn! Phật pháp vô thượng thời gian bao lâu sẽ diệt?
Này Thiện nam tử! Nếu đệ tử ta còn có người thọ trì đọc tụng biên chép diễn thuyết nghĩa của kinh Đại Niết Bàn, nhẫn đến năm hạnh: Thánh hạnh, Phạm hạnh, Thiên hạnh, Bệnh hạnh, Anh nhi hạnh, được chúng sinh cung kính tôn trọng tán thán cúng dàng, nên biết đó là thời kỳ Phật pháp chưa diệt.
Này Thiện nam tử! Nếu kinh Đại Niết Bàn lúc lưu hành đầy đủ, hàng đệ tử của ta phần nhiều phạm giới cấm tạo nghiệp ác, không kính tin kinh điển này, vì không tin nên chẳng thọ trì đọc tụng biên chép, giải thuyết ý nghĩa của kinh này, chẳng được mọi người cung kính cúng dường, lúc thấy người thọ trì lại khinh chê, nên biết đó là thời kỳ Phật pháp sắp diệt chẳng còn lâu.
Ca Diếp Bồ Tát lại bạch Phật: “Thế Tôn! Chính tôi từng nghe Phật nói rằn : Chính pháp của Phật Ca Diếp ở đời bảy ngày thời diệt hết.
Bạch Thế Tô ! Phật Ca Diếp có kinh Đại Niết Bàn này chăng? Nếu như có sao lại nói là diệt? Nếu như không có thời sao lại nói rằng kinh Đại Niết Bàn là tạng bí mật của chư Phật ?
Này Thiện nam tử! Trước kia ta nói rằng chỉ có Văn Thù Sư Lợi mới hiểu được nghĩa này. Nay ta sẽ nói lại, ông nên chí tâm lóng nghe!
Này Thiên nam tử! Chư Phật có hai loại pháp: Một là thế pháp, hai là đệ nhất nghĩa pháp. Thế pháp thời có hoại diệt, đệ nhất nghĩa pháp không có hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, những pháp này có hoại diệt, hai là thường, lạc, ngã, tịnh, pháp này không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là pháp của nhị thừa thọ trì đây thời có hoại diệt, hai là pháp của Bồ Tát thọ trì, đây thời không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là ngoại pháp thời có hoại diệt, hai là nội pháp thời không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là pháp hữu vi thời có hoại diệt, hai là pháp vô vi thời không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là pháp có thể được thời có hoại diệt, hai là pháp không thể được thời không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là cộng pháp thời có hoại diệt, hai là bất cộng pháp thời không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là pháp trong loài người thời có hoại diệt, hai là pháp trong loài trời thời không hoại diệt.
Lại có hai loại: Một là mười một bộ kinh thời có hoại diệt, hai là kinh Phương Đẳng thời không hoại diệt.
Này Thiện nam tử! Nếu hàng đệ tử của ta thọ trì đọc tụng, biên chép giải thuyết cùng cung kính cúng dàng tôn trọng tán thán kinh Phương Đẳng Đại Thừa, nên biết đó là thời kỳ Phật pháp chẳng diệt.
Này Thiện nam tử! Vừa rồi ông hỏi Phật Ca Diếp có kinh này chăng?
Này Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn là tạng bí mật của tất cả Phật. Vì chư Phật dầu có mười một bộ kinh, nhưng chẳng nói Phật tính, chẳng nói thường, lạc, ngã, tịnh của Như Lai, chẳng nói chư Phật trọn không rốt ráo nhập Niết Bàn. Vì thế nên kinh này gọi là tạng bí mật của Như Lai. Trong mười một bộ kinh chẳng nói đến nên gọi là tạng. Như thất bảo của người chẳng đem ra ngòai để dùng thời gọi là bảo tạng. Tài vật của người này chứa cất để dùng vào việc tương lai. Nghĩa là dự phòng lúc lúa gạo mắc, giặc đến xâm lăng, chính trị khổ khắc, thời dùng để chuộc mạng, hoặc đường giao thông bế tắc mới đem ra dùng. Cũng vậy, tạng bí mật của Như Lai cũng để dự phòng đời vị lai các Tỳ Kheo ác chứa vật bất tịnh, đối với tứ chúng nói Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, đọc tụng sách vở thế gian, chẳng kính kinh điển của Phật. Lúc những điều ác như vậy hiện ra nơi đời, đức Như Lai vì muốn dứt các sự ác ấy nên diễn nói kinh này, khiến mọi người xa lìa những lợi dưỡng tà mạn. Lúc kinh tạng bí mật này dứt diệt, nên biết đó là thời kỳ Phật pháp diệt.
Này Thiện nam tử! Kinh Đại Niết Bàn thường còn chẳng biến đổi, sao ông lại hỏi rằng lúc Phật Ca Diếp có kinh này chăng?
Này Thiện nam tử! Thời kỳ Phật Ca Diếp, chúng sinh ít tham dục, nhiều trí huệ, hàng Đại Bồ Tát điều thuận nhu hòa dễ giáo hóa, có đại oai đức tổng trì chẳng quên, như Đại Tượng Vương. Cõi nước thanh tịnh. Tất cả chúng sinh đều biết Như Lai chẳng rốt ráo nhập Niết Bàn thường trụ chẳng biến đổi, nên dầu có kinh này mà chẳng cần diễn thuyết.
Chúng sinh đời nay phiền não nhiều, ngu si ưa giận hờn không trí huệ, lòng tin chẳng vững, nhiều nghi ngờ, cõi nước bất tịnh, chúng sinh cho rằng Như Lai vô thường dời đổi rốt ráo nhập Niết Bàn. Do cớ này nên Như Lai diễn thuyết kinh đây.
Này Thiện nam tử! Chính pháp của Phật Ca Diếp thật chẳng diệt mất vì chính pháp thường trụ chẳng biến đổi.
Này Thiện nam tử! nếu có chúng sinh đối với chân ngã mà thấy là vô ngã, vô ngã lại thấy là có ngã, chân thường thấy là vô thường, vô thường thấy là thường, chân lạc thấy là vô lạc, vô lạc thấy lạc, chân tịnh thấy là bất tịnh, bất tịnh thấy là tịnh, diệt thấy là bất diệt, bất diệt thấy là diệt, tội thấy là chẳng phải tội, phi tội thấy là tội, tội nhẹ thấy là nặng, tội nặng thấy là nhẹ, thừa thấy là phi thừa, phi thừa thấy là thừa, đạo thấy là phi đạo, phi đạo thấy là đạo, thật là Bồ Đề thấy chẳng phải Bồ Đề, thật chẳng phải là Bồ Đề thấy lầm là Bồ Đề, khổ thấy chẳng phải khổ, tập thấy chẳng phải tập, diệt thấy chẳng phải diệt, đạo thấy chẳng phải đạo, thật là thế đế lại thấy là đệ nhất nghĩa đế, còn đệ nhất nghĩa đế lại thấy là thế đế, quy thấy là chẳng quy, chẳng phải quy thấy là quy, cho lời của Phật nói là lời của ma, còn thiệt lời ma lại cho là lời Phật, vào thời kỳ như trên đây chư Phật bèn nói kinh Đại Niết bàn.
Này Thiện nam tử! Thà nói vòi con muỗi tột đến đáy biển lớn, chẳng nên nói chính pháp của Như Lai diệt. Thà nói rằng lấy dây vấn buộc luồng gió mạnh, thà nói lấy miệng thổi tan núi Tu Di, thà nói trong đống lửa hừng mọc bông sen, thà nói thuốc A Dà Đà là độc dược, thà nói có thể làm cho mặt trăng nóng mặt trời lạnh, thà nói bốn đại chủng đều bỏ tính chất của nó, trọn chẳng nên nói rằng chính pháp của Như Lai diệt.
Này Thiện nam tử! Lúc Phật mới ra đời chứng đặng vô thượng Bồ Đề rồi, hàng đệ tử chưa có người hiểu thấu Đại Thừa rất sâu, đức Phật đó bèn nhập Niết Bàn, nên biết chính pháp đó chẳng ở lâu nơi đời. Nếu có hàng đệ tử đã hiểu thấu nghĩa đại thừa rất sâu, Phật dầu nhập Niết Bàn nhưng chính pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Này Thiện nam tử! Nếu Phật ra đời chứng vô thượng Bồ Đề, hàng đệ tử dầu có người hiểu nghĩa Đại Thừa rất sâu, mà không có hàng Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin tôn trọng Phật pháp, khi Phật nhập Niết Bàn rồi, thời chính pháp đó chẳng ở lâu nơi đời. Nếu có hàng Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin Phật pháp. Phật dầu nhập Niết Bàn nhưng chính pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Này Thiện nam tử! Nếu Phật ra đời chứng vô thượng Bồ Đề, có các đệ tử hiểu nghĩa đại thừa rất sâu, cũng có Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin tôn trọng Phật pháp, mà các đệ tử thuyết pháp lại vì danh lợi, chẳng cầu Niết Bàn, khi Phật diệt rồi thì chính pháp chẳng ở lâu nơi đời. Trái lại nếu hàng đệ tử thuyết pháp vì cầu Niết Bàn chẳng ham danh lợi, Phật dầu nhập diệt nhưng chính pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Này Thiện nam tử! Nếu Phật ra đời chứng đặng vô thượng Bồ Đề, dầu có các hàng đệ tử hiểu nghĩa đại thừa rất sâu, cũng có hàng Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin tôn trọng Phật pháp, mà các đệ tử sinh nhiều sự tranh tụng hơn thua phải quấy lẫn nhau, Phật lại nhập Niết Bàn, thời chính pháp chẳng ở lâu nơi đời. Trái lại các đệ tử thật hành pháp hòa kính, chẳng hơn thua phải trái nhau, tôn trọng lẫn nhau, dầu Phật nhập Niết Bàn nhưng chính pháp vẫn ở lâu chẳng diệt.
Này Thiện nam tử! Nếu Phật ra đời chứng vô thượng Bồ Đề, có những đệ tử hiểu nghĩa đại thừa rất sâu, cũng có hàng Bạch Y Đàn Việt hết lòng kính tin tôn trọng Phật pháp, các đệ tử vì cầu Đại Niết Bàn mà thuyết pháp, cung kính lẫn nhau, nhưng cất chứa những vật bất tịnh, lại khen rằng tôi đặng quả Tu Đà Hoàn, nhẫn đến quả A La Hán Phật lại nhập Niết Bàn thời chính pháp đó chẳng ở lâu nơi đời. Trái lại hàng đệ tử chẳng cất chứa những vật bất tịnh cũng chẳng tự nói mình đã chứng quả Tu Đà Hoàn, nhẫn đến quả A La Hán, Phật dầu diệt độ, nhưng chính pháp vẫn còn không diệt.
Này Thiện nam tử! Nếu Phật ra đời chứng vô thượng Bồ Đề có các đệ tử đủ những điều kiện trên nhưng lại chấp kiến giải của mình mà lập những dị thuyết: Này Trưởng lão! Giới của Phật chế, bốn giới trọng nhẫn đến bảy pháp diệt tránh, vì chúng sinh nên hoặc ngăn, hoặc mở, mười hai bộ kinh cũng như vậy. Vì Phật biết cõi nước đều sai khác, chúng sinh căn tính lợi độn chẳng đồng vì thế nên Như Lai nói có khinh có trọng, hoặc ngăn hoặc mở. Như lương y trị bệnh người bệnh nóng thời cho uống sữa, bệnh lạnh thời ngăn không cho uống sữa. Đức Như Lai quán sát căn bệnh phiền não của chúng sinh, nên cũng mở cũng ngăn. Này Trưởng lão tôi đích thân nghe Phật nói nghĩa ấy, chỉ tôi biết chớ ngài không biết được, chỉ tôi hiểu luật chớ ngài không hiểu, chỉ tôi biết kinh chứ ngài không biết được. Nên biết khi Phật diệt độ chính pháp đó chẳng ở lâu nơi đời. Trái lại hàng đệ tử đủ các điều kiện trên lại không lập dị thuyết. Phật dầu diệt độ nhưng chính pháp vẫn ở lâu nơi đời.
Này Thiện nam tử! Lúc chính pháp của ta diệt, hàng Thanh Văn đệ tử hoặc có người nói có thần, hoặc nói không thần, có trung ấm hoặc không trung ấm, có ba đời hoặc không ba đời, có ba thừa hoặc không ba thừa, hoặc nói tất cả đều có, hoặc nói tất cả đều không, hoặc nói chúng sinh có thỉ có chung, hoặc nói chúng sinh không thỉ không chung, hoặc nói có mười hai nhân duyên là pháp hữu vi, hoặc nói là pháp vô vi, hoặc nói Như Lai có bệnh khổ, hoặc nói Như Lai không bệnh khổ, hoặc nói Như Lai không cho Tỳ kheo ăn mười thứ thịt: Thịt người, thịt rắn, thịt voi, thịt ngựa, thịt lừa, thịt chó, thịt sư tử, thịt heo, thịt chồn, thịt khỉ vượn, ngoài ra đều cho, hoặc nói tất cả thứ thịt đều không cho ăn, hoặc nói Tỳ kheo chẳng được làm năm việc: Chẳng đặng bán những thứ: Sinh vật, dao, rượu, thuốc nhuộm, dầu mè, ngoài ra đều cho, hoặc nói chẳng cho vào năm thứ nhà: Nhà hàng thịt, nhà dâm nữ, nhà rượu, cung vua, nhà Chiên-đà-la, ngoài ra đều cho, hoặc nói chẳng cho mặc y Kiều-xa-gia, ngoài ra đều cho, hoặc nói Như Lai cho các Tỳ Kheo lãnh thọ và chứa cất y phục đồ nằm trị giá mười muôn lượng vàng, hoặc nói chẳng cho, hoặc nói Niết Bàn là thường, lạc, ngã, tịnh, hoặc nói Niết Bàn chính là kiết sử dứt hết không còn có pháp gì khác nên gọi là Niết Bàn, như dệt chỉ gọi đó là y, y đã hư rách thời gọi là không y, không có pháp gì khác gọi là không y, thể của Niết Bàn cũng như vậy. Đương thời kỳ đó, các đệ tử của ta: Chính thuyết thời ít tà thuyết thời nhiều, thọ chính pháp thời ít, thọ tà pháp thời nhiều, thọ lời Phật thời ít, thọ lời ma thời nhiều. Bây giờ trong nước Câu Diêm Di có hai đệ tử: Một là La Hán hai là phá giới, người phá giới có năm trăm đồ chúng, La Hán có một trăm đồ chúng. Người phá giới nói đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn, chính tôi nghe Phật nói nghĩa đó, bốn giới trọng của Phật chế, nếu trì cũng được, nếu phạm cũng không tội, nay tôi cũng đặng quả A La Hán, bốn trí vô ngại, mà A La Hán cũng phạm tội như vậy, nếu bốn giới trọng thật là tội, thời A La Hán lẽ ra chẳng phạm. Lúc đức Như Lai còn ở đời bảo phải giữ gìn, đến lúc nhập Niết Bàn thời đều phóng xả.
Lúc đó A La Hán bảo Tỳ Kheo rằng: Này Trưởng lão ông chẳng nên nói đức Như Lai rốt ráo nhập Niết Bàn. Tôi biết đức Như Lai thường còn chẳng biến đổi. Đức Như Lai ở đời cùng lúc đã nhập Niết Bàn, phạm bốn trọng giới, tội không sai khác. Nếu nói A La Hán phạm trọng giới thời không đúng nghĩa. Vì Tu Đà Hoàn còn chẳng phạm cấm giới huống là A La Hán. Nếu Trưởng lão nói rằng tôi là A La Hán. Trưởng lão nên biết A La Hán trọn chẳng tưởng rằng tôi đặng A La Hán. A La Hán chỉ nói pháp lành chẳng nói pháp ác. Lời nói của Trưởng lão thuần là phi pháp. Nếu có người được đọc mười hai bộ kinh thời quyết định biết rằng Trưởng lão chẳng phải A La Hán.
Lúc đó đồ chúng của Tỳ Kheo phá giới liền giết A La Hán chết.
Ma Vương nhân hai chúng giận hờn nhau bèn hại cả sáu trăm Tỳ Kheo.
Bầy giờ phàm phu trong đời đều bảo nhau rằng: Thương thay Phật pháp nay đã dứt. Nhưng chính pháp của ta thật chẳng dứt mất, vì trong nước ấy có mười hai muôn Đại Bồ Tát khéo hộ trì pháp của ta.
Lúc bấy giờ trong Diêm Phù Đề không có một Tỳ Kheo làm đệ tử của ta. Ma Vương Ba Tuần dùng lửa đốt tất cả kinh điển. Trong đó hoặc còn sót, hàng Bà La Môn bèn trộm lấy lượm lặt để vào trong sách của họ. Do đây nên hàng Tiểu Bồ Tát, lúc Phật chưa ra đời đem nhau tin lấy lời của Bà La Môn. Hàng Bà La Môn dầu nói rằng tôi có trai giới, nhưng thiệt ra các ngoại đạo đều không có. Hàng ngoại đạo dầu nói: Có ngã, có lạc, có tịnh, nhưng thiệt ra họ chẳng hiểu nghĩa lạc, ngã, tịnh. Chính là họ lấy một chữ hai chữ một câu hai câu trong Phật pháp rồi nói là trong sách vở họ có nghĩa như vậy.
Lúc bấy giờ trong rừng Ta La Song Thọ nơi thành Câu Thi Na, vô lượng vô biên vô số đại chúng nghe lời Phật nói như trên, liền đồng tiếng xướng rằng: “Thế gian trống rỗng! Thế gian trống rỗng!”.
Ca Diếp Bồ Tát bảo đại chúng: Các người chớ lo rầu khóc lóc. Thế gian chẳng trống rỗng vì Phật pháp và Tăng là thường trụ không biến đổi.
Đại chúng nghe lời này liền thôi khóc, tất cả đều phát tâm vô thượng Bồ Đề.
Lúc bấy giờ thành Vương Xá, vua A Xà Thế tính tình tệ ác, thích chém giết, miệng đủ bốn điều ác, tham, sân, si đầy nơi tâm, chỉ thấy hiện tại chẳng thấy vị lai, thuần dùng người ác để làm quyến thuộc, vì tham ngũ dục hiện đời mà giết vua cha vô tội. Hại cha xong lòng ăn năn bứt rứt, khắp mình sinh ghẻ lở tanh hôi chẳng ai dám gần. Vua A Xà Thế liền tự nghĩ rằng: Nay ta đã phải thọ lấy quả báo, không bao lâu chắc phải bị quả báo nơi địa ngục.
Thân mẫu của nhà vua là bà Vi Đề Hy lấy các thứ thuốc để thoa xức, nhưng ghẻ càng lở nặng thêm.
Vua A Xà Thế thưa với mẹ: Ghẻ lở này do nơi tâm mà sinh chẳng phải do tứ đại, không thể dùng y dược trong đời mà điều trị được.
Vua bảo các vị đại thần: Nay thân tâm của ta đều đau khổ. Cha ta vô tội, ta lại giết hại. Từng nghe người trí bảo rằng người phạm tội ngũ nghịch quyết định chẳng thoát khỏi địa ngục. Nay ta đã phạm tội nghịch thân tâm đau khổ, không có lương y nào chữa trị được.
Đại thần Nguyệt Xưng liền thưa với nhà vua: Như người thích ngủ nghỉ, ngủ nghỉ càng thêm nhiều, như người mê dâm dục, dâm dục càng thêm nhiều, như người ưa uống rượu, càng lúc càng uống nhiều. Nếu thường sầu khổ nhiều, thêm sầu cũng như vậy.
Như Đại Vương vừa nói người phạm tội ngũ nghịch quyết định chẳng thoát khỏi địa ngục. Có ai đến ngục thấy việc ấy trở về thưa với Đại Vương chăng? Lời nói địa ngục chính là người trí ở thế gian nói. Nay có đại y sĩ hiệu là Phu Lan Na đặng sức định tự tại thấy biết tất cả, tu tập hạnh thanh tịnh thường vì mọi người mà diễn thuyết đạo Niết Bàn vô thượng, dạy hàng đệ tử rằng không có nghiệp ác, không có báo ác. Không có nghiệp lành không có báo lành. Không có nghiệp lành ác, không có báo lành ác. Không có thượng nghiệp cũng không có hạ nghiệp. Đại sư này hiện nay ở trong thànhVương Xá. Xin Đại Vương giá lâm, để nhờ đại sư ấy điều trị. Vua nói: “Nếu ông ấy có thể diệt trừ tội lỗi của ta, thời ta sẽ quy y”.
Lại có một vị đại thần tên Tạng Đức thưa với nhà vua, mong Đại Vương chớ lo rầu sợ sệt. Có hai thứ pháp luật: Một là xuất gia, hai là vương pháp. Hại cha mình để lên ngôi trị nước, dầu là nghịch nhưng đối với vương pháp thật không có tội. Như trùng Ca La La phải cắn lủng bụng mẹ mới sinh được. Dầu cắn lủng bụng mẹ thật ra hàng trùng cũng không có tội. Con la nghén chửa cũng như vậy. Phương pháp trị nước theo phép phải như vậy, dầu giết hại cha anh cũng không có tội. Còn pháp luật xuất gia thời nhẫn đến giết muỗi kiến cũng đều có tội cả. Xin Đại Vương chớ lo rầu, vì càng sầu khổ thời càng thêm sầu khổ. Như người ưa ngủ, thích rượu, tham dâm thời sự ngủ v.v… càng thêm.
Nay có vị đại sư tên Mạt Già Lê Câu Xá Ly Tử thương xót chúng sinh như con đỏ, thấy biết tất cả, đã lìa phiền não có thể cứu vớt chúng sinh khỏi ba mũi tên độc bén nhọn. Đại sư này thường dạy đệ tử rằng : Tất cả chúng sinh thân có bảy nguyên tố: Địa, thủy, hỏa, phong, khổ, lạc và thọ mạng. Bảy thứ ấy chẳng phải hoá, chẳng thể làm chẳng thể hủy hại, như cỏ Y Sư Ca, an trụ chẳng động như núi Tu Di. Chẳng bỏ chẳng làm dường như sữa, như chất lạc. Chẳng cãi lẻ nhau: Hoặc khổ hoặc vui, là lành hay chẳng lành. Lấy dao bén chặt không chỗ bị thương bị hại, vì trong bảy nguyên tố ấy trống rỗng không ngăn ngại. Mạng cũng không bị hại vì không có người hại và người chết, không làm không thọ, không nói không nghe không có ai nhớ cũng như không người dạy bảo. Đại sư ấy thường thuyết pháp như vậy làm cho chúng sinh dứt trừ tất cả trọng tội. Nay đại sư ấy hiện ở trong thành Vương Xá. Xin Đại Vương đến đó. Nếu Đại vương gặp được Đại sư ấy thời các tội sẽ tiêu trừ.
Vua A Xà Thế bảo đại thần Tạng Đức: “Nếu thật được như vậy ta sẽ quy y”.
Lại có một đại thần tên là Thiệt Đức tâu cùng vua rằng: “Xin Đại Vương chớ sầu khổ. Nếu Tiên Vương tu đạo giải thoát, giết hại thời có tội. Nếu theo phép trị nước thời không có tội. Tất cả chúng sinh đều có nghiệp thừa, do nghiệp này nên thường bị sinh tử. Nếu như Tiên Vương có nghiệp thừa Đại Vương giết hại thời có tội gì. Mong Đại Vương yên lòng chớ sầu khổ vì người thường sầu khổ thời sầu khổ càng thêm.
Hiện nay trong thành Vương Xá có vị đại sư hiệu là San Xà Dạ Tỳ La Chi Tử thấy biết tất cả, trí sâu rộng như biển cả, có oai đức, có thần thông, có thể làm cho chúng sinh lìa các lưới nghi. Ngài dạy hàng đệ tử rằng: Trong quần chúng nếu là bậc vua chúa, thời tự tại tùy ý làm việc lành việc ác, trọn không có tội, như lửa đốt cháy đồ vật không luận là sạch cùng chẳng sạch. Như mặt đất chứa chở cả sạch cùng nhơ. Như nước, sạch dơ đều rửa. Như gió, sạch dơ đều thổi. Dầu có các việc như vậy mà đất nước v.v… trọn không giận, không mừng, phép của vua chúa cũng đồng như vậy. Như cây mùa thu trụi lá, mùa xuân thời đâm chồi, dầu chặt cây trụi nhưng không có tội. Cũng vậy chúng sinh ở chỗ này chết trở lại sinh chỗ này, vì sinh trở lại nên không có tội. Những quả báo khổ vui của tất cả chúng sinh đều chẳng phải do nghiệp đời hiện tại chính là do nghiệp nhân đời quá khứ. Hiện tại không nghiệp nhân thì vị lai không quả báo. Do quả hiện tại nên chúng sinh trì giới tinh tấn tu hành để ngăn quả ác hiện tại. Do trì giới thời đặng vô lậu, vì đặng vô lậu thời hết nghiệp hữu lậu, vì hết nghiệp nên đặng hết khổ, vì hết khổ nên đặng giải thoát.
Xin Đại Vương mau đến đó. Nếu Đại Vương được thấy Đại Sư ấy thời tất cả tội đều trừ.
Vua đáp rằng: “Nếu thật như vậy thời ta sẽ quy y”.
Lại có một đại thần tên Tất Tri Nghĩa tâu cùng vua rằng: “Xin Đại Vương thư tâm chớ sầu khổ. Ngày xưa có vua La Ma giết cha để lên ngôi. Vua Mạc Đề, vua Tỳ Lâu Chân, vua Na Hầu Sa, vua Ca Đế Ca, vua Tỳ Xá Khư, vua Nguyệt Quang Minh, vua Nhật Quang Minh, vua Ái Vương, vua Tỳ Đa Nhân, đều giết hại cha mình mà lên ngôi, nhưng không có một vua nào bị đọa địa ngục. Đời nay có vua Tỳ Lưu Ly, vua Ưu Đa Dạ, vua Ác Tính, vua Thử Vương, vua Liên Hoa, đều giết hại cha mình, mà không một vua nào sinh lòng sầu não. Dầu nói rằng địa ngục, ngã quỉ, trên trời, nhưng ai thấy được đó.
Tâu Đại vương chỉ có hai loài: Một là người hai là súc sinh. Dầu có hai loài nhưng chẳng phải do nhân duyên sinh, cũng chẳng phải do nhân duyên chết. Đã chẳng phải do nhân duyên thời có gì là thiện là ác. Mong Đại Vương chớ buồn rầu sợ sệt. Vì người thường sầu khổ thời sầu khổ càng thêm.
Nay gần thành Vương Xá có vị Đại Sư hiệu là A Kỳ Đa Xúy Xá Khâm Bà La thấy biết tất cả, xem vàng cùng đất đồng nhau. Đối với người lấy dao chém vào hông bên mặt cùng người lấy chiên đàn thoa vào hông bên trái, tâm của ngài bình đẳng không sai khác, không oán, không thân, thật là bậc lương y trong đời. Đại sư dạy hàng đệ tử rằng: “Hoặc tự làm, hoặc bảo người làm, hoặc tự chém, hoặc bảo người chém, hoặc tự đốt, hoặc bảo người đốt, hoặc tự hại, hoặc bảo người hại, hoặc tự trộm, hoặc bảo người trộm, hoặc tự dâm, hoặc bảo người dâm, hoặc tự vọng ngữ, hoặc bảo người vọng ngữ, hoặc tự uống rượu, hoặc bảo người uống rượu, hoặc giết một thôn, một thành, một nước, hoặc dùng đao luân giết tất cả chúng sinh, hoặc phía nam sông Hằng Bố Thí chúng sinh, phía Bắc sông Hằng giết hại chúng sinh, tất cả đều không tội không phước, không thí, không giới, không định. Nếu Đại Vương gặp được Đại Sư ấy thời những tội lỗi sẽ dứt trừ”
Vua bảo Đại thần Tất Tri Nghĩa: “Nếu thật được như vậy ta sẽ quy y”.
Lại có Đại thần tên là Kiết Đắc tâu cùng vua rằng: “Ai đến phỉnh gạt Đại Vương mà nói rằng là có địa ngục? Như đầu gai nhọn ai làm ra? Loài chim khác màu ai làm ra? Tính nước nhuần ướt, tính đá cứng rắn, tính lửa thời nóng, tính gió thời động, tất cả muôn vật tự sinh tự chết ai làm ra? Thuyết địa ngục chính là văn tự của người trí. Hạ thần này xin trình bày nghĩa địa ngục: Chữ địa là đất, chữ ngục nghĩa là phá, phá địa ngục không có tội báo, đây gọi là địa ngục. Lại chữ địa là người, chữ ngục là trời, bởi hại cha mình nên đến trong người trên trời. Do nghĩa này nên Bà Tẩu Tiên Nhân nói rằng: Giết dê đặng quả vui cõi trời cõi người, đây gọi là địa ngục. Lại chữ địa là mạng, chữ ngục là dài, do sát sinh nên đặng thọ mạng dài, đây gọi là địa ngục. Tâu Đại Vương do đây nên biết thật không có địa ngục. Như gieo bắp đặng bắp, gieo lúa đặng lúa, giết địa ngục mắc phải địa ngục, giết hại người lẽ ra phải đặng báo người. Đại Vương nên nghe lời hạ thần trình bày, thật không có sự giết hại, vì nếu có ngã thời không hại, nếu không ngã lại không chỗ hại. Vì có ngã thời thường còn không biến đổi, vì thường còn nên chẳng thể giết hại, chẳng phá, chẳng hoại, chẳng trói, chẳng buộc, không giận, không mừng, dường như hư không, sao lại có tội giết hại. Nếu không ngã thời các pháp đều vô thường, vì vô thường nên niệm niệm hoại diệt, vì niệm niệm hoại diệt nên người giết, người chết đều niệm niệm diệt, nếu đã niệm niệm diệt thời ai sẽ có tội. Tâu Đại Vương như lửa đốt cây, lửa không có tội, như búa chặt cây, búa cũng không tội, như liềm cắt cỏ liềm thật không tội, như dao giết người, dao chẳng phải người dao đã không tội, sao người lại có tội? Như thuốc độc giết người, thuốc độc chẳng phải người, thuốc độc đã không tội, sao người lại có tội? Tất cả muôn vật cũng đều như vậy, thật không giết hại, sao lại có tội. Mong Đại vương chớ nên sầu khổ, vì thường sầu khổ thời sầu khổ càng thêm.
Nay gần thành Vương Xá có vị Đại Sư hiệu là Ca La Cưu Đà Ca Chiên Diên thấy biết tất cả, rõ suốt ba đời, trong khoảng một niệm có thể thấy vô lượng vô biên thế giới, nghe tiếng cũng vậy, Đại Sư ấy có thể làm cho chúng sinh xa lìa tội lỗi, như sông Hằng bao nhiêu đồ nhơ uế, đều làm cho sạch sẽ. Đại sư ấy dạy đệ tử rằng: Nếu người giết hại tất cả chúng sinh mà lòng không ăn năn hổ thẹn thời trọn chẳng đọa ác thú, như hư không chẳng dính bụi dính nước, nếu lòng ăn năn hổ thẹn liền đọa địa ngục, như nước thấm ướt đất. Tất cả chúng sinh đều do Tự Tại Thiên tạo ra. Tự Tại Thiên mừng thời chúng sinh an vui. Tự Tại Thiên sân thời chúng sinh khổ não. Tất cả tội phước của chúng sinh đều do Tự Tại Thiên làm ra, sao lại nói rằng loài người có tội có phước. Ví như thợ máy chế ra người máy, cũng đi đứng ngồi nằm, chúng sinh cũng như vậy. Tự Tại thiên dụ như máy, thân chúng sinh dụ như người máy. Tạo hoá như vậy thời ai là người có tội.
Nếu Đại vương gặp được Đại Sư ấy thời tội chướng sẽ tiêu trừ.
Vua bảo Đại Thần Kiết Đắc: “Nếu thật được như vậy thời ta sẽ quy y”.
Lại có Đại Thần tên Vô Sơ Úy tâu cùng vua A Xà Thế rằng: “Xin Đại Vương chớ sầu khổ. Xét về dòng Sát Đế Lợi là dòng vua chúa, nếu vì nước, vì Sa Môn và Bà La Môn, vì vấn đề an ổn nhân dân, dầu có giết hại nhưng không tội.
Tiên Vương dầu cung kính Sa Môn mà chẳng phụng thờ các Bà La Môn, tâm không bìng đẳng chẳng phải thật dòng Sát Đế Lợi
Nay Đại Vương muốn cúng dường các Bà La Môn mà giết hại Tiên Vương thời có tội gì?
Tâu Đại vương! Thật ra không có giết hại. Xét về sự giết hại là giết hại mạng sống. Mạng là hơi gió, tính hơi gió không thể giết hại được, sao lại nói rằng hại mạng thời sẽ có tội. Mong Đại vương chớ sầu khổ, vì thường sầu khổ thời sầu khổ càng thêm. Nay trong thành Vương Xá có vị Đại Sư hiệu là Ni Kiền Đà Nhã Đề Tử thấy biết tất cả, thương xót chúng sinh, rõ biết căn tính lợi độn, tám pháp thế gian không làm ô nhiễm được ngài, tu tập phạm hạnh thanh tịnh, Đại Sư ấy dạy hàng đệ tử rằng: Không Bố Thí, không nghiệp lành, không cha, không mẹ, không đời nay, không đời sau, không A La Hán, không đạo hạnh, không tu hành. Tất cả chúng sinh trải qua bốn muôn kiếp, tự nhiên sẽ thoát khỏi dòng sinh tử, không luận là người có tội hay vô tội, như bốn con sông lớn đều chảy vào biển cả, tất cả chúng sinh lúc đặng giải thoát đều đồng nhau không khác. Nếu Đại vương gặp được Đại sư ấy thời các tội chướng sẽ tiêu trừ”.
Vua bảo Đại Thần Vô Sở Úy: “Nếu thật như vậy ta sẽ quy y”.
Mặc dầu các Đại thần khuyên lơn giảng dạy đủ điều như vậy, nhưng vua A Xà Thế vẫn sầu khổ.
Lúc đó Đại Y Sĩ Kỳ Bà tâu cùng vua rằng: “Đại Vương ngủ nghỉ có đặng yên chăng?”.
Vua A Xà Thế liền nói kệ rằng:
Nếu có người dứt hẳn được,
Tất cả những phiền não hoặc,
Chẳng tham nhiễm trong ba cõi.
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Nếu người chứng Đại Niết Bàn,
Diễn thuyết nghĩa lý rất sâu.
Gọi là thiệt Bà La Môn.
Mới ngủ nghỉ được an ổn,
Thân không tạo nghiệp ác,
Miệng xa lìa bốn điều lỗi,
Tâm không có những lưới nghi,
Mới ngủ nghĩ đặng an ổn.
Thân tâm đều không nhiệt não,
An trụ nơi chỗ tịch tịnh,
Đặng đến cảnh vui vô thượng,
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Trong lòng không có chấp lấy,
xa lìa những niệm oán thù,
Thường hòa thuận không tránh tụng,
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Nếu chẳng tạo những nghiệp ác,
Thường có tâm niệm hổ thẹn,
Tin làm ác có quả báo,
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Cung kính phụng dưỡng cha mẹ,
Chẳng giết hại một sinh mạng.
Chẳng trộm cướp tài vật người,
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Điều phục sửa trị sáu căn.
Gần gũi bậc thiện tri thức,
Phá hoại tất cả bốn ma,
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Chẳng thấy lành cùng chẳng lành,
Với những sự khổ sự vui,
Vì cứu độ những chúng sinh,
Nên luân chuyển trong sinh tử,
Nếu người có thể như vậy,
Mới ngủ nghỉ được an ổn.
Ai đặng ngủ nghỉ yên ổn?
Đáp rằng: Chính là Chư Phật.
Quán sâu nơi tam muội.
Thân cùng tâm an chẳng động.
Ai ngủ nghỉ được an ổn?
Đáp rằng: Là đấng Từ Bi.
Thường siêng tu chẳng phóng dật,
Xem chúng sinh như con một.
Chúng sinh bị tội vô minh,
Chẳng thấy quả khổ phiền não,
Thường gây tạo những nghiệp ác,
Nên ngủ nghỉ chẳng được yên,
Hoặc vì lợi chính thân mình,
Và đến thân những người khác,
Mà gây tạo mười nghiệp ác,
Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Nếu nói vì lên ngôi vua,
Hại cha vẫn không tội lỗi,
Thuận theo ác tri thức này,
Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Nếu ăn uống không tiết độ,
Uống chất lạnh mà quá nhiều,
Do đây phải mang bệnh khổ,
Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Nếu đối với vua có lỗi,
Tà niệm với vợ con người,
Cùng đi trên đường xa vắng,
Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Trì giới chưa được quả lành.
Thái tử chưa được nối ngôi, K
ẻ trộm chưa lấy được của,
Thời ngủ nghỉ chẳng được yên.
Này Kỳ Bà! Nay ta mang bệnh nặng này chính vì ta nghịch lại vua cha. Cha ta trị nước đúng pháp thật không tội lỗi mà ta lại giết hại. Vì thế nên tất cả lương y diệu dược chú thuật đều không thể trị lành bệnh ta. Lòng ta khổ sở như cá mắc cạn, như nai mắc bẫy v.v… Ta từng nghe người trí bảo rằng người phạm tội nghịch ắt đọa địa ngục. Ta làm sao ngủ yên ổn được. Lại không bậc vô thượng đại y sĩ dùng pháp dược để dứt trừ bệnh khổ cho ta.
Kỳ Bà tâu cùng vua: “Lành thay! Lành thay! Vua dầu tạo tội nhưng có lòng ăn năn hổ thẹn. Tâu Đại Vương! Chư Phật thường nói rằng có hai pháp lành có thể cứu chúng sinh. Một là tàm, hai là quí. Tàm là tự chẳng phạm tội. Quí là chẳng bảo người phạm. Tàm là trong lòng tự hổ thẹn. Quí là đối người phát lồ. Tàm là hổ cùng người. Quí là thẹn với trời. Kẻ không tàm, quí thời chẳng gọi là người, nên gọi là súc sinh. Vì có tàm quí thời có thể cung kính cha mẹ sư trưởng. Người có tàm quí thời gọi là có cha mẹ anh em chị em.
Lành thay! Đại Vương có lòng tàm quí. Xin Đại Vương nghe hạ thần trình bày.
Hạ thần từng nghe đức Phật nói: Có hai hạng người trí: Một là người chẳng tạo điều ác, hai là tạo điều ác rồi biết sám hối. Cùng có hai hạng nguời ngu: Một là người tạo tội, hai là người tạo tội rồi che giấu.
Dầu trước tạo tội lúc sau phát lồ ăn năn hổ thẹn chẳng dám tái phạm, như đem minh châu để trong nước đục, do thế lực của minh châu nước liền trong. Như khói mây tan thời mặt trăng chói sáng. Người tạo tội ác có thể sám hối cũng như vậy.
Đại Vương nếu sám hối có lòng tàm quí thời tội chướng sẽ trừ diệt, trong sạch như xưa.
Tâu Đại Vương! Giàu có hai hạng: Một là nhiều voi ngựa, lục súc,. Hai là nhiều vàng bạc các thứ châu báu. Voi ngựa nhiều chẳng sánh được một hột châu. Cũng vậy, chúng sinh có hai hạng giàu: Một là giàu điều ác, hai là giàu điều lành. Tạo nhiều điều ác chẳng bằng một điều lành. Hạ thần nghe Phật nói tu một tâm lành phá tâm điều ác. Như chút kim cang có thể hoại núi Tu Di. Cũng như chút lửa có thể đốt cháy tất cả. Như chút thuốc độc có thể hại chúng sinh. Cũng vậy, chút ít điều lành có thể phá nghiệp ác lớn. Dầu gọi là chút lành nhưng kỳ thật là lớn, vì phá được nghiệp ác lớn.
Tâu Đại vương! Như lời Phật nói che dấu là hữu lậu, chẳng che dấu là vô lậu. Phát lồ sám hối tội lỗi thời là vô lậu. Nếu tạo tội mà chẳng che chẳng dấu thời tội mỏng ít. Nếu có lòng tàm quí thời tội tiêu diệt. Giọt nước dầu nhỏ nhưng lần đầy lu lớn. Cũng vậy, mỗi mỗi tâm lành có thể phá điều ác lớn. Nếu người che dấu tội lỗi thời tội lỗi thêm lớn, còn phát lồ hổ thẹn thời tội lỗi tiêu diệt. Vì thế nên chư Phật nói người có trí chẳng che dấu tội lỗi.
Lành thay! Đại Vương có thể tin nhân quả tin nghiệp báo. Xin Đại Vương chớ ôm lòng sầu khổ sợ sệt.
Nếu có chúng sinh tạo các tội ác rồi che dấu chẳng sám hối, không lòng hổ thẹn, chẳng thấy nhân quả cùng nghiệp báo, chẳng thể học hỏi nơi người trí, chẳng gần bạn lành, tất cả lương y không thể trị lành bệnh người này, như bệnh Ca Ma La, y sĩ trong đời đều khoanh tay. Người tội này gọi là nhứt xiển đề chẳng tin nhân quả, không biết hổ thẹn, chẳng tin nghiệp báo, chẳng thấy hiện tại cùng vị lai, chẳng gần bạn lành, chẳng thuận theo lời dạy của Phật, chư Phật Thế Tôn không thể chữa trị bệnh này.
Như tử thi, y sĩ chẳng chữa được.
Nay Đại vương chẳng phải hạng nhứt xiển đề, sao lại nói rằng không thể cứu lành.
Như lời Đại vương nói không người nào chữa trị được. Xin Đại vương nên biết rằng: Con vua Tịnh Phạn ở thành Ca Tỳ La họ Cù Đàm tên Tất Đạt Đa, tự giác ngộ thành bậc vô thượng chính giác, thân trang nghiêm đủ ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp, đầy đủ mười trí lực, bốn vô sở úy, thấy tất cả, đại từ đại bi thương xót chúng sinh như La Hầu La, tùy thuận chúng sinh như nghé theo trâu mẹ, thuyết pháp đúng thời, lời Phật chân thiệt, thanh tịnh, vi diệu, đúng nghĩa đúng pháp, duy nhứt, có thể làm cho chúng sinh lìa hẳn phiền não khéo biết căn tính của chúng sinh, tùy nghi phương tiện không gì chẳng thông đạt. Trí của Phật cao lớn như núi Tu Di, thâm thúy rộng xa như biển cả. Đức Phật có trí kim cang phá tất cả tội ác của chúng sinh. Đức Phật cách đây mười hai do tuần trong rừng Ta La Song Thọ nơi thành Câu Thi Na, đương vì vô lượng vô số Bồ Tát đại chúng mà thuyết pháp. Nếu Đại Vương được nghe Phật dạy về nghĩa vô tác, vô thọ thời bao nhiêu trọng tội sẽ được tiêu trừ.
Xưa kia Thích Đề Hoàn Nhân lúc sắp chết có năm tướng hiện: Một là áo xiêm nhơ nhớp, hai là hoa trên đầu héo, ba là thân thể hôi dơ, bốn là dưới nách ra mồ hôi, năm là chẳng thích chỗ mình ở. Lúc đó Thiên Đế Thích, hoặc nơi chỗ vắng vẻ thấy Sa Môn, hoặc thấy Bà La Môn, liền đi đến kính ngưỡng như Phật. Các Sa Môn cùng Bà La Môn thấy Thiên Đế Thích đến rất vui mừng nói rằng: Thưa Thiên Chúa! Nay tôi quy y với ngài.
Thiên Đế biết chẳng phải Phật, nghĩ rằng: Người đó nếu không phải là Phật thời không thể chữa trị năm tướng suy của ta.
Thiên tử theo hầu tên Bát Giá Thi tâu cùng Thiên Đế: Vua Càn Thát Bà tên Đôn Phù Lâu có công chúa hiệu là Tu Bạt Đà, Thiên Vương nếu ban công chúa này cho hạ thần, hạ thần sẽ chỉ người có thể trừ tướng suy cho Thiên Vương.
Thiên Đế đáp rằng: Này Thiên Tử! Nếu được như lời khanh vừa tâu, công chúa Xá Chỉ, con gái của vua A Tu La Tỳ Ma Chất Đa hiện ta đương kính ái, nếu khanh muốn ta cũng sẽ ban cho, huống là công chúa Tu Bạt Đà.
Tâu Thiên Vương, hiện tại có đức Phật Thế Tôn hiệu Thích Ca Mâu Ni đương ở thành Vương Xá, Thiên Vương nếu đến cầu pháp nơi Phật thời tướng suy chắc chắn sẽ trừ diệt.
Thiên Đế liền khiến xa giá đến núi Kỳ Xà Quật. Thiên Đế đầu mặt đỉnh lễ chân Phật, rồi ngồi qua một bên bạch cùng Phật rằng: “Thế Tôn! trong hàng Thiên Nhân những gì là trói buộc?”.
Phật nói: “Này Kiều Thi Ca! Chính là xan tham và tật đố”.
- Bạch Thế Tôn! Xan tham tật đố nhân đâu mà sinh?
- Do vô minh mà sinh.
- Bạch Thế Tôn! Vô minh lại do đâu mà sinh?
- Do phóng dật mà sinh.
- Bạch Thế Tôn! Phóng dật lại do đâu mà sinh?
- Do điên đảo mà sinh.
- Bạch Thế Tôn! Điên đảo lại do đâu mà sinh?
- Do lòng nghi mà sinh.
- Bạch Thế Tôn! Đúng như lời Phật dạy, vì tâm tôi nghi nên sinh điên đảo, đối với người chẳng phải Phật mà tưởng là Phật. Giờ đây tôi được thấy Thế Tôn, lưới nghi của tôi liền trừ. Vì lưới nghi trừ nên điên đảo cũng hết. Vì điên đảo hết nên không có tâm xan tham tâm tật đố.
Phật nói: “Ông nói rằng không có tâm xan tham tật đố, thời ông đã đặng quả A Na Hàm chăng? Bậc A Na Hàm không có tâm tham. Nếu không tâm tham sao lại vì mạng sống mà tìm đến ta. Mà bậc A Na Hàm thật chẳng cầu sống.
- Bạch Thế Tôn! Người có điên đảo thời có cầu mạng sống, người không điên đảo thời chẳng cầu mạng sống. Nay tôi thật chẳng cầu mạng sống, tôi chỉ cầu pháp thân cùng trí huệ của Phật.
- Này Kiều Thi Ca! Người cầu pháp thân cùng trí huệ của Phật, thời tương lai quyết định sẽ được.
Nghe lời Phật nói xong năm tướng suy của Thiên Đế liền tiêu diệt.
Thiên Đế đứng dậy đỉnh lễ rồi đi nhiễu Phật ba vòng chắp tay cung kính bạch Phật “Thế Tôn! Nay tôi sắp chết được sống, sắp mất mạng được mạng, lại được Phật thọ ký sẽ thành vô thượng chính giác. Bạch Thế Tôn! Tất cả nhân thiên thế nào được tăng ích? Lại do nhân duyên gì mà phải tổn giảm?
- Này Kiều Thi Ca do đấu tránh nên nhân duyên tổn giảm. Khéo tu hòa kính thời đặng tăng ích.
- Bạch Thế Tôn! Nếu do đấu tránh mà tổn giảm, từ nay trở đi tôi chẳng cùng A Tu La đánh nhau nữa.
- Lành thay! Lành thay! Này Kiều Thi Ca chư Phật Thế Tôn đều nói hạnh nhẫn nhục là nhân vô thượng Bồ Đề.
Thích Đề Hoàn Nhân lễ tạ Phật trở về Thiên cung.
Tâu Đại Vương vì đức Như Lai có thể trừ những tướng ác, nên gọi Phật là chẳng thể nghĩ bàn. Nếu Đại vương ra mắt Phật chắc chắn sẽ trừ được trọng tội.
Ngày trước thanh niên dòng Bà La Môn, tên là Bất Hại, vì giết hại nhiều người nên hiệu là Ương Quật Ma La. Thanh niên này lại muốn hại mẹ, lúc tâm ác nổi lên cầm gươm tìm mẹ, vì thân tâm ác nên thành nhân tội nghịch, tất phải đọa địa ngục. Lát sau thấy Phật thân tâm khởi ác muốn hại Phật, đây cũng là nhân tội nghịch sẽ đọa địa ngục. Thanh niên này được đức Như Lai giáo hoá, tâm ác liền trừ, nghiệp nhân địa ngục tiêu diệt, phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì thế nên đức Phật hiệu là Y Vương vô thượng, chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo kia.
Tâu Đại Vương lại có Vương Tử Tu Tỳ La, vua cha giận chặt cả tay chân xô xuống giếng sâu. Vương mẫu thấy xót thương sai người đem Vương Tử đến trước Phật. Lúc Vương Tử thấy Phật, tay chân đầy đủ lại như cũ, liền phát tâm vô thượng Bồ Đề. Vì Vương Tử được thấy Phật nên đặng quả báo hiện tại. Do đây nên đức Phật hiệu là Y Vương vô thượng, chẳng phải như hàng lục sư ngoại đạo.
Này Thiện-nam-tử! Như nơi ngã tư đường có người đựng đầy đồ ăn thơm ngon trong chậu, trong bát, bày ra để bán. Có người khách từ xa đến quá đói, thấy đồ ăn ấy thơm ngon, liền hỏi đây là vật gì? Người bán nói: Đây là đồ ăn thơm ngon, nếu ai ăn thứ này, thời đặng sắc tốt, sức mạnh, có thể hết đói, hết khát và đặng thấy chư Thiên. Nhưng chỉ có một tai hại là sẽ chết. Người khách nghe xong nghĩ rằng: Nay tôi chẳng dùng sắc đẹp, sức mạnh, thấy chư Thiên, vì tôi chẳng muốn chết. Nghĩ xong hỏi rằng: Ăn vật thực này nếu phải chết sao ông lại đem bán.
Người bán đáp: Những người có trí không ai bằng lòng mua. Chỉ có kẻ ngu, chẳng biết việc này, họ tham ăn nên họ trả giá đắt cho tôi.
Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, chẳng nguyện sinh cõi trời, đặng sắc đẹp, đặng sức mạnh, thấy chư Thiên, vì sinh cõi trời chẳng khỏi những khổ não. Kẻ phàm phu ngu si sinh chỗ nào cũng đều tham luyến vì họ chẳng thấy gìa, bệnh, chết.
Này Thiện-nam-tử! Ví như cây độc, gốc rễ cũng có thể giết người, thân cây, vỏ, bông, trái, hột đều cũng có thể giết người. Tất cả thân ngũ ấmtrong hai mươi lăm cõi đều có thể hại chúng sinh cũng như vậy.
Này Thiện-nam-tử! Ví như phân nhơ, nhiều hay ít đều hôi cả. Cũng vậy, thọ sinh dầu sống lâu tám muôn tuổi hay mười tuổi cũng đều khổ não cả.
Này Thiện-nam-tử! Ví như hầm sâu nguy hiểm, lấy cỏ che trên miệng hầm, bờ bên kia của hầm có mạch cam-lồ, người nào được ăn chất cam lồ, sẽ sống lâu ngàn năm không bệnh tật, an ổn, khoan khoái. Kẻ ngu si tham chất cam lồ, chẳng biết dưới đó có hầm sâu, bèn chạy đến lấy, chẳng ngờ trật chân té xuống hầm mà chết. Người trí biết sự nguy hiểm, nên không đến lấy chất cam-lồ.
Đại-Bồ-Tát cũng như vậy còn chẳng muốn nhận lấy vật thực thượng diệu cõi trời huống là tong loài người. Kẻ phàm phu bèn ở nơi địa ngục nuốt hoàn sắt, huống là thức ăn thượng diệu cõi trời cõi người mà có thể chẳng ăn.
Này Thiện-nam-tử! Do những điều thí dụ như vậy, ngoài ra còn vô lượng thí dụ khác, nên biết thọ sinh thiệt là rất khổ.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát sinh là khổ.
Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát lão là khổ như thế nào?
Sự già yếu hay làm ho hen, ngăn nghẹn hơi, đưa lên, có thể làm mất sức mạnh, trí nhớ kém, sự tráng kiện không còn, mất sự an vui thơ thới, khoan khoái. Tuổi già hay làm lưng còm, mỏi nhọc, lười biếng, bị người khi dể.
Này Thiện-nam-tử! Ví như hoa sen nở tốt đầy trong ao nước rất đáng ưa thích, gặp trận mưa đá, tất cả đều hư nát. Cũng vậy, tuổi già có thể phá hoại tráng kiện, sắc đẹp.
Này Thiện-nam-tử! Ví như quốc vương có một trí thần dùng binh giỏi. Có vua nước địch chống cự chẳng thuận hảo. Quốc vương sai trí thần đem binh qua đánh, bắt vua nước nghịch mang về dưng cho quốc vương. Cũng vậy, tuổi già bắt được tráng kiện, sắc đẹp đem giao cho tử vương.
Này Thiện-nam-tử! Ví như trục xe đã gãy, xe đó không còn dùng được. Cũng vậy, già suy thời không còn dùng được vào việc gì.
Này Thiện-nam-tử! Như nhà giàu to có nhiều của báu: Vàng, bạc, lưu ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não. Có bọn cướp nếu vào đặng nhà đó thời có thể cướp giựt hết cả. Cũng vậy, tuổi tráng kiện và sắc đẹp thường bị giặc già suy cướp giật.
Này thiện-nam-tử! Ví như người nghèo tham thức ăn ngon, y phục mịn màng, dầu có hy vọng nhưng không thể được. Cũng vậy, tuổi già suy dầu có tâm than, muốn hưởng thọ ngũ dục sung sướng mà chẳng thể đặng.
Này Thiện-nam-tử! Như con rùa ở trên đất cao lòng nó thường nghĩ đến nước. Cũng vậy, người đời đã già suy khô héo mà lòng họ thường nhớ tưởng những khoái lạc ngũ dục thuở tráng kiện.
Này thiện-nam-tử! Như mùa thu ai cũng ưa ngắm hoa sen nở, đến khi hoa tàn héo, mọi người đều không thích. Cũng vậy, sự tráng kiện, sắc đẹp mọi người đều ưa thích, đến khi già suy ai cũng nhàm ghét.
Này thiện-nam-tử! Ví như cây mía, sau khi bị ép, bã xác không còn vị ngọt. Cũng vậy, tráng kiện sắc đẹp đã bị già ép, thời không có ba thứ vị: Một là vị xuất gia, hai là vị đọc tụng, ba là vị tọa thiền.
Này Thiện-nam-tử! Ví như mặt trăng tròn ban đêm thời tỏ sáng, ban ngày thời không như vậy. Cũng vậy, tráng kiện thời hình mạo nở nang xinh đẹp, già thời suy yếu, thân thể và tinh thần kém suy.
Này Thiện-nam-tử! ví như có nhà vua thường dùng chính pháp cai trị nhân dân, chân thật, không lừa dối, từ bi ưa bố thí. Thuở đó nhà vua bị nước địch xâm lăng đánh bại, bèn lưu vong đến nước khác. Nhân dân trong nước kia thấy nhà vua đều cảm thương nói rằng: Đại-vương ngày trước dùng chính pháp trị nước chẳng uổng lạm bá tính, thế sao nay lại lưu vong đến đây. Cũng vậy, loài người đã bị già suy làm bại hoại, thời thường tán thán sự nghiệp đã làm thuở tráng kiện.
Này Thiện-nam-tử! Ví như tim đèn dầu nhờ mỡ dầu nhưng mỡ dầu sẽ hết, thế chẳng lâu dài. Cũng vậy, thân người dầu nhờ cậy sự tráng kiện, nhưng tráng kiện phải trải qua già suy, đâu còn được dùng lâu.
Này Thiện-nam-tử! Ví như con sông cạn khô không có thể lợi ích cho ngưới, cho phi nhân, chim thú. Cũng vậy, thân người bị già suy khô héo, không còn làm được việc gì, chẳng thể có lợi ích.
Này Thiện-nam-tử! Ví như cây cheo leo bờ sông, nếu gặp gió to, ắt sẽ đổ ngã. Như vậy đến tuổi già ắt phải chết, thế chẳng thể còn được.
Này Thiện-nam-tử! Như trục xe đã gãy, không thể chở chuyên. Cũng vậy, già suy không thể học hỏi tất cả pháp lành.
Này Thiện-nam-tử! Như trẻ thơ bị người khinh khi. Cũng vậy, già suy thường bị người khinh hủy.
Này Thiện-nam-tử! Do những điều dụ như vậy cùng vô lượng thí dụ khác nên biết sự già thiệt là rất khổ.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát già là khổ.
Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát bệnh khổ như thế nào?
Ví như mưa đá làm hại mạ lúa. Cũng vậy, tật bệnh có thể phá hoại tất cả những sự an ổn vui vẻ.
Như người có oán thù, tâm thường lo rầu sợ sệt. Cũng vậy, tất cả chúng sinh thường bị bệnh khổ, lo rầu không yên.
Ví như có người hình dung xinh đẹp, Vương-phi tâm dục yêu thương, sai sứ đòi đến để cùng giao thông. Vua bắt đặng, liền truyền lịnh khoét một mắt,cắt một vành tai, chặt một tay, một chân, bấy giờ người đó hình dung đổi khác bị người nhờm gớm khinh rẻ. Cũng vậy, thân người trước thời dung mạo tươi tốt, tai mắt đầy đủ, đã bị bệnh khổ hành hạ, thời xấu xa bị người nhờm gớm.
Như cây chuối, cây tre, cây lau, cây la, hễ có con, có trái thì chết. Cũng vậy, người có bệnh thời chết.
Như vua Chuyển-Luân, đại thần, chủ binh thường làm tiền đạo đi trước, nhà vua theo sau cũng như chúa cá, chúa kiến, chúa ốc, chúa trâu, thương chủ, lúc ở trước chúng mà đi, thời toàn chúng thảy đều đi theo không rời. Cũng vậy, sự chết thường theo sát bệnh khổ không rời.
Này Thiện-nam-tử! Nhân duyên của bệnh làm cho khổ não, rầu lo, buồn than, thân tâm không an ổn. Hoặc bị kẻ giặc cướp bức hại, trái nổi bể hư, phá hoại cầu cống, đều cũng có thể cướp giựt mạng sống. Bệnh lại có thể phá hoại sự tráng kiện, sắc đẹp, thế lực, an vui, mất lòng tàm quý, có thể làm cho thân tâm xót xa bức rức.
Do những điều dụ đó và vô lượng thí dụ khác, nên biết bệnh rất là khổ não.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát bệnh khổ.
Này thiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát tử khổ? Sự chết có thể đốt cháy tiêu diệt. Như hỏa tai khởi lên có thể đốt cháy tất cả, chỉ trừ cõi trời nhị thiền trở lên, vì thế lực của hỏa tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-bàn vì thế lực của sự chết không đến được.
Như lúc thủy tai khởi lên, tất cả đều trôi, đều ngập, chỉ trừ cõi tam-thiền trở lên, vì thế lực của thủy tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết làm chìm mất tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Như lúc phong tai khởi lên, có thể thổi tan tất cả, chỉ trừ cõi tứ thiền, vì thế lực của phong tai chẳng đến được. Cũng vậy, sự chết có thể tiêu diệt tất cả, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Ca-Diếp-Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Cõi Tứ-thiền kia do cớ gì mà gió không thổi đến, nước chẳng ngập đến, lửa chẳng cháy đến?”.
Này Thiện-nam-tử! Cõi Tứ-Thiền kia không có tất cả quá hoạn trong thân và ngoại cảnh.
Cõi Sơ- Thiền có quá hoạn: Trong có giác quán, ngoài có hỏa tai.
Cõi Nhị-Thiền có quá hoạn: Trong có vui mừng, ngoài có thủy tai.
Cõi Tam-Thiên có quá hoạn: Trong có hơi thở, ngoài có phong tai.
Cõi Tứ-Thiền trong ngoài đều không quá hoạn, nên ba thứ tai họa lớn chẳng thể đến được.
Đại-Bồ-Tát cũng như vậy, an trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, trong ngoài đều không tất cả quá hoạn, nên sự chết chẳng đến được.
Lại này Thiện-nam-tử: Như Kim-Súy-Điểu có thể nuốt, có thể tiêu tất cả loài rồng, cá và châu báu, vàng, bạc vân vân, chỉ trừ chất kim cương không tiêu được. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt, có thể tiêu tất cả chúng sinh, chỉ không tiêu được Đại-Bồ-tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại này Thiện-nam-tử! Ví như những cỏ cây ở bờ sông, nước lụt dưng lên đều trôi theo dòng vào biển lớn, chỉ trừ cây dương liễu, vì thứ cây này mềm dẽo. Cũng vậy, tất cả chúng sinh đều trôi lăn vào biển chết, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại này Thiện-nam-tử! Như thần Na-La-Diên có thể hàng phục tất cả lực sĩ, chỉ trừ gió to, vì gió to vô ngại. Cũng vậy, sự chết có thể hàng phục tất cả chúng sinh, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn, vì bậc này vô ngại.
Lại này Thiện-nam-tử! Ví như có người đối với kẻ thù giả làm thân thiện, theo sát bên như bóng theo hình, chờ khi thuận tiện mà giết đó, nếu phòng bị chặt chẽ, thời người kia không hại được. Cũng vậy, sự chết luôn theo rình chúng sinh chờ dịp làm hại, chỉ không thể hại được bậc Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại- niết-bàn, vì bậc Bồ-Tát này chẳng phóng dật.
Lại này Thiện-nam-tử! Ví như trời bỗng mưa kim cương xối xuống tất cả cỏ cây, núi rừng, đất cát, ngói, đá, vàng, bạc, lưu ly, cùng tất cả vật đều bị hư nát, chỉ kim cương chân bảo không bị hư. Cũng vậy, sự chết đều có thể phá hoại tất cả chúng sinh, chỉ trừ kim cương Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại này Thiện-nam-tử! Như Kim-súy-điểu có thể nuốt các loài rồng, chỉ không nuốt được rồng thọ Tam-quy-y. Cũng vậy, sự chết có thể nuốt tất cả chúng sinh, chỉ trừ Bồ-Tát trụ ba môn chính định: Không, vô tướng vô nguyện.
Lại này Thiện-nam-tử! Như độc rắn ma-la, khi rắn này cắn nhằm người, những chú hay, thuốc tốt đều không cứu được, chỉ có chú A-Kiệt Đa-Tinh là có thể chữa lành. Cũng vậy, sự chết tất cả phương thuốc đều không cứu được, chỉ trừ Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn.
Lại này Thiện-nam-tử! Như có người bị nhà vua giận, có thể dùng lời dịu dàng khéo léo, dâng của cải châu báu mà đặng khỏi tội. Sự chết không như vậy, dầu dùng lời nói dịu dàng, tiền của châu báu để cống dưng cũng chẳng thoát khỏi.
Này Thiện-nam-tử! Luận về sự chết là chỗ hiểm nạn, không gì giúp đỡ, đi đường xa xôi mà không bạn bè, ngày đêm đi luôn chẳng biết bờ mé, sâu thẳm tối tăm, không có đèn đuốc, nó vào không có cửa nẻo mà có chỗ nơi, dầu không chỗ đau đớn nhưng chẳng thể chữa lành, nó qua không ai ngăn được, nó đến không thể thoát được, không phá phách gì mà người thấy sầu khổ, nó không phải màu sắc xấu xa mà làm cho người kinh sợ. Nó ở bên thân người mà chẳng hay biết được.
Này Ca-Diếp Bồ-Tát, do những điều dụ đó cùng vô lượng thí dụ khác, nên biết sự chết thật là rất khổ.
Đây gọi là Đại-Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát tử khổ.
NàyThiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-thừa Đại-Niết- Bàn quán sát ái-biệt-ly khổ? Ái biệt-ly này có thể làm cội gốc cho tất cả sự khổ. Như nói bài kệ rằng:
Nhân ái sinh lo,
Nhân ái sinh sợ,
Nếu lìa sự ái,
Nào lo nào sợ.
Vì ái nên sinh sự lo khổ, vì lo khổ nên làm cho chúng sinh có già suy. Ái-biệt-ly khổ là nói sự chết. Vì biệt-ly hay sinh những sự khổ vi-tế, nay sẽ vì ông mà phân biệt rõ ràng.
Này Thiện-nam-tử! Thuở quá khứ người sống vô lượng tuổi, có quốc vương tên là Thiện-Trụ nhà vua trị nước tám muôn bốn ngàn năm. Trên đỉnh đầu của vua mọc lên một bứu thịt mềm nhuyễn như bông. Bứu ấy lần lần to lớn, không làm đau nhức. Mãn mười tháng, bứu ấy nứt ra, sinh một đồng tử hình dung đẹp lạ. Nhà vua vui mừng đặt tên là Đỉnh-Sinh.
Thời gian sau vua Thiện-Trụ đem việc nước giao cho Thái-tử Đỉnh-Sinh, tồi rời bỏ cung điện quyến thuộc vào núi tu hành. Ngày rằm Thái-Tử Đỉnh-Sinh lên ngôi, đương ở trên lầu cao tắm gội trai giới, phương Đông liền có báu kim- luân, bánh xe vàng đủ một ngàn cây căm tự nhiên bay đến. Vua Đỉnh-Sinh nghĩ rằng: Từng nghe Ngũ-Thông tiên nhân nói: Nếu dòng vua Sát-Đế-Lợi ngày rằm ở trên lầu cao tắm gội trai giới, có báu kim luân đủ ngàn cây căm tự nhiên bay đến, thời nhà vua đó sẽ đặng làm Chuyển-Luân Thánh-Vương. Nay ta nên thí nghiệm. Nghĩ xong, vua Đỉnh-Sinh tay tả bưng báu kim-luân, tay hửu cầm lư hương, qùy gối bên mặt mà phát thệ rằng: Nếu đây thiệt là báu kim-luân, thời nên bay đi như vua Chuyển-Luân Thánh-Vương thuở quá khứ. Nhà vua phát thệ vừa xong, thời báu kim-luân bay lên hư không, bay khắp mười phương, rồi trở về dừng lại trên tay tả vua Đỉnh-Sinh. Nhà vua vui mừng biết chắc mình sẽ là Chuyển-Luân Thánh-Vương.
Sau đó không bao lâu, có tượng bảo xuất hiện, mình trắng như bạch liên-hoa, xinh đẹp, mạnh mẽ đôi ngà chấm đất. Vì muốn thí nghiệm vua Đỉnh-Sinh liền bưng lư hương quì gối bên hữu mà phát thệ rằng: Nếu thật là báu bạch tượng nên bay đi như thuở vua Chuyển-Luân Thánh-Vương quá khứ. Phát thệ xong, bạch tượng liền từ sáng đến chiều bay đi khắp tám phương, tột đến mé biển, rồi trở về cung vua. Kế đó lại có Mã-bửu xuất hiện, lông màu xanh biếc mướt đẹp, lông đuôi cùng gáy màu vàng ròng. Vì muốn thí nghiệm vua Đỉnh-Sinh tay bưng lư hương quì gối bên hữu phát thệ rằng : Nếu thiệt là Mã-bảo thời phải như của vua Chuyển-Luân Tính-Vương thuở quá khứ. Phát thệ xong, từ sáng đến chiều, Mã-bảo ấy đi khắp tám phương, đến mé biển rồi trở về cung vua.
Kế đó lại có Nữ-bảo xuất hiện xinh đẹp đệ nhứt, chân lông thoảng mùi chiên đàn, hơi miệng thơm sạch như hoa sen xanh, mắt sáng nhìn xa một do tuần, tai nghe, mũi ngửi cũng xa như mắt, lưỡi rộng lớn le ra có thể trùm cả mặt, da mịn láng như lá đồng đỏ, rất thông minh có trí huệ, lời nói dịu dàng đối với tất cả mọi người. Tay người ấy lúc chạm đến áo của vua, liền biết thân vua khỏe mạnh hay bệnh hoạn, cũng biết những ý nghĩ của vua.
Kế đó trong cung vua tự nhiên có Ma-ni bảo châu lớn bằng bắp vế của người, màu thuần xanh, trong suốt, trong chỗ tối có thể chiếu sáng một do tuần. Nếu trời mưa giọt lớn như trục xe, thế lực của bảo châu này có thể che một do tuần, giọt mưa không rơi xuống được.
Sau đó, lại có Chủ-tạng thần hiện ra, cặp mắt có thể thấy thấu những kho châu báu ở trong lòng đất, tùy ý vua muốn đều có thể dưng đủ. Vua Đỉnh-Sinh muốn thí nghiệm bèn cùng Chủ-tạng thần ngồi thuyền ra biển, vua bảo chủ-tạng thần: Nay ta muốn đặng châu báu. Chủ-tạng thần liền lấy hai tay quậy nước biển, đầu mười ngón tay liền hiện ra mười kho châu báu lấy dưng cho vua tâu rằng: “Tùy ý nhà vua chọn dùng, còn thừa lại nên ném trả xuống biển.”
Kế đó lại có chủ-binh thần xuất hiện, thao lược đệ nhứt, điều khiển bốn binh chủng rất giỏi. Lúc vua cần binh thời hiện quân lính ra để dùng. Lúc chẳng dùng binh, thời quân lính ẩn mất. Xứ nào chưa hàng phục chủ binh thần này có thể làm cho hàng phục. Xứ nào đã hàng phục, thời đủ sức giữ gìn.
Lúc đó vua Đỉnh-Sinh tự biết là Chuyển-Luân -Vương, bèn bảo các quan:
“Cõi Diêm-Phù-Đề này an ổn giàu vui, nay bảy báu đã đủ, cả ngàn vương tử cũng đủ, giờ đây nên làm việc gì?”.
Các quan tâu: “Châu Phất-Bà-Đề phương Dông còn chưa qui thuận, đại vương nên đem binh qua chinh phục”.
Vua Đỉnh-Sinh bèn cùng thất-bảo bay qua châu Phất-Bà-Đề, nhân dân trong châu đó đều vui mừng qui thuận.
Các quan lại tâu nên chinh phục châu Cù-Đà-Ni ở phương Tây. Kế đó lại đến chinh phục châu Uất-Đơn-Việt. Sau khi chinh phục ba châu xong. Vua Đỉnh-Sinh bảo các quan: “Châu Nam-Diêm-Phù-Đề này cùng ba châu đều an onå giàu vui, tất cả đều qui thuận ta, nay đây lại nên làm việc gì?”.
Các quan tâu: “Cõi trời Đao-Lợi tuổi thọ dài lâu, an ổn, khoái lạc, thân chư Thiên xinh đẹp hơn nhân gian, cung điện nhẫn đến giường ghế toàn bằng bảy báu, cậy phước trời chưa chịu đến qui phục, nay nên đem binh đánh dẹp”.
Vua Đỉnh-Sinh lại cùng thất bảo bay lên cõi trời Đao-Lợi, trông thấy một cây màu xanh đậm bèn hỏi đại thần: Đó là cây gì?
Đại-thần tâu: Cây ấy tên là Ba-Lợi-Chất-Đa-La, chư Thiên cõi Đao-Lợi này đến ngày mùa hạ thường tựu hợp vui chơi dưới cây đó.
Lại trông thấy màu trắng như bạch vân, vua Đỉnh-Sinh hỏi đại thần chỗ đó là gì? Đại-thần tâu đó là thiện-pháp-đường, chư thiên cõi Đao-Lợi thường nhóm nơi đó để bàn luận những việc cõi trời cõi người.
Thiên-Chúa Thích-Đề-Hoàn-Nhân biết vua Đỉnh-Sinh đã đến, liền ra tiếp rước, cầm tay vào thiện-pháp-đường lên tòa mà ngồi. Hai vua hình dung tướng mạo giống nhau, chỉ có đôi mắt nhìn nháy là khác nhau.
Lúc đó vua Đỉnh-Sinh nghĩ rằng: nay ta có thể đuổi thiên-chúa này để ta ở đây làm thiên-vương.
Thiên-Đế-Thích vốn thọ trì đọc tụng kinh điển Đại-thừa, thường vì chư Thiên giảng thuyết, chỉ chưa thông đạt hết thâm nghĩa của kinh. Do thọ trì giảng thuyết Đại-thừa nên Thiên-Đế có oai đức hơn.
Khi vua Đỉnh-Sinh khởi ác tâm đối với Thiên-Đế, tổn phước liền tự rớt xuống Diêm-Phù-Đề, nhớ tiếc cõi trời lòng rất khổ não. Không bao lâu vua Đỉnh-Sinh phải bệnh chết.
Này Thiện-nam-tử! Thiên-Đế thuở đó chính là Phật Ca-Diếp, vua Đỉnh-Sinh thời là tiền thân của ta.
Này Thiện-nam-tử! Phải biết ái-biệt-ly như vậy rất là khổ não.
Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát còn nhớ những trường hợp ái-biệt-ly khổ thuở quá khứ, huống là Bồ-Tát trụ nơi kinh Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn mà nên chẳng quán sát sự ái-biệt-ly khổ trong đời hiện tại!
Này Thiện-nam-tử! Thế nào là Đại Bồ-Tát tu hành kinh Đại-thừa Đại- Niết-Bàn quán sát oán-tắng-hội khổ?
Đại-Bồ-Tát này quán sát địa ngục, súc sinh, ngạ quỉ, loài người, trên trời đều có sự oán-tắng-hội-khổ như vậy.
Ví như có người quán sát lao ngục giam nhốt, gông xiềng là rất khổ. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát quán sát năm loài chúng sinh đều là oán-tắng-hội-hiệp rất khổ sở.
Ví như có người thường sợ kẻ oán thù, gông cùm, xiềng xích, nên bỏ cha mẹ, vợ con, quyến thuộc, cùng của báu sản nghiệp mà trốn lánh đi xa. Cũng vậy, Đại-Bồ-Tát sợ sinh tử, nên tu hành sáu môn Ba-La-Mật, chứng nhập Niết- Bàn. Đây gọi là Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát oán-tắng-hội khổ.
Này Thiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát tu hành Đại-thừa Đại-Niết- Bàn quán sát cầu-bất-đắc khổ?
Cầu là mong cầu tất cả, có hai thứ: Một là cầu pháp lành, hai là cầu pháp chẳng lành. Cầu pháp lành mà chưa đặng thời khổ, pháp ác muốn rời mà chưa rời được thời khổ.
Đây là lược nói ngũ- ấm-thịnh khổ. Đây gọi là khổ đế.
Ca-diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Như lời Phật nói, ngũ ấm thịnh khổ nghĩa đó chẳng phải. Vì như ngày trước Phật bảo Thích-Ma-Nam: Nếu sắc là khổ, tất cả chúng sinh lẻ ra chẳng nên cầu sắc, nếu có người cầu thời chẳng gọi là khổ. Lại như Phật bảo các Tỳ-kheo thọ có ba thứ : Khổ thọ, lạc thọ, bất khổ bất lạc thọ. Lại như lúc trước đức Phật nói với các Tỳ-kheo: Nếu người nào có thể tu hành pháp lành thời đặng thọ lạc. Lại như đức Phật nói: Ở trong đường lành sáu căn lãnh thọ sáu cảnh vui: Mắt thấy sắc đẹp là vui, tai, mũi, lưỡi, thân nhẫn đến ý suy nghĩ pháp lành cũng như vậy.
Như Phật từng nói kệ:
Trì giới thời là vui,
Thân chẳng thọ sự khổ.
Ngủ nghỉ đặng an ổn,
Thức dậy lòng vui vẻ.
Lúc nhận lấy y thực,
Đọc tụng và kinh hành,
Ở riêng nơi núi rừng,
Như vậy là rất vui.
Nếu đối với chúng sinh,
Ngày đêm tu lòng từ,
Nhân đây được thường vui,
Vì chẳng hại người khác.
Ít muốn biết đủ vui,
Học rộng biết nhiều vui,
A-La-Hán không chấp,
Cũng gọi là thọ vui,
Các vị Đại Bồ-Tát,
Rốt ráo đến bờ kia.
Những việc làm đã xong,
Đây gọi là rất vui.
Thế-Tôn! Trong các bộ kinh nói về tướng vui ý nghĩa như vậy. Thế nào tương ứng với nghĩa của Phật nói hôm nay?
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Lành thay! Lành thay! Ông khéo có thề thưa hỏi đức Như-Lai những nghĩa như vậy.
Này Thiện-nam-tử! Tất cả chúng sinh đối với sự khổ hạng hạ tưởng lầm là vui. Vì thế nên nay ta nói tướng khổ không khác với ngày trước đã nói.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “ Như lời Phật hỏi: Đối với sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, thời sinh, lão, bệnh, tử hạng hạ cùng ái-biệt-ly, cầu-bất-đắc, oán- tắng-hội, ngũ-ấm-thịnh hạng hạ, những sự khổ như vậy lẽ ra cũng nên có vui.
Thế-Tôn! Sinh hạng hạ là ba ác thú, sinh hạng trung là loài người, sinh hạng thượng là trên trời.
Nếu lại có người hỏi rằng: Nếu ở nơi sự vui hạng hạ tưởng cho là khổ, trong sự vui hạng trung tưởng cho là không khổ không vui. Trong sự vui hạng thượng tưởng cho là vui, thời phải trả lời thế nào?
Thế-Tôn! Nếu trong sự khổ hạng hạ tưởng cho là vui, chưa thấy có người nào sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, lúc mới đánh một trượng đầu mà đã tưởng là vui. Nếu lúc đánh trượng đầu chẳng tưởng là vui, thế sao nói rằng: Nơi trong sự khổ hạng hạ mà tưởng cho là vui?”.
Phật bảo Ca-Diếp Bồ-Tát: “Phải lắm! Phải lắm! Đúng như lời ông nói. Do nghĩa này nên không có tưởng là vui, vì như người tội kia sẽ bị phạt đánh ngàn trượng, khi bị đánh một trượng rồi liền đặng tha. Người này bèn sinh lòng vui. Vì thế nên biết rằng trong sự không vui lầm tưởng là vui”.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: Thế-Tôn! Người đó chẳng vì bị đánh một trượng mà sinh vui. Chính vì đặng tha mà sinh lòng vui.
Này Thiện-nam-tử! Vì thế nên ta ngày trước nói với Thích-Ma-Nam trong ngũ ấm có vui, lời đó là đúng, thiệt chẳng phải mâu thuẩn vậy.
Này Thiện-nam-tử! Có ba thọ và ba khổ. Ba thọ là: Lạc thọ, khổ thọ và bất khổ bất lạc thọ. Ba khổ là: Khổ-khổ, hành khổ, hoại khổ.
Này T.hiện-nam-tử! Khổ thọ chính là cả ba món khổ: Khổ-khổ, hành khổ và hoại khổ. Hai món thọ kia chính là hành khổ và hoại khổ. Do đây nên trong sinh tử thiệt có lạc thọ. Đại-Bồ-Tát thấy tính khổ cùng tính lạc chẳng rời lìa nhau nên nói rằng tất cả đều khổ.
Này Thiện-nam-tử! Trong sinh tử thiệt không có vui, vì chư Phật Bồ-Tát tùy thuận thế gian nên nói là có vui.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: “Thế-Tôn! Chư Phật và Bồ-Tát nếu tùy theo thế tục mà nói, thời là có hư vọng chăng? Như Phật thường nói, người tu hành pháp lành thời thọ quả báo vui. Trì giới an vui thân chẳng thọ khổ, nhẫn đến việc làm đã xong đây là rất vui. Lời nói thọ vui trong các kinh như vậy, chừng có hư vọng chăng. Nếu là hư vọng, thời chư Phật Thế-tôn trong vô lượng trăm ngàn muôn ức a-tăng-kỳ-kiếp tu hành đạo bồ-đề đã lìa vọng ngữ. Nay Phật nói như vậy ý nghĩa thế nào?
Này Thiện-nam-tử! Như bài kệ nói về những sự thọ lạc trước kia chính là cội gốc của đạo Bồ-Đề, cũng có thể trưởng-dưỡng vô thượng bồ-đề. Do nghĩa đó nên trong những kinh trước nói tướng vui như vậy.
Ví như trong thế gian những đồ cần dùng cho đời sống, có thể làm nhân cho sự vui, nên gọi là vui. Như nữ sắc, rượu uống, đồ ăn ngon, lúc khát được nước, lúc lạnh được lửa, y phục, chuỗi ngọc, voi ngựa, xe cộ, tôi tớ, vàng, bạc, lưu ly, san hô, chân châu, kho đựng lúa gạo, những vật như vậy người đời cần dùng có thể làm nhân cho sự vui nên gọi là vui.
Này Thiện-nam-tử! Những vật như vậy cũng có thể sinh sự khổ. Nhân nơi nữ sắc sinh sự khổ, lo, rầu, buồn, khóc nhẫn đến phải chết cho người nam. Nhân nơi rượu, đồ ăn ngon, nhẫn đến lúa gạo cũng có thể làm cho người phải lo khổ nhiều. Do nghĩa đó nên tất cả đều khổ không có tướng rốt ráo vui.
Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát nơi tám điều khổ này, hiểu rõ là khổ nên không bị khổ.
Này Thiện-nam-tử! Tất cả hàng Thanh-Văn, Duyên-Giác chẳng biết nhân của sự vui, nên Phật vì họ ở trong sự khổ hạng hạ nói có tướng vui. Chỉ có Bồ- Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết-Bàn bèn có thể biết nhân của sự khổ sự vui này.
Này Thiện-nam-tử! Thế nào là Đại-Bồ-Tát trụ nơi Đại-Thừa Đại-Niết- Bàn quán sát tập đế ? Đại-Bồ-Tát quán sát tập đế là nhân duyên ngũ ấm. Tập nghĩa là trở lại ái-luyến nơi hữu. Ái có hai thứ: Một là ái thân mình, hai là ái đồ cần dùng. Lại có hai thứ: Năm thứ dục lạc, lúc chưa đặng tâm luôn tìm cầu, đã tìm cầu đặng rồi luôn đắm trước. Lại có ba thứ: dục ái, sắc ái, vô sắc ái. Lại có ba thứ: Nghiệp nhân duyên ái, phiền não nhân duyên ái, khổ nhân duyên ái. Người xuất gia có bốn thứ ái: Y phục, đồ ăn uống, đồ nằm, thuốc thang. Lại có năm thứ: Tham lam nơi ngũ ấm, tùy chỗ cần dùng tất cả đều tham ái toan tính phân biệt vô-lượng vô-biên.
Này Thiện-nam-tử! Ái có hai thứ: Một là thiện ái, hai là bất thiện ái. Chỉ người ngu tìm cầu bất thiện ái. Các vị Bồ-Tát cầu nơi thiện-ái. Thiện ái lại có hai thứ: Bất thiện và thiện. Cầu pháp Nhị-thừa gọi là bất thiện. Cầu pháp Đại- thừa gọi là thiện.
Này Thiện-nam-tử! Kẻ phàm phu tham ái gọi là “tập” chẳng gọi là “đế”. Sự ái của Bồ-Tát thời gọi là thật đế chẳng gọi là tập, vì Bồ-Tát muốn độ chúng sinh nên thị hiện thọ sinh, chẳng phải vì tham ái mà thọ sinh.
Ca-Diếp Bồ-Tát bạch Phật: Thế-Tôn! Như trong các kinh khác đức Phật vì chúng sinh mà nói nghiệp làm nhân duyên, hoặc nói kiêu mạn, hoặc nói lục xúc, hoặc nói vô minh làm nhân duyên mà có ngũ ấm xí-thịnh. Hôm nay do nghĩa gì đức Phật nói bốn Thánh-Đế riêng lấy ái làm nhân cho ngũ ấm.
Phật khen Ca-Diếp Bồ-Tát: “Lành thay! Lành thay! Đúng như lời ông vừa nói, các nhân duyên chẳng phải làm cũng chẳng phải nhân, chỉ vì năm ấm cần phải nhân nơi ái.
Ví như quốc vương lúc đi tuần du các quan quyến thuộc thảy đều theo hầu. Cũng vậy, ái đi đến chỗ nào thời các kiết sử cũng đi theo.
Ví như y phục thấm mồ hôi, bụi bay đến liền bám dính. Cũng vậy, chỗ nào có ái những nghiệp kiết cũng ở nơi đó.
Ví như đất ướt thời có thể mọc mầm. Cũng vậy, ái có thể sinh tất cả mầm nghiệp phiền não.
Này Thiện-nam-tử! Đại Bồ-Tát trụ nơi Đại-thừa Đại-Niết-Bàn quán sát kỹ ái này có chín thứ: Một là như thiếu nợ, hai là như vợ La-Sát, ba là như trong cọng hoa đẹp có rắn độc vấn , bốn là như vật thực độc mà cố ăn đó, năm là như dâm nữ, sáu là như hột ma-lâu-ca, bảy là như thịt thúi trong mụn nhọt, tám là như gió bão, chín là như sao chổi.
Như thiếu nợ là thế nào! Ví như người nghèo cùng thiếu tiền của người khác, dầu đã trả nợ mà vẫn còn thiếu, nên bị giam nhốt chưa ra khỏi ngục. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác vì còn tập khí thừa của ái nên chẳng chứng đặng vô thượng bồ-đề.
Như vợ La-Sát là thế nào? Ví như có người lấy gái La-Sát làm vợ, gái La- Sát này hễ sinh con liền ăn thịt, ăn thịt con đẻ hết lại ăn luôn thịt chồng. Ái cũng vậy, tùy người sinh thiện căn nó liền ăn, ăn hết thiện căn nó lại ăn luôn cả người làm cho phải đọa địa ngục, súc sinh ngã quỉ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như cọng hoa đẹp có rắn độc vấn là thế nào? Như có người thích hoa đẹp mà chẳng thấy cọng hoa có rắn độc, liền đến ngắt hoa bị rắn cắn chết. Tất cả phàm phu tham đắm ngũ dục mà chẳng thấy độc hại của ái, nên bị ái làm hại, sau khi chết đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Vật thực độc mà cố ăn là thế nào? Như có người cố ăn vật thực độc, ăn xong đau bụng thổ tả mà chết. Chúng sinh trong ngũ đạo vì tham ái mà phải bị đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như dâm nữ là thế nào? Ngư người ngu tư thông với dâm nữ, dâm nữ này thường dối phĩnh gạt đoạt hết tiền của rồi xua đuổi người ấy. Người ngu không có trí tuệ bị tham ái đoạt tất cả pháp lành rồi xua đuổi vào trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như hột ma-lâu-ca là thế nào? Nếu chim ăn hột ma-lâu-ca, phẩn chim do gió thổi rớt dưới cây liền mọc lên đeo vấn cây to làm cho khô chết, tham ái ràng buộc phàm phu làm cho pháp lành không tăng trưởng nhẫn đến khô diệt, sau khi chết đọa vào ba đường ác. Chỉ trừ các vị đại Bồ-Tát.
Thịt thúi trong mụn nhọt như thế nào? Như người bị ung nhọt, trong nhọt sinh thịt thúi, người bệnh này phải chuyên tâm chạy chữa, nếu chểnh mãng thời thịt thúi sinh trùng có thể phải chết, ngũ ấm của phàm phu cũng như vậy, ái sinh trong đó, phải nên siêng năng điều trị tham ái, nếu không điều trị sẽ phải đọa trong ba đường ác. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như gió bão là thế nào? Gió bão có thể làm lở núi ngã cây. Cũng vậy, tham ái sinh tâm ác đối với cha mẹ, có thể làm ngã trốc cội cây vô thượng Bồ- Đề của các ông Đại-Trí Xa-Lợi-Phất vân vân. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Như sao chổi là thế nào? Như sao chổi mọc thời trong thiên hạ phải bệnh tật, đói kém, họa tai khổ sở. Cũng vậy, ái có thể dứt tất cả căn lành làm cho phàm phu cơ cùng thiếu thốn sinh bệnh phiền não lưu chuyển trong sinh tử mang nhiều sự khổ. Chỉ trừ các vị Bồ-Tát.
Này Thiện-nam-tử! Đại-Bồ-Tát Đại-Thừa trụ nơi Đại-Niết-Bàn quán sát tham ái có chín thứ như vậy.
Do nghĩa trên đây, hàng phàm phu có khổ, không đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có khổ đế mà không chân thật. Các vị Bồ-Tát hiểu khổ không có khổ mà có chân đế. Hàng phàm phu có tập không có đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có tập có tập đế. Các vị Bồ-Tát hiểu tập không có tập mà có chân đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có diệt mà chẳng phải chân. Đại-Bồ-Tát có diệt có chân đế. Hàng Thanh-Văn Duyên-Giác có đạo mà chẳng phải chân. Đại Bồ-Tát có đạo có chân đế.
- 5
Viết bình luận