Trang 01
PHẨM SƯ TỬ HỐNG BỒ TÁT THỨ HAI MƯƠI BA
Trang 01
Bấy giờ Đức Phật bảo tất cả đại chúng: “Này các Thiện nam tử! Các người nếu nghi là có Phật không Phật, có Pháp không Pháp, có Tăng không Tăng, có khổ không khổ, có tập không tập, có diệt không diệt, có đạo không đạo, có thiệt không thiệt, có ngã không ngã, có lạc không lạc, có tịnh không tịnh, có thường không thường, có thừa không thừa, có tính không tính, có chúng sinh không chúng sinh, có hữu không hữu, có chân không chân, có nhân không nhân, có quả không quả, có tác không tác, có nghiệp không nghiệp, có báo không báo, giờ đây tha hồ cho các người hỏi, ta sẽ phân biệt giải thuyết cho.
Ta thiệt chẳng thấy hoặc có Trời, Người, hoặc có Ma, Phạm, hoặc có Sa Môn hay Bà La Môn nào đến hỏi mà ta không giải đáp được.
Trong pháp hội có Bồ Tát hiệu Sư Tử Hống đứng dậy nghiêm chỉnh y phục đỉnh lễ đức Phật chấp tay quì bạch rằng: “Thế Tôn! Tôi vừa muốn hỏi, đức Như Lai đại từ lại đã hứa cho”.
Phật bảo đại chúng rằng: “Các người nên cung kính Bồ Tát này, cũng nên tôn trọng tán thán cùng đem các thứ hoa hương kỹ nhạc, anh lạc, phan lọng, y phục, đồ ăn uống, đồ nằm , thuốc men, phòng nhà, điện đường để cúng dường Bồ Tát. Vì Bồ Tát này từ quá khứ chư Phật đã sâu trồng thiện căn phước đức đã đầy đủ, vì thế nên muốn ở trước ta mà thưa hỏi.
Như Sư Tử chúa tự biết sức lực nanh răng nhọn bén, bốn chân chống đất đứng trong hang vẩy đuôi gầm ra tiếng. Nếu có người nào đủ những tướng như vậy phải biết rằng có thể rống như Sư Tử, thiệt là Sư Tử chúa sáng sớm ra khỏi hang vươn vai ngáp nhìn ngó bốn phương, cất tiếng rống to. Làm như thế là vì mười một điều: Một là vì muốn phá dẹp những loài chẳng phải thiệt Sư Tử mà dối làm Sư Tử; hai là vì muốn thử sức mình ; ba là vì muốn khiến chỗ ở thanh tịnh; bốn là vì muốn bầy Sư Tử con biết chỗ nơi; năm là vì muốn đoàn Sư Tử không tâm kinh sợ; sáu là vì muốn kẻ ngũ được thức tỉnh; bảy là vì muốn tất cả những thú phóng dật được siêng năng chẳng phóng dật; tám là vì muốn những thú khác đến chầu hầu; chín là vì muốn điều phục đại hương tượng; mười là vì muốn dạy bảo các con cái; mười một là vì muốn trang nghiêm quyến thuộc của mình.
Tất cả loài cầm thú nghe tiếng hống của Sư Tử, loài lội dưới nước liền lặn xuống vực sâu, loài chạy trên bờ nép trốn trong hang, loài chim bay thời rơi rớt, các đại hương tượng kinh hãi chạy té phẩn.
Như loài chồn cáo kia dầu đi theo Sư Tử trọn trăm năm nhưng chẳng thể rống lên tiếng như Sư Tử. Nếu là con Sư Tử, mới đầy ba năm thời có thể kêu rống như Sư Tử chúa.
Này Thiện nam tử! Như Lai chính đẳng giác, trí huệ là nanh vuốt, bốn như ý túc là chân, đầy đủ sáu môn Ba La Mật là thân, thập trí lực hùng mãnh là sức lực, đại từ bi là đuôi an trụ, tứ thiền là hang thanh tịnh, vì chúng sinh mà rống như Sư Tử, dẹp phá quân ma, hiện bày mười trí lực, mở mang chỗ đi của Phật, làm chỗ nương về cho bọn tà kiến, vỗ về những chúng sợ sệt sinh tử, giác ngộ chúng sinh vô minh ngủ nghỉ, làm cho người tạo ác sinh tâm ăn năn, khai thị tà kiến cho tất cả chúng sinh, làm cho họ biết hàng lục sư chẳng phải là tiếng rống của Sư Tử, để phá lòng kiêu mạn của ngoại đạo Phú Lâu Na v.v… Làm cho hàng nhị thừa sinh lòng hối hận, dạy bảo các Bồ Tát bậc ngũ trụ cho họ sinh tâm đại lực, làm cho bốn bộ chúng chính kiến chẳng sợ sệt những đồ chúng tà kiến, nên từ nơi thánh hạnh, phạm hạnh, thiên hạnh, vươn vai mà ra. Muốn khiến các chúng sinh phá lòng kiêu mạn nên hà ngáp. Vì khiến chúng sinh thêm lớn pháp lành nên đoái ngó bốn phương. Vì khiến chúng sinh đặng tứ vô ngại biện nên bốn chân chấm đất. Vì khiến chúng sinh đầy đủ Thi La Ba La Mật nên rống như Sư Tử.
Sư Tử rống gọi là quyết định thuyết: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, Như Lai thường trụ không có biến đổi”.
Này Thiện nam tử! Hàng Thanh Văn Duyên Giác dầu theo đức Như Lai trong vô lượng vô số kiếp nhưng trọn không thể làm Sư Tử rống. Thập trụ Bồ Tát nếu có thể tu hành ba hạnh như trên, nên biết rằng đó là Sư Tử rống.
Này đại chúng ! Bồ Tát Sư Tử Hống đây, nay muốn làm đại Sư Tử rống, nên đại chúng phải nên thâm tâm cúng dường cung kính tôn trọng tán thán.
Bây giờ Thế Tôn bảo Sư Tử Hống Bồ Tát: “Này Thiện nam tử! Nếu ông muốn hỏi, giờ đây ông có thể hỏi”.
Bạch Thế Tôn! Thế nào là Phật tính? Do nghĩa gì nên gọi là Phật tính? Có gì lại gọi là thường, lạc, ngã, tịnh? Nếu chúng sinh có Phật tính, tại sao lại chẳng thấy được Phật tính của tất cả chúng sinh? Thập trụ Bồ Tát trụ những pháp gì mà chẳng thấy Phật tính rõ ràng? Phật trụ những pháp gì mà thấy được rõ ràng? Thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì mà thấy chẳng rõ ràng? Phật dùng con mắt gì mà thấy Phật tính được rõ ràng?
Phật bảo: Này Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Nếu có ai vì pháp mà thưa hỏi thời là đầy đủ hai thứ trang nghiêm: Một là trí huệ, hai là phước đức. Nếu có Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời biết Phật tính, cũng lại rõ biết gọi là Phật tính, nhẫn đến có thể biết Thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì, chư Phật Thế Tôn dùng con mắt gì .
Sư Tử Hống Bồ Tát thưa: “Bạch Thế Tôn! Thế nào gọi là trí huệ trang nghiêm? Thế nào gọi là phước đức trang nghiêm?".
Này Thiện nam tử! Trí huệ trang nghiêm chính là từ nhất địa đến thập địa. Phước đức trang nghiêm chính là Đàn Ba La Mật nhẫn đến Bát Nhã, chẳng phải là Bát Nhã Ba La Mật.
Lại này Thiện nam tử! Huệ trang nghiêm là nói chư Phật và Bồ Tát. Phước đức trang nghiêm là nói Thanh Văn Duyên Giác cùng Cửu trụ Bồ Tát.
Lại này Thiện nam tử! Phước đức trang nghiêm là hữu vi hữu lậu có quả báo, có ngại chẳng phải thường, là pháp phàm phu. Trí huệ trang nghiêm là vô vi vô lậu không quả báo, không ngại là thường trụ.
Này Thiện nam tử! Nay ông đầy đủ hai thứ trang nghiêm này, nên ông có thể hỏi diệu nghĩa rất sâu Phật cũng đầy đủ hai thứ trang nghiêm này nên có thể giải đáp những nghĩa ấy.
Bạch Thế Tôn! Nếu có Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêm như vậy thời chẳng nên hỏi một thứ hai thứ. Tại sao đức Thế Tôn nói rằng có thể đáp một thứ hai thứ. Vì tất cả pháp không có một thứ hai thứ. Một thứ hai thứ là tướng phàm phu.
Này Thiện nam tử! Nếu có Bồ Tát không hai thứ trang nghiêm thời chẳng phải biết một thứ hai thứ. Phải là Bồ Tát đầy đủ hai thứ trang nghiêmmới có thể rõ biết một thứ hai thứ. Nếu nói các pháp không một hai đó, thời không đúng nghĩa. Vì nếu không một hai thế nào nói là tất cả pháp không một không hai.
Này Thiện nam tử! Nếu nói một hai là tướng phàm phu, đây bèn gọi là bậc Thập trụ Bồ Tát chẳng phải là phàm phu vậy. Tại sao vậy? Một đó gọi là Niết Bàn, hai đó gọi là sinh tử.
Tại sao một đó gọi là Niết Bàn? Vì Niết Bàn là thường. Tại sao hai đó là sinh tử? Vì là ái và vô minh vậy.
Niết Bàn thường trụ đó chẳng phải là tướng phàm phu. Sinh tử là hai đó cũng chẳng phải tướng phàm phu. Do nghĩa này nên người đủ hai thứ trang nghiêm thời có thể hỏi có thể đáp.
Ông hỏi thế nào là Phật tính đó? Lóng nghe! Ta sẽ phân biệt giải thuyết cho ông.
Này Thiện nam tử! Phật tính đã gọi là đệ nhất nghĩa không, đệ nhất nghĩa không gọi là trí huệ.
Không đây là chẳng thấy không cùng bất không. Người trí thấy không và bất không thường cùng vô thường khổ với lạc, ngã cùng vô ngã. Không là nói tất cả sinh tử. Bất không là nói Đại Niết Bàn. Nhẫn đến vô ngã chính là sinh tử. Ngã đó chính là Đại Niết Bàn.
Thấy tất cả không mà chẳng thấy bất không thời chẳng gọi là trung đạo. Nhẫn đến thấy tất cả vô ngã mà chẳng thấy ngã thời chẳng gọi là trung đạo. Trung đạo đó gọi là Phật tính. Do nghĩa này nên Phật tính là thường hằng không biến đổi vì vô minh che đậy làm cho chúng sinh chẳng thấy được. Hàng Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả không mà chẳng thấy bất không, nhẫn đến thấy tất cả vô ngã mà chẳng thấy ngã, do đây nên chẳng được đệ nhất nghĩa không. Vì chẳng đặng đệ nhất nghĩa không nên chẳng đi được nơi trung đạo. Vì không trung đạo nên chẳng thấy Phật tính.
Này Thiện nam tử! Phàm có ba hạng chẳng thấy trung đạo. Một là định lạc hành, hai là định khổ hành, ba là khổ lạc hành.
Định lạc hành chính là Đại Bồ Tát vì thương xót tất cả chúng snh, nên dầu ở địa ngục A Tỳ nhưng an vui như đệ tam thiền.
Định khổ hành là nói hàng phàm phu.
Khổ lạc hành là nói Thanh Văn Duyên Giác. Thanh Văn Duyên Giác hành nơi khổ lạc mà tưởng là trung đạo, do đây nên dầu có Phật tính mà chẳng thấy được.
Như ông hỏi nghỉa gì gọi là Phật tính?
Này Thiện nam tử! Phật tính chính là vô thượng Bồ Đề của tất cả chư Phật, là chủng tử của trung đạo.
Lại này Thiện nam tử! Đạo có ba: Thượng, trung, hạ.
Đạo bậc hạ là Phạm thiên vô thường nhận lầm là thường. Đạo bậc thượng là sinh tử vô thườntg nhận lầm là thường. Tam Bảo là thường chấp là vô thường. Cớ gì gọi là bậc thượng? Vì có thể đặng vô thượng Bồ Đề.
Đạo bậc trung gọi là đệ nhất nghĩa không: Vô thường thấy là vô thường, thường thấy là thường. Đệ nhất nghĩa không chẳng gọi là hạ, vì tất cả phàm phu không thể được, lại chẳng gọi là bậc thượng, vì chính đây là thượng. Đạo của chư Phật Bồ Tát tu hành chẳng phải thượng chẳng phải hạ nên gọi là trung đạo.
Này Thiện nam tử! Bờ mé sinh tử phàm có hai thứ cội gốc: Một là vô minh, hai là hữu ái. Chặn giữa hai thứ này thời có quả khổ sinh già bệnh chết, đây gọi là trung đạo. Trung đạo như đây có thể phá sinh tử nên gọi là trung. Do nghĩa này nên pháp trung đạo gọi là Phật tính. Vì thế nên Phật tính là thường lạc ngã tịnh. Bởi chúng sinh chẳng thấy được Phật tính nên là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Phật tính thiệt chẳng phải là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh.
Ví như người nghèo trong nhà có kho châu báu vì người này chẳng thấy nên không được sung sướng tự tại. Có người trí dùng phương tiện chỉ bảo cho được thấy. Nhờ thấy có châu báu người này hết khổ đặng sung sướng tự tại.
Cũng vậy, vì chúng sinh chẳng thấy Phật tính nên là vô thường vô lạc vô ngã vô tịnh. Do thiện tri thức, chư Phật và Bồ Tát dùng nhiều phương tiện dạy bảo mà chúng sinh thấy Phật tính. Do thấy Phật tính nên chúng sinh được thường, lạc, ngã, tịnh.
Kiến chấp của chúng sinh phàm có hai: Thường kiến và đoạn kiến. Hai thứ kiến chấp này chẳng gọi là trung đạo. Không thường không đoạn mới gọi là trung đạo, không thường không đoạn, tức là trí quán chiếu mười hai nhân duyên. Quán trí này gọi là Phật tính. Hàng nhị thừa dầu quán nhân duyên nhưng còn chẳng được gọi là Phật tính. Phật tính dầu là thường bởi chúng sinh bị vô minh che đậy nên không thấy được. Lội chưa qua được sông mười hai nhân duyên, dụ như thỏ và ngựa kia, vì chẳng thấy Phật tính.
Này Thiện nam tử! Trí huệ quán chiếu mười hai nhân duyên đây chính là chủng tử của vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tính.
Ví như dưa hấu gọi là bệnh nhiệt, vì dưa này có thể làm nhân duyên bệnh nhiệt. Mười hai nhân duyên cũng như vậy.
Này Thiện nam tử! Phật tính có nhân, có nhân nhân, có quả, có quả quả.
Có nhân đó chính là mười hai nhân duyên. Nhân nhân đó chính là trí huệ. Có quả chính là vô thượng Bồ Đề. Quả quả đó chính là vô thượng Đại Niết Bàn.
Này Thiện nam tử! Như vô minh là nhân, hành là quả; hành là nhân, thức là quả. Do nghĩa này nên thể vô minh kia cũng là nhân, cũng là nhân nhân. Thức cũng là quả, cũng là quả quả. Phật tính cũng như vậy.
Này Thiện nam tử! Do nghĩa này nên mười hai nhân duyên chẳng sinh, chẳng diệt, chẳng thường, chẳng đoạn, chẳng một, chẳng hai, chẳng đến, chẳng đi, chẳng chân, chẳng quả.
Là nhân mà chẳng phải quả như Phật tính.
Là quả mà chẳng phải nhân như Đại Niết Bàn.
Là nhân cũng là quả như những pháp do mười hai nhân duyên sinh.
Chẳng phải nhân chẳng phải quả gọi là Phật tính. Vì chẳng phải nhân quả nên thường hằng không biến đổi.
Do nghĩa này nên trong kinh Phật nói mười hai nhân duyên ý nghĩ rất sâu không thể biết, không thể thấy, chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật và Bồ Tát, chẳng phải hàng Thanh Văn Duyên Giác đến được.
Do nghĩa gì mà là rất sâu? Nghiệp hạnh của chúng sinh chẳng thường chẳng đoạn mà có quả báo dầu niệm niệm diệt mà không mất, dầu không tác giả mà có tác nghiệp, dầu không thọ giả mà có quả báo. Thọ giả, dầu diệt mà quả chẳng hư. Không có lự tri nhưng hòa hiệp mà có. Tất cả chúng sinh dầu cùng đi với mười hai nhân duyên mà chẳng thấy chẳng biết. Vì chẳng thấy biết nên không có chung thủy. Bậc Thập trụ Bồ Tát chỉ thấy chung mà chẳng thấy thủy. Chư Phật thấy thủy thấy chung. Do nghĩa này nên chư Phật thấy Phật tính được rõ ràng. Tất cả chúng sinh vì chẳng thấy được mười hai nhân duyên nên phải luân chuyển.
Như tằm làm kén tự sống tự chết. Tất cả chúng sinh cũng như vậy, vì chẳng thấy Phật tính nên tự tạo nghiệp mà lưu chuyển sinh tử, dường như đánh trái cầu.
Vì thế nên trong các kinh Phật nói: Nếu có người thấy được mười hai nhân duyên thời là thấy pháp, thấy pháp đó chính là thấy Phật. Phật đó chính là Phật tính, vì tất cả chư Phật dùng đây làm tính.
Này Thiện nam tử! Trí quán mười hai nhân duyên có bốn hạng: Một là hạ, hai là trung, ba là thượng, bốn là thượng thượng.
Quán trí bậc hạ chẳng thấy Phật tính, vì chẳng thấy nên chứng được đạo Thanh văn. Trí quán bậc trung chẳng thấy Phật tính, vì chẳng thấy nên chứng đặng đạo Duyên Giác. Trí quán bậc thượng thấy Phật tính chẳng rõ ràng, vì thấy chẳng rõ ràng nên trụ bậc thập trụ. Trí quán bậc thượng thượng thấy Phật tính rõ ràng nên chứng được vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa đây nên mười hai nhân duyên gọi là Phật tính. Phật tính chính là đệ nhất nghĩa không. Đệ nhất nghĩa không gọi là trung đạo. Trung đạo đó gọi là Phật. Phật đây là Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch Phật: “Thế Tôn! Nếu Phật cùng Phật Tính không sai khác, thời tất cả chúng sinh cần gì tu hành?”.
Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Lời ông hỏi không đúng. Phật cùng Phật tính dầu không sai khác nhưng chúng sinh đều chưa đầy đủ. Ví như có người ác tâm muốn hại mẹ, hại rồi sinh lòng ăn năn, ba nghiệp dầu lành, nhưng người này vẫn gọi là người địa ngục, vì người này quyết định sẽ đọa địa ngục vậy. Hiện tại người này dầu không thân địa ngục nhưng vẫn gọi là người địa ngục.
Do đây nên trong các kinh Phật nói nếu thấy có người tu hành hạnh lành thời gọi là thấy người trời. Thấy người tạo ác thời gọi là thấy địa ngục. Vì quyết định sẽ thọ quả báo.
Này Thiện nam tử! Vì tất cả chúng sinh quyết định được vô thượng Bồ Đề nên Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Nhưng thật ra tất cả chúng sinh chưa có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Do nghĩa đây nên nơi kinh này Phật nói kệ rằng:
Trước có nay không
Trước không nay có
Ba đời có pháp
Nghĩa này không đúng.
Này Thiện nam tử! Có ba thứ có: Một là vị lai có, hai là hiện tại có, ba là quá khứ có.
Tất cả chúng sinh vị lai sẽ có vô thượng Bồ Đề, đây gọi là Phật tính. Tất cả chúng sinh hiện tại điều có phiền não, nên hiện tại không có ba mươi hai tướng tốt, tám mươi vẻ đẹp. Tất cả chúng sinh quá khứ có dứt phiền não nên hiện tại được thấy Phật tính. Do nghĩa này Phật thường tuyên nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính, nhẫn đến nhất xiển đề cũng có Phật tính.
Nhất xiển đề không có pháp lành. Phật tính là pháp lành vị lai họ sẽ có. Nhất xiển đề đều có Phật tính, vì họ quyết định sẽ đặng thành vô thượng Bồ Đề.
Ví như có người trong nhà có sữa lạc. Có người hỏi: Ông có tô không? Đáp rằng tôi có. Lạc thiệt chẳng phải tô, do phương tiện khéo, chắc sẽ đặng tô, nên đáp rằng có tô.
Chúng sinh cũng như vậy tất cả đều có tâm. Phàm người có tâm sẽ được thành vô thượng Bồ Đề. Do nghĩa đây nên Phật thường tuyên nói: Tất cả chúng sinh đều có Phật tính.
Này Thiện nam tử! Tất cánh có hai thứ: Một là trang nghiêm tất cánh, hai là cứu cánh tất cánh. Và một là thế gian tất cánh, hai là xuất thế tất cánh.
Trang nghiêm tất cánh là sáu môn Ba La Mật. Cứu cánh tất cánh là nhất thừa của tất cả, chúng sinh chứng được. Nhất thừa đó gọi là Phật tính. Do nghĩa đây nên Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính, tất cả chúng sinh đều có nhất thừa, vì vô minh che đậy nên chẳng thấy được.
Như Châu Uất Đơn Việt, Đao Lợi Thiên, vì quả báo che ngăn nên chúng sinh ở đây chẳng thấy được.
Phật tính cũng như vậy, do các phiền não kiết sử che ngăn nên chúng sinh chẳng thấy được.
Này Thiện nam tử! Phật tính chính là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội tính như đề hồ, chính là mẹ của tất cả chư Phật. Do sức của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội mà chư Phật được thường, lạc, ngã, tịnh. Tất cả chúng sinh đều có Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội vì chẳng tu hành nên không được thấy, vì thế nên không thể được thành vô thượng Bồ Đề.
Này Thiện nam tử! Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội có năm tên: Một là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, hai là Bát Nhã Ba La Mật, ba là Kim Cang Tam Muội, bốn là Sư Tử Hống Tam Muội, năm là Phật tính. Tùy theo năng lực chỗ làm của Tam muội mà có tên khác nhau.
Này Thiện nam tử! Như một Tam Muội có nhiều tên, như thiền gọi là tứ thiền, căn gọi là định căn, lực gọi là định lực, giác gọi là định giác, chính gọi là chính định, bát đại nhân giác gọi là định giác, Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội cũng như vậy.
Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh đầy đủ ba môn định: Thượng, Trung và Hạ. Thượng là nói Phật tính, do đây nên nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Trung là tất cả chúng sinh đầy đủ sơ thiền, lúc có nhân duyên thời có thể tu tập, nếu không nhân duyên thời chẳng thể tu tập. Nhân duyên đây có hai thứ: Một là hỏa tai, hai là phá kiết sử cõi dục, do đây nên nói rằng tất cả chúng sinh đều đầy đủ định bậc Trung.
Hạ định là định tâm sở trong mười đại địa, do đây nên nói tất cả chúng sinh đều đầy đủ định bậc hạ.
Tất cả chúng sinh đều có Phật tính vì phiền não che đậy nên chẳng được thấy. Thập trụ Bồ Tát dầu thấy nhất thừa nhưng chẳng biết Như Lai là pháp thường trụ, do đây nên nói rằng Thập trụ Bồ Tát dầu thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng.
Này Thiện nam tử! Thủ Lăng gọi là nhất thiết sự tất cánh, “Nghiêm” là kiên, nhất thiết sự tất cánh mà đặng kiên cố gọi là Thủ Lăng Nghiêm. Do đây nên nói rằng Thủ Lăng Nghiêm định gọi là Phật tính.
Này Thiện nam tử! Một lúc nọ ta ở bên sông Ni Liên Thiền, bảo A Nan rằng: Nay ta muốn tắm rửa, ông nên lấy y và đem tháo đậu. Ta vào trong nước, tất cả loài chim cùng những loài ở trên đất, ở dưới nước đều tụ đến xem ngó ta. Lúc đó lại có năm trăm vị Phạm Chí đi đến bờ sông bảo nhau rằng: Thế nào mà được thân Kim Cương? Nếu giả sử ông Cù Đàm chẳng nói đoạn kiến, ta sẽ theo ông để thỉnh thọ trai pháp.
Này Thiện nam tử! Lúc đó ta dùng tha tâm trí biết tâm niệm của các Phạm Chí, bèn bảo họ rằng tại sao cho rằng ta nói đoạn kiến? Các Phạm Chí đáp: Lúc trước ở trong các kinh Cù Đàm nói tất cả chúng sinh đều không có ngã, đã nói không ngã sao lại chẳng phải đoạn kiến? Nếu không ngã thời ai trì giới? Ai phá giới?
Này các Phạm Chí! Ta nói tất cả chúng sinh đều không ngã. Ta cũng thường tuyên nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính. Phật tính đó há chẳng phải là ngã ư? Do nghĩa này nên ta chẳng nói đoạn kiến. Vì tất cả chúng sinh chẳng thấy Phật tính nên là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, đây thời gọi là nói đoạn kiến vậy.
Lúc đó các Phạm Chí nghe nói Phật tính chính là ngã, liền phát tâm vô thượng Bồ Đề, đồng thời xuất gia tu đạo Bồ Đề. Tất cả những loài chim bay cá lội, thú chạy cũng đều phát tâm vô thượng Bồ Đề, đã phát tâm rồi chúng nó liền được bỏ thân chim thú.
Này Thiện nam tử! Phật tính đây thiệt chẳng phải ngã, vì chúng sinh nên nói là ngã. Vì có nhân duyên nên Như Lai nói vô ngã là ngã, mà thật là vô ngã. Dầu nói như vậy nhưng không hư vọng. Vì có nhân duyên, Như Lai nói ngã là vô ngã, mà thiệt là có ngã. Vì thế giới chúng sinh nên dầu nói vô ngã mà không hư vọng. Phật tính vô ngã Như Lai nói là ngã, vì Phật tính là thường. Như Lai là ngã mà nói là vô ngã, vì được tự tại.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu tất cả chúng sinh đều có Phật tính như Kim Cang Lực Sĩ, do cớ gì mà tất cả chúng sinh chẳng được thấy.
Phật nói: “Này Thiện nam tử! Như sắc pháp dầu có màu xanh, vàng, đỏ, trắng, hình chất dài ngắn, mà kẻ mù chẳng thấy. Dầu chẳng thấy nhưng cũng chẳng thể nói rằng không có xanh, vàng, đỏ, trắng hình chất dài ngắn. Vì dầu rằng người mù chẳng thấy, nhưng người mắt sáng thời được thấy.
Phật tính cũng như vậy, tất cả chúng sinh dầu chẳng được thấy, nhưng Thập Trụ Bồ Tát thấy được một ít phần, đức Như Lai thời thấy rõ hoàn toàn. Thập Trụ Bồ Tát thấy Phật tính như đêm tối thấy hình sắc, Đức Như Lai thấy Phật tính như giữa ban ngày thấy hình sắc.
Như người mắt lòa thấy hình sắc chẳng rõ ràng, lương y điều trị, do công dụng của thuốc nên được rõ ràng. Thập Trụ Bồ Tát cũng như vậy, dầu thấy Phật tính nhưng chẳng được rõ ràng, nhờ năng lực của Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội mà được thấy rõ ràng.
Này Thiện nam tử! Nếu có người thấy tất cả pháp là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp cũng là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, người như vậy thời chẳng thấy Phật tính.
Trên đây nói tất cả pháp đó là nói sinh tử. Còn chẳng phải tất cả pháp đó là nói Tam Bảo.
Hàng Thanh Văn Duyên Giác thấy tất cả pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh; thấy chẳng phải tất cả pháp cũng là vô thường, vô ngã, vô lạc, vô tịnh, vì thế nên chẳng thấy Phật tính.
Thập Trụ Bồ Tát thấy tất cả pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, còn chẳng phải tất cả pháp thời phần ít là thường, lạc, ngã, tịnh do đây nên trong mười phần thấy được một phần.
Chư Phật Thế Tôn thấy tất cả pháp là vô thường, vô lạc, vô ngã, vô tịnh, thấy chẳng phải tất cả pháp là thường, lạc, ngã, tịnh. Vì thế nên Như Lai thấy Phật tính xem như trái A ma lặc trong bàn tay. Do nghĩa này nên Thủ Lăng Nghiêm định gọi là tất cánh.
Này Thiện nam tử! Như đêm mùng một dầu chẳng thấy mặt trăng nhưng chẳng được nói là không. Phật tính cũng như vậy, tất cả phàm phu dầu chẳng được thấy, cũng chẳng được nói rằng không có Phật tính.
Này Thiện nam tử! Phật tính là mười trí lực, bốn vô sở úy, đại bi tam niệm. Tất cả chúng sinh thời có ba thứ ấy, vì sau khi phá trừ phiền não thời được thấy. Hàng nhất xiển đề sau khi phá trừ nhất xiển đề thời có thể được ba thứ ấy. Do nghĩa này nên Phật thường tuyên nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính.
Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh đều đồng có mười hai nhân duyên, cũng có nội, cũng có ngoại.
Những gì là mười hai?
Phiền não quá khứ gọi là “Vô minh”, nghiệp quá khứ gọi là “hành”. Trong đời hiện tại, lúc sơ khởi thọ thai gọi là “thức”. Năm phần nhập thai chưa đủ bốn căn gọi là “danh sắc”. Đầy đủ bốn căn gọi là “lục nhập”. Chưa phân biệt khổ vui gọi là “xúc”. Nhiễm tập một ái gọi là “thọ”. Quen gần ngũ dục thời gọi là “ái”. Tham cầu trong và ngoài thời gọi là “thủ”. Vì sự trong ngoài mà khởi nghiệp thân, khẩu, ý đây gọi là “hữu”. Thức đời hiện tại gọi là vị lai “sinh”. Hiện tại danh sắc, lục, nhập, xúc, thọ thời gọi là vị lai “lão, bệnh, tử” vậy. Đây gọi là mười hai nhân duyên.
Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh dầu có mười hai nhân duyên như vậy, hoặc có kẻ chưa đủ như lúc Ca La Lã chết thời không có mười hai. Từ sinh đến lão tử thời đủ mười hai.
Chúng sinh cõi sắc không có ba thứ thọ, ba thứ xúc, ba thứ ái, không có già bệnh, nhưng cũng được gọi là đầy đủ mười hai.
Chúng sinh cõi vô sắc thời không có sắc nhẫn đến không lão bệnh, nhưng cũng được gọi là đủ mười hai, vì quyết định được vậy. Vì thế nên nói rằng chúng sinh đồng đầy đủ có mười hai nhân duyên.
Phật tính cũng như vậy, tất cả chúng sinh quyết định sẽ đặng thành vô thượng Bồ Đề. Do đây nên Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính.
Này Thiện nam tử! Núi Tuyết có thứ cỏ tên nhẫn nhục, nếu bò ăn cỏ này thời sinh chất đề hồ. Trên núi ấy lại có thứ cỏ khác, nếu bò ăn thứ cỏ ấy thời không sinh chất đề hồ. Dầu không sinh chất đề hồ nhưng chẳng thể nói rằng trong núi Tuyết không có cỏ nhẫn nhục.
Phật tính cũng như vậy. Núi Tuyết là nói Như Lai, cỏ nhẫn nhục là nói Đại Niết Bàn, những cỏ khác là nói mười hai bộ kinh. Chúng sinh nếu có thể được nghe, được học hỏi Đại Niết Bàn thời thấy được Phật tính. Trong mười hai bộ kinh dầu chẳng nghe có, nhưng chẳng thể nói rằng không có Phật tính.
Này Thiện nam tử! Phật tính đây cũng là sắc, cũng là chẳng phải sắc, chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc; cũng là tướng cũng là chẳng phải tướng, chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng; cũng là một cũng là chẳng phải một, chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một; chẳng phải thường chẳng phải đoạn, chẳng phải chẳng phải thường, chẳng phải chẳng phải đoạn; cũng là có cũng là không, chẳng phải có chẳng phải không; cũng là tận cũng là chẳng phải tận, chẳng phải tận, chẳng phải là chẳng phải tận; cũng là nhân cũng là quả, chẳng phải nhân chẳng phải quả; cũng là nghĩa cũng là chẳng phải nghĩa, chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa; cũng là danh tự cũng là chẳng phải danh tự, chẳng phải danh tự chẳng phải là chẳng phải danh tự; cũng là khổ cũng là lạc, chẳng phải khổ chẳng phải lạc; cũng là ngã cũng là chẳng phải ngã, chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã; cũng là không cũng là chẳng phải không, chẳng phải là không chẳng phải là chẳng phải không.
Thế nào là sắc? Vì là thân kim cang. Thế nào là phi sắc? Vì mười tám pháp bất cộng chẳng phải là sắc pháp. Thế nào là chẳng phải sắc chẳng phải là chẳng phải sắc? Vì sắc cũng chẳng phải sắc không có tướng quyết định.
Thế nào là tướng? Vì là ba mươi hai tướng. Thế nào là chẳng phải tướng? Vì tất cả chúng sinh chẳng hiện được tướng tốt. Thế nào là chẳng phải tướng chẳng phải là chẳng phải tướng? Vì tướng cùng chẳng phải tướng không quyết địng vậy.
Thế nào là một? Vì tất cả chúng sinh đều là nhất thừa. Thế nào là chẳng phải một? Vì nói ba thừa vậy. Thế nào là chẳng phải một chẳng phải là chẳng phải một? Vì vô số pháp vậy.
Thế nào là chẳng phải thường? Vì từ nơi duyên mà thấy.
Thế nào là chẳng phải đoạn? Vì lìa đoạn kiến vậy.
Thế nào chẳng phải là chẳng phải thường, chẳng phải là chẳng phải đoạn? Vì không chung không thủy vậy.
Thế nào là có? Vì tất cả chúng sinh đều có. Thế nào là không? Vì từ phương tiện khéo mà đặng thấy vậy. Thế nào là chẳng phải có, chẳng phải không? Vì hư không tính vậy.
Thế nào gọi là tận? Vì đặng Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội. Thế nào là chẳng phải tận? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải tận, chẳng phải là chẳng phải tận? Vì tất cả tướng tận dứt hết vậy.
Thế nào là nhân? Vì liễu nhân vậy. Thế nào là quả? Vì quả quyết định vậy. Thế nào là chẳng phải nhân chẳng phải quả? Vì là thường vậy.
Thế nào là nghĩa? Vì đều có thể nhiếp lấy nghĩa không ngại. Thế nào là chẳng phải nghĩa? Vì chẳng thể nói vậy. Thế nào là chẳng phải nghĩa chẳng phải là chẳng phải nghĩa? Vì rốt ráo không vậy.
Thế nào là danh tự? Vì có tên gọi vậy. Thế nào là chẳng phải danh tự? Vì có tên mà thiệt không tên vậy. Thế nào là chẳng phải danh tự chẳng phải là chẳng phải danh tự? Vì dứt tất cả danh tự vậy.
Thế nào là cũng khổ cũng lạc? Vì các thọ duyên khởi vậy. Thế nào là chẳng phải khổ chẳng phải lạc? Vì dứt tất cả thọ vậy.
Thế nào là chẳng phải ngã? Vì chưa đầy đủ được tám thứ tự tại vậy. Thế nào là chẳng phải chẳng phải ngã? Vì là thường vậy. Thế nào là chẳng phải ngã chẳng phải là chẳng phải ngã? Vì chẳng tạo tác chẳng lãnh thọ vậy.
Thế nào là không? Vì là đệ nhất nghĩa không. Thế nào là chẳng phải không? Vì là thường vậy.Thế nào là chẳng phải không chẳng phải là chẳng phải không? Vì có thể là chủng tử cho pháp lành vậy.
Này Thiện nam tử! Nếu có người tư duy hiểu rõ được kinh Đại Niết Bàn những nghĩa như vậy, nên biết rằng người này thấy được Phật tính. Phật tính đó chẳng thể nghĩ bàn, là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải Thanh Văn Duyên Giác biết được.
Này Thiện nam tử! Phật tính chẳng phải là ấm, giới, nhập, chẳng phải trước không nay có, chẳng phải đã có rồi trở lại không, từ nơi nhân duyên lành mà chúng sinh đặng thấy.
Ví như khối sắt đen để vào lửa đốt thời đỏ, lấy ra nguội thời trở lại đen. Dầu vậy nhưng màu đen này chẳng phải trong chẳng phải ngoài, do nhân duyên mà có.
Phật tính cũng như vậy, lửa phiền não tắt dứt thời chúng sinh được nghe được thấy.
Này Thiện nam tử! Như hột giống biến diệt thời mầm mộng mọc lên, nhưng tính mầm mộng này chẳng phải trong chẳng phải ngoài. Nhẫn đến bông trái cũng như vậy, đều theo nơi duyên mà có.
Kinh Đại Niết Bàn vi diệu này thành tựu đầy đủ vô lượng công đức. Phật tính cũng như vậy đều là vô lượng vô biên công đức kết hợp mà thành tựu.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Bồ Tát thành tựu đầy đủ bao nhiêu pháp thời đặng thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng? Chư Phật Thế Tôn thành tựu bao nhiêu pháp mà được thấy rõ ràng?”.
Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Bồ Tát thành tựu đầy đủ mười pháp dầu được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng: Một là thiểu dục, hai là tri dục, ba là tịch tịnh, bốn là tinh tấn, năm là chính niệm, sáu là chính định, bảy là chính huệ, tám là giải thoát, chín là tán thán giải thoát, mười là dùng Đại Niết Bàn giáo hóa chúng sinh”.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Thiểu dục cùng tri túc có gì sai khác?”.
Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Thiểu dục là chẳng cầu chẳng lấy. Tri túc là lúc đặng ít lòng không hối hận. Thiểu dục là ít có mong muốn. Tri túc là chỉ vì pháp sự lòng chẳng sầu não.
Này Thiện nam tử! Dục đó có ba: Một là ác dục, hai là đại dục, ba là dục dục.
Ác dục là nếu có Tỳ Kheo sinh lòng tham dục muốn làm thượng thủ của tất cả đại chúng, muốn cho tất cả chúng tăng thuận theo phía sau ta, khiến bốn bộ chúng thảy đều cúng dường cung kính tán thán tôn trọng ta. Khiến ta vì chúng thuyết pháp trước nhất, đều muốn cho tất cả tin thọ lời của ta. Cũng khiến Quốc Vương, quan lớn, trưởng giả đều cung kính ta. Khiến ta được nhiều y phục, đồ uống ăn, đồ nằm, thuốc men, nhà cửa tốt đẹp. Đây là cầu muốn sinh tử nên gọi là ác dục.
Đại dục là thế nào? Nếu có Tỳ Kheo sinh lòng cầu muốn làm thế nào cho bốn bộ chúng thảy đều biết ta được bậc sơ trụ những đến thập trụ, được vô thượng Bồ Đề, được quả A La Hán nhẫn đến quả Tu Đà Hoàn, ta được tứ thiền nhẫn đến bốn trí vô ngại. Đây là vì lợi dưỡng nên gọi là đại dục.
Dục dục là, nếu có Tỳ Kheo muốn sinh Phạm Thiên, Ma Thiên, Tự Tại Thiên, Chuyển Luân Thánh Vương, hoặc Sát Đế Lợi, Cư Sĩ, Bà La Môn, đều được tự tại. Vì lợi dưỡng nên gọi là dục dục.
Nếu chẳng bị ba thứ ác dục này làm hại thời gọi là thiểu dục.
Dục đó gọi là hai mươi lăm ái, không có hai mươi lăm ái như vậy thời gọi là thiểu dục. Chẳng cần những sự mong muốn vị lai thời gọi là thiểu dục. Được mà chẳng tham đắm thời gọi là tri túc. Chẳng cầu cung kính gọi là thiểu dục, được mà chẳng chứa nhóm gọi là tri túc.
Này Thiện nam tử! Có lúc thiểu dục chẳng gọi là tri túc, cũng có tri túc chẳng gọi là thiểu dục, cũng có thiểu dục mà cũng tri túc, cũng có chẳng tri túc chẳng thiểu dục.
Thiểu dục đó là nói bậc Tu Đà Hoàn. Tri túc đó là nói Bích Chi Phật. Thiểu dục tri túc đó là nói A La Hán. Chẳng thiểu dục chẳng tri túc đó là nói Bồ Tát.
Này Thiện nam tử! Thiểu dục tri túc lại có hai thứ: Một là thiện, hai là bất thiện. Bất thiện là nói phàm phu. Thiện là nói Thánh nhân và Bồ Tát. Tất cả Thánh nhân dầu chứng được đạo quả mà chẳng tự xưng nói vì chẳng tự xưng nói nên trong lòng chẳng não hận, đây gọi là tri túc.
Này Thiện nam tử! Đại Bồ Tát tu tập kinh Đại Niết Bàn, vì muốn thấy Phật tính nên tu tập thiểu dục tri túc.
Thế nào là tịch tịnh? Tịch tịnh có hai: Một là tâm tịnh, hai là thân tịnh. Thân tịch tịnh thời trọn chẳng gây tạo ba điều ác nơi thân. Tâm tịch tịnh cũng chẳng gây tạo ba điều ác nơi ý, đây gọi là thân tâm tịch tịnh.
Thân tịch tịnh trọn chẳng gần gũi bốn chúng, chẳng dự việc của bốn chúng. Tâm tịch tịnh là chẳng quen tập tham dục, sân khuể, ngu si. Đây gọi là thân tâm tịch tịnh. Hoặc có Tỳ Kheo thân dầu tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh. Có Tỳ Kheo thân chẳng tịch tịnh mà tâm tịch tịnh. Có Tỳ Kheo thân tâm đều tịch tịnh. Lại có Tỳ Kheo thân tâm đều chẳng tịch tịnh.
Người thân tịch tịnh mà tâm chẳng tịch tịnh, như có Tỳ Kheo ngồi thiền chỗ vắng vẻ xa lìa bốn chúng mà trong lòng luôn chứa nhóm tham dục, sân khuể, ngu si.
Người tâm tịch tịnh mà thân chẳng tịch tịnh, như có Tỳ Kheo gần gũi bốn chúng cùng Quốc Vương, đại thần mà trong lòng dứt tham, sân, si. Người thân tâm đều tịch tịnh, chính là chư Phật và Bồ Tát.
Người thân tâm đều chẳng tịch tịnh chính là các phàm phu, vì phàm phu thân tâm dầu yên tịnh nhưng không thể quán sát sâu xa lý vô thường vô lạc vô ngả vô tịnh, do đây nên phàm phu không thể tịch tịnh được thân, khẩu, ý ba nghiệp.
Hạng nhất xiển đề phạm bốn tội nặng, tạo năm tội nghịch cũng chẳng gọi là thân tâm tịch tịnh.
Thế nào là tinh tấn? Nếu có Tỳ Kheo muốn cho thân, khẩu, ý ba nghiệp thanh tịnh nên xa lìa tất cả hạnh nghiệp bất thiện mà tu tập tất cả nghiệp lành, đây gọi là tinh tấn.
Siêng năng tinh tấn như đây thời chuyên niệm tưởng nơi sáu chỗ, chính là Phật Pháp Tăng, giới, thí và thiên, đây gọi là chính niệm.
Người có chính niệm thời được tam muội, đây gọi là chính định.
Người có chính định, quán sát thấy các pháp dường như hư không, đây gọi là chính huệ. Người có chính huệ xa lìa tất cả kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát.
Người được giải thoát vì chúng sinh mà khen ngợi giải thoát, nói rằng giải thoát là thường hằng chẳng biến đổi đây gọi là tán thán giải thoát. Giải thoát chính là vô thượng Đại Bát Niết Bàn. Niết Bàn chính là lửa phiền não kiết sử đã tắt mất. Lại Niết Bàn gọi là nhà cửa, vì có thể ngăn mưa gió phiền não. Lại Niết Bàn gọi là quy y, vì có thể qua khỏi tất cả những sự bố úy. Lại Niết Bàn gọi là cồn bãi, vì bốn con sông lớn hung bạo chẳng thể chảy trôi. Những gì là bốn? Một là dục bạo, hai là hữu bạo, ba là kiến bạo, bốn là vô minh bạo. Do đây nên Niết Bàn gọi là cồn bãi. Lại Niết Bàn gọi là rốt ráo về, vì có thể được tất cả sự an lạc rốt ráo.
Nếu có Đại Bồ Tát thành tựu đầy đủ mười pháp như vậy, thời dầu được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng.
Lại này Thiện nam tử! Người xuất gia có bốn thứ bệnh nên chẳng chứng được bốn quả Sa Môn.
Những gì là bốn bệnh? Chính là bốn ác dục: Một là y phục dục, hai là thực dục, ba là ngọa cụ dục, bốn là hữu dục.
Bệnh xuất gia này, có bốn thứ lương dược trị lành được: Phấn tảo y trị được bệnh y dục của Tỳ Kheo; khất thực trị được bệnh vì thực dục; thọ hạ trị được bịng ngọa cụ dục; thân tâm tịch tịnh phá được hữu dục của Tỳ Kheo.
Đây gọi là bốn thứ thuốc trị bốn thứ bệnh, gọi đó là thánh hạnh. Thánh hạnh này được gọi thiểu dục tri túc.
Người tịch tịnh có bốn điều vui: Một là xuất gia vui, hai là tịch tịnh vui, ba là vĩnh việt vui, bốn là tất cánh vui. Được bốn điều vui này gọi là tịch tịnh.
Đủ bốn hạnh tinh tấn nên gọi là tinh tấn. Đủ tứ niệm xứ nên gọi là chính niệm. Đủ tứ thiền nên gọi là chính định. Thấy bốn điều chân thật của Thánh nên gọi là chính huệ.
Dứt hẳn tất cả phiền não kiết sử gọi là giải thoát. Quỡ trách lỗi của tất cả phiền não gọi là tán thán giải thoát.
Đại Bồ Tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng.
Này Thiện nam tử! Đại Bồ Tát nghe kinh này rồi gần gũi tu tập, xa lìa tất cả việc thế gian, đây gọi là thiểu dục. Đã xuất gia rồi chẳng sinh lòng hối hận, đây gọi là tri túc. Đã tri túc rồi gần ở nơi chỗ vắng vẽ rảnh rang xa lìa chỗ ồn ào thời gọi là tịch tịnh.
Người chẳng tri túc chẳng thích chỗ vắng vẻ rảnh rang. Luận về người tri túc thời thường thích ở chỗ vắng vẻ. Ở chỗ vắng vẽ rồi thường suy nghĩ rằng : Tất cả thế gian đều gọi tôi đặng đạo quả Sa Môn, nhưng thiệt ra tôi chưa đặng, nay tôi sao lại phỉnh gạt mọi người, nghĩ như vậy rồi siêng năng tu tập đạo quả Sa Môn, đây gọi là tinh tấn.
Gần gũi tu tập Đại Niết Bàn, đây gọi là chính niệm. Tùy thuận thiên hạnh gọi là chính định. An trụ trong định này có chính kiến chính tri, đây gọi là chính huệ. Người chính tri kiến có thể xa lìa được kiết sử phiền não, đây gọi là giải thoát.
Thập trụ Bồ Tát vì chúng sinh mà khen ngợi Niết Bàn, đây gọi là tán thán giải thoát.
Đại Bồ Tát đầy đủ mười pháp như vậy, dầu được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng.
Lại này Thiện nam tử! Luận về người thiểu dục như có Tỳ Kheo ở chỗ vắng vẽ ngồi ngay thẳng chẳng nằm, hoặc ở dưới cội cây, hoặc ở trong gò mã, hoặc ở chỗ trống, tùy chỗ có cỏ mà ngồi trên đó, khất thực mà ăn đặng gì cũng là đủ cả. Hoặc một lần ngồi ăn, chẳng quá một lần ăn, chỉ chứa ba y, y phấn tảo, y bố, đây gọi là thiểu dục. Đã thật hành việc này trong lòng chẳng ăn năn, đây gọi là tri túc. Tu không tam muội, đây gọi là tịch tịnh. Đặng bốn quả Sa Môn rồi đối với vô thượng Bồ Đề tâm chẳng thôi dứt, đây gọi là tinht ấn. Chuyên tâm tư duy tính Như Lai là thường không có biến đổi đây gọi là chính niệm. Tu bát giải thoát đây gọi là chính định. Đặng tứ vô ngại đây gọi là chính huệ. Xa lìa bảy thứ lậu, đây gọi là giải thoát. Khen ngợi Niết Bàn không có mười tướng, gọi là tán thán giải thoát. Mười tướng là: Sinh, gìa, bệnh, chết, sắc, thanh, hương, vị, xúc và vô thường. Xa lìa mười tướng này thời gọi là Đại Niết Bàn. Đây gọi là Đại Bồ Tát đầy đủ mười pháp như vậy dầu được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng.
Này Thiện nam tử! Vì đa dục nên gần gũi Quốc Vương, Quan lớn, Trưởng giả, Sát Đế Lợi, Bà La Môn, Tỳ Xá, Thủ Đà, tự xưng là tôi đặng quả Tu Đà Hoàn nhẫn đến quả A La Hán.
Vì lợi dưỡng nên đi đứng ngồi nằm nhẫn đến đại tiện tiểu tiện, nếu thấy đàn việt vẫn chào hỏi tiếp đãi chuyện vãn.
Người phá ác dục gọi là thiểu dục, dầu người này chưa có thể phá hoại phiền não kiết sử, nhưng có thể đồng hành vi với Như Lai, đây gọi là tri túc.
Này Thiện nam tử! Hai pháp như vậy bèn là nhân duyên gần của chính niệm, chính định, thường được sư trưởng bạn học khen ngợi. Trong các kinh Phật cũng thường ngợi khen tán thán tôn trọng pháp như vậy. Nếu có thể đầy đủ hai pháp này thời được gần môn Đại Niết Bàn và năm điều vui, đây gọi là tịch tịnh. Người giữ giới bền chắc gọi là tinh tấn. Người có tàm quí gọi là chính niệm, chẳng thấy tâm tướng gọi là chính định, chẳng cầu tính tướng nhân duyên của các pháp thời gọi là chính huệ. Vì không có tướng nên phiền não dứt, đây gọi là giải thoát. Khen ngợi kinh Đại Niết Bàn này thời gọi là tán thán giải thoát.
Đây gọi là Đại Bồ Tát an trụ mười pháp dầu được thấy Phật tính mà chẳng rõ ràng.
Này Thiện nam tử! Như ông hỏi Thập trụ Bồ Tát dùng con mắt gì mà thấy được Phật tính mà chẳng rõ ràng, chư Phật dùng con mắt gì mà thấy đuợc Phật tính rõ ràng?
Này Thiện nam tử! Do huệ nhãn mà thấy Phật tính thời chẳng được rõ ràng, dùng Phật nhãn mà thấy thời được rõ ràng. Vì hạnh Bồ Đề thời chẳng rõ ràng, nếu vô hành vô tác thời được rõ ràng. Trụ nơi thập trụ thời dầu thấy mà chẳng rõ ràng, nếu chẳng trụ chẳng đi thời thấy được rõ ràng. Đại Bồ Tát vì nhân trí huệ nên thấy chẳng rõ ràng, chư Phật vì dứt nhân quả nên thấy rõ ràng. Bậc nhất thiết giác gọi là Phật tính. Thập trụ Bồ Tát chẳng được gọi là nhất thiết giác, nên dầu thấy mà chẳng rõ ràng.
Này Thiện nam tử! Thấy có hai thứ: Một là con mắt thấy, hai là nghe thấy.
Chư Phật con mắt thấy Phật tính như xem trái cây trong bàn tay. Thập trụ Bồ Tát nghe thấy Phật tính nên chẳng rõ ràng. Thập trụ Bồ Tát dầu có thể tự biết quyết định đặng vô thượng Bồ Đề, mà chẳng biết được tất cả chúng sinh đều có Phật tính.
Này Thiện nam tử! Lại có con mắt ngó thấy: Như Chư Phật cùng Thập trụ Bồ Tát, con mắt thấy Phật tính. Lại có nghe thấy: Như tất cả chúng sinh nhẫn đến Cửu trụ Bồ Tát nghe thấy Phật tính.
Bồ Tát nếu nghe tất cả chúng sinh đều có Phật tính, chẳng sinh lòng tin thời chẳng gọi là nghe thấy.
Nếu có Thiện nam tử, Thiện nữ nhân muốn thấy Như Lai, nên phải tu tập mười hai bộ kinh thọ trì đọc tụng biên chép giải thuyết.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Tất cả chúng sinh chẳng biết được tâm tướng của Như Lai, phải quán tưởng thế nào để đuợc biết?”.
Phật bảo: “Này Thiện nam tử! Tất cả chúng sinh thật ra chẳng biết được tâm tướng của Như Lai. Nếu muốn quan sát để được biết thời có hai nhân duyên. Một là con mắt thấy, hai là nghe thấy. Nếu thấy thân nghiệp của Như Lai, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là con mắt thấy. Nếu xem thấy khẩu nghiệp của Như Lai, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy. Nếu thấy sắc mạo mà tất cả chúng sinh không sánh bằng được, nên biết rằng đây là Như Lai, đây là con mắt thấy. Nếu nghe tiếng tâm vi diệu tối thắng chẳng đồng với tiếng tâm của chúng sinh, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy. Nếu thấy thần thông của Như Lai hiện, thần thông này là vì chúng sinh hay là vì lợi dưỡng? Nếu là vì chúng sinh mà chẳng vì lợi dưỡng, nên biết rằng đây là Như Lai, đây là con mắt ngó thấy. Nếu xem thấy Như Lai lúc dùng tha tâm trí quán sát chúng sinh, vì lợi dưỡng thuyết pháp hay vì chúng sinh thuyết pháp?
Nếu vì chúng sinh mà chẳng vì lợi dưỡng, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.
Tại sao Như Lai thọ thân này? Cớ gì thọ thân? Vì ai mà thọ thân? Đây gọi là con mắt ngó thấy.
Nếu quan sát Như Lai thuyết pháp thế nào? Cớ gì thuyết pháp? Vì ai mà thuyết pháp? Đây gọi là nghe thấy. Dùng nghiệp ác nơi thân gia hại đó mà chẳng sân hận, nên biết rằng đây là Như Lai vậy, đây gọi là con mắt thấy. Dùng nghiệp ác nơi miệng gia hại đó mà chẳng giận, nên biết rằng đây là Như Lai, đây gọi là nghe thấy.
Nếu thấy Bồ Tát lúc mới sinh, ở bốn phương đều đi bảy bước, các thiên thần cầm phan lọng, chấn động vô lượng vô biên thế giới, ánh sáng vàng chói rực khắp hư không, Long Vương dùng thần lực phun nước tắm rửa cho Bồ Tát, Chư Thiên hiện hình tiếp đỡ đỉnh lễ, tiên A Tư Đà chắp tay cung kính, lớn khôn vất bỏ ngũ dục như bỏ nước miếng nước mũi, chẳng bị sự vui trong đời cám dỗ, xuất gia tu hành, thích ở chỗ vắng lặng, vì phá tà kiến nên khổ hạnh sáu năm, đối với chúng sinh bình đẳng không sai khác, tâm thường ở trong chính định không bao giờ tán loạn, tướng hảo trang nghiêm nơi thân, đi đến chỗ nào những gò nỗng đều bằng, y phục cách rời nơi thân bốn tấc chẳng sa xuống, lúc đi nhìn thẳng chẳng ngó hai bên, vật thực của Phật ăn không có lỗi chẳng hoàn toàn, chỗ Phật ngồi đứng cỏ chẳng động loạn, vì điều phục chúng sinh nên qua thuyết pháp mà tâm không kiêu mạn, đây gọi là con mắt thấy.
Nếu nghe Bồ Tát đi bảy bước rồi xướng rằng: “Nay thân này của ta là thân rốt sau cả”. A Tư Đà Tiên chắp tay nói rằng:
- Tâu Đại Vương! Thái Tử Tất Đạt Đa quyết định sẽ thành Vô thượng Bồ Đề, trọn chẳng ở nhà làm Chuyển Luân Vương, vì Chuyển Luân Vương thân tướng chẳng rõ ràng, còn Thái Tử Tất Đại Đa tất cả tướng tốt nơi thân đều sáng rỡ, do đây quyết chắc sẽ được vô thượng Bồ Đề. Lúc thấy người già bệnh chết, Bồ Tát nói rằng: Tất cả chúng sinh thật đáng xót thương, thường ở trong sinh, già, bệnh, chết mà chẳng biết quan sát, ta sẽ dứt trừ sự khổ ấy. Theo học định vô tưởng với Ngũ Thông Tiên Nhân là ông A La Lã, đã thành tựu rồi Bồ Tát bèn nói lỗi của môn định ấy. Lại theo học định phi phi tưởng với Tiên Nhân Uất Đà Dà, đã thành tựu rồi bèn nói định này chẳng phải Niết Bàn, chính là pháp sinh tử. Sáu năm khổ hạnh không có kết quả. Tu khổ hạnh luống vô ích, nếu là hay thời ta đã được kết quả tốt, vì là hư vọng nên ta không được gì, đây gọi là tà thuật, chẳng phải là đạo chân chính.
Lúc đã thành đạo, Phạm Thiên thỉnh: “Ngửa mong đức Như Lai vì chúng sinh mà thuyết pháp cam lộ vô thượng”.
Phật bảo: “Này Phạm Vương! Tất cả chúng sinh thường bị phiền não che đậy chẳng thể lãnh thọ lời dạy về pháp chân chính của Phật”.
Phạm Vương lại bạch: “Thế Tôn! Tất cả chúng sinh phàm có ba hạng: Lợi căn, trung căn và hạ căn. Hạng lợi căn có thể lãnh thọ chính pháp. Xin đức Thế Tôn vì họ mà thuyết pháp”.
Phật nói: “Này Phạm Vương! Lóng nghe! Lóng nghe! Nay Phật sẽ vì tất cả chúng sinh mở cửa cam lộ”.
Ở thành Ba La Nại, chuyển chính pháp luân, tuyên nói trung đạo, vì tất cả chúng sinh chẳng phá trừ các kiết sử, chẳng phải là không thể trừ, chẳng phải phá chẳng phải là chẳng phá, nên gọi là trung đạo.
Chẳng độ chúng sinh, chẳng phải là không độ được nên gọi là trung đạo.
Chẳng phải tất cả thành tựu, chẳng phải là chẳng thành tựu nên gọi là trung đạo.
Phàm có lời nói dạy ra, chẳng tự nói là thấy, chẳng nói là đệ tử, nên gọi là trung đạo.
Thuyết pháp chẳng vì lợi, chẳng phải là không được quả lành nên gọi là trung đạo.
Lời Phật là chính ngữ, thiệt ngữ, thời ngữ, chân ngữ, chẳng hư vọng, là vi diệu đệ nhất.
Đây gọi là nghe thấy.
Này Thiện nam tử! Tâm tướng của Như Lai thiệt ra không thể thấy. Nếu Thiện nam tử, Thiện nữ nhân nào muốn được thấy Như Lai, phải nên y theo hai nhân duyên như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như trước kia nói điều dụ trái am ma la bốn hạng người v.v… Có hạng người việc làm kỹ mà tâm chẳng chính thiệt. Có hạng người tâm kỹ mà việc làm chẳng chính thiệt. Có hạng người tâm kỹ mà việc làm cũng chính thiệt. Có hạng người tâm chẳng kỹ việc làm cũng chẳng chính thiệt.
Thế Tôn! Hai hạng đầu, làm thế nào biết được? Như lời Phật nói, dầu y theo hai nhân duyên ấy, cũng chẳng thể biết được.
Phật nói: “Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử! Điều dụ trái am ma la, hai hạng người này thiệt khó biết được. Vì khó biết, nên trong kinh Phật nói phải cùng họ ở chung. Ở chung nếu chẳng biết được thời phải ở lâu. Ở lâu nếu chẳng biết được thời nên dùng trí huệ. Dùng trí mà chẳng biết thời nên quán sát suy gẫm kỹ. Do quán sát suy gẫm thời biết là trì giới cùng phá giới.
Này Thiện nam tử! Đầy đủ bốn điều: Ở chung, ở lâu, trí huệ, quán sát rồi sau mới biết là trì giới cùng phá giới.
Này Thiện nam tử! Giới có hai thứ, trì giới cũng hai: Một là giới cứu cánh, hai là giới chẳng cứu cánh.
Có người do nhân duyên nên thọ trì cấm giới, người trí phải quán sát người này trì giới là vì lợi dưỡng hay là vì cứu cánh.
Giới của đức Như Lai không có nhân duyên, vì thế nên được gọi là giới cứu cánh.
Do nghĩa này nên Bồ Tát dầu bị chúng sinh ác làm tổn hại mà chẳng có lòng giận hờn. Do đây nên Như Lai đặng gọi là thành tựu trì giới cứu cánh.
Này Thiện nam tử! Xưa kia có một lúc ta cùng Xá Lợi Phất và năm trăm đệ tử đồng ở nơi nước Ma Dà Đà trong thành Chiêm Bà. Có thợ săn đuổi theo một con bồ câu. Bồ câu này sợ hãi đến nơi bóng của Xá Lợi Phất vẫn còn run sợ, nó chạy đến trong bóng của ta thời thân tâm an ổn hết kinh sợ. Do đây nên biết đức Như Lai trì giới rốt ráo nhẫn đến bóng của thân còn có năng lực như vậy.
Này Thiện nam tử! Giới chẳng cứu cánh còn chẳng được quả Thanh Văn, Duyên Giác, huống là có thể được quả vô thượng Bồ Đề.
Lại có hai thứ: Một là vì lợi dưỡng, hai là vì chính pháp. Vì lợi dưỡng mà thọ trì cấm giới, nên biết giới này chẳng thấy được Phật tính cùng Như Lai. Dầu nghe Phật tính và danh tự Như Lai nhưng vẫn chẳng được gọi là nghe thấy.
Nếu vì chính pháp mà thọ trì cấm giới, nên biết giới này có thể thấy được Phật tính cùng Như Lai, đây gọi là con mắt thấy cũng gọi là nghe thấy.
Lại có hai thứ: Một là căn sâu khó lay khó nhổ, hai là căn cạn dễ động. Nếu có thể tu tập không, vô tướng, vô nguyện, đây gọi là căn sâu. Nếu chẳng tu tập ba môn tam muội này, hoặc dầu tu tập mà vì hai mươi lăm cõi, đây gọi là căn cạn.
Lại có hai thứ: Một là vì thân mình, hai là vì chúng sinh. Người vì chúng sinh thời có thể thấy Phật tính và Như Lai.
Người trì giới lại có hai hạng, một là tính tự hay là trì giới, hai là cần phải người khác dạy bảo nếu đã thọ giới trải qua vô lượng đời không sai phạm hoặc ở nhằm nước ác, gặp bạn ác, thời kỳ ác, đời ác, gặp pháp ác gian tà, ở chung với kẻ tà kiến, dầu như vậy, nhưng người này vẫn giữ gìn giới pháp như cũ không có hủy phạm, đây gọi là tính tự hay trì giới. Nếu là người gặp Sư Tăng Bạch Tứ Yết Ma mà đắc giới, thời cần phải nương nhờ Hòa Thượng, các Sư Tăng, bạn lành dạy bảo, mới biết oai nghi cử chỉ đúng pháp, đây gọi là hạng người cần nhờ sự dạy bảo.
Người tính tự hay trì giới thời con mắt thấy Phật tính và thấy Như Lai, cùng gọi là nghe thấy.
Giới lại có hai: Một là giới Thanh Văn, hai là giới Bồ Tát từ sơ phát tâm nhẫn đến đặng vô thượng Bồ Đề, đây gọi là giới Bồ Tát. Nếu quán bạch cốt nhẫn đến chứng quả A La Hán đây gọi là giới Thanh Văn.
Nếu có người trì giới Thanh Văn, nên biết rằng người này chẳng thấy Phật tính và Như Lai. Nếu có người trì giới Bồ Tát, nên biết rằng người này được vô thượng Bồ Đề, thấy được Phật tính và Như Lai Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà thọ trì cấm giới?”.
Phật nói: “Này Thiện nam tử! Vì tâm chẳng hối hận. Cớ gì chẳng hối hận ? Vì hưởng thọ an lạc. Cớ gì hưởng thọ an lạc? Vì xa lìa. Cớ gì xa lìa? Vì an ổn. Cớ gì an ổn ? Vì thiền định. Cớ gì thiền định Vì tri kiến chân thật. Cớ gì tri kiến chân thật? Vì thấy những lỗi họa của sinh tử. Cớ gì thấy lỗi sinh tử? Vì tâm chẳng tham đắm. Cớ gì tâm chẳng tham đắm? Vì được giải thoát. Cớ gì được giải thoát? Vì được vô thượng Đại Niết Bàn. Cớ gì được Đại Niết Bàn? Vì được thường, lạc, ngã, tịnh. Cớ gì được thường, lạc, ngã, tịnh? Vì được bất sinh bất diệt. Cớ gì được bất sinh bất diệt? Vì thấy Phật tính. Do đây nên Bồ Tát tính tự hay trì giới cứu cánh.
Này Thiện nam tử! Tỳ Kheo trì giới dầu chẳng phát nguyện cầu tâm chẳng hối hận, mà tự nhiên được, vì pháp tính như vậy. Dầu chẳng cầu vui, xa lìa , an ổn, tri kiến chân thật, thấy lỗi sinh tử, tâm chẳng tham đắm, giải thoát, Niết Bàn, thường, lạc, ngã,tịnh, bất sinh, bất diệt, cùng thấy Phật tính, nhưng tự nhiên được tất cả, vì pháp tính như vậy.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế` Tôn! Nếu do trì giới mà đặng quả chẳng ăn năn, nhân nơi giải thoát mà đặng quả Niết Bàn, thời giới là không nhân, Niết Bàn là không quả. Giới nếu không nhân thời gọi là thường, Niết Bàn có nhân thời là vô thường. Nếu như vậy, thời Niết Bàn là trước không mà nay có. Nếu trước không mà nay có thời là vô thường, như thắp ngọn đèn. Niết Bàn nếu như vậy thời thế nào được gọi là ngã, lạc, tịnh ư?
Phật nói: “Này Thiện nam tử! Lành thay! Lành thay! Ông đã từng ở nơi vô lượng chư Phật trồng những thiện căn, mới có thể hỏi Như Lai thâm nghĩa như vậy?”.
Này Thiện nam tử! Ông chẳng mất bổn niệm mới hỏi như vậy ư?
Ta nhớ thuở xưa, cách đây vô lượng kiếp, nơi thành Ba La Nại có đức Phật ra đời hiệu là Thiện Đức. Đức Phật đó diễn nói kinh Đại Niết Bàn này, trong ba ức năm. Lúc đó ta cùng ông đều ở trong pháp hội đó. Ta đem việc này để hỏi đức Phật Thiện Đức. Lúc ấy đức Phật Thiện Đức vì chúng sinh mà nhập chính định nên chưa đáp nghĩa này.
Lành thay! Ông bèn có thể nhớ được việc cũ. Lóng nghe! Lóng nghe! Ta sẽ vì ông giải nói.
Này Thiện nam tử! Giới cũng có nhân, chính là nghe chính pháp. Nghe chính pháp cũng có nhân, chính là gần bạn lành. Gần bạn lành cũng có nhân, chính là tín tâm. Người có tín tâm cũng có nhân, chính là nghe pháp và tư duy ý nghĩa. Tín tâm nhân nơi nghe pháp, nghe pháp nhân nơi tín tâm, hai pháp này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả, mà cũng là quả quả. Như Ni Kiền Tử dựng ba cây tréo để bình tròn, làm nhân quả cho nhau chẳng rời được.
Này Thiện nam tử! Như vô minh, duyên hành, hành duyên vô minh, vô minh và hành này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả. Sinh duyên lão tử, lão tử duyên sinh, sinh cùng lão tử này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Này Thiện nam tử! Pháp sinh có thể sinh ra pháp mà chẳng thể tự sinh, vì chẳng tự sinh nên do sinh mà sinh sinh. Sinh sinh chẳng tự sinh lại nhờ sinh mà sinh, vì thế nên hai thứ sinh này cũng là nhân mà cũng là nhân nhân, cũng là quả mà cũng là quả quả.
Này Thiện nam tử! Tín tâm và nghe pháp cũng như vậy.
Là quả mà chẳng phải nhân chính là Đại Niết Bàn.
Cớ gì gọi là quả? Vì là quả vô thượng, là quả Sa Môn, là quả Bà La Môn, vì dứt sinh tử, vì phá phiền não, do đây nên gọi là quả. Vì bị các phiền não quở trách nên Niết Bàn gọi là quả. Phiền não gọi là lỗi lầm trên lỗi lầm.
Này Thiện nam tử! Niết Bàn không có nhân mà thể của nó là quả. Vì nó không sinh diệt, vì không chỗ tạo tác, vì chẳng phải hữu vi, vì là vô vi, vì thường chẳng biến đổi, vì không chỗ nói, vì không thỉ chung.
Này Thiện nam tử! Nếu Niết Bàn có nhân thời chẳng đặng gọi là Niết Bàn. Bàn là nói nhân, Niết là nói không, không có nhân nên gọi là Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Như lời Phật nói Niết Bàn là không nhân. Lời này không đúng. Nếu nói là không thời hiệp sáu nghĩa: Một là tất cánh không nên gọi là không, như tất cả pháp không có ngã không có ngã sở. Hai là có lúc không nên gọi là không, như người đời nói sông ao không có nước, không có mặt trời mặt trăng. Ba là vì ít nên nói là không, như người đời nói trong đồ ăn ít mặn thời gọi là không mặn, nước ngọt ít ngọt thời gọi là không ngọt. Bốn là không lãnh thọ nên gọi rằng không, như Chiên Đà La không thể thọ trì pháp Bà La Môn, nên gọi là không Bà La Môn. Năm là vì thọ pháp ác nên gọi là không, như người đời nói người thọ pháp ác chẳng gọi là Sa Môn, chẳng gọi là Bà La Môn, nên nói không có Sa Môn và Bà La Môn. Sáu là vì đối đãi mà gọi là không, như không trắng gọi đó là đen, không sáng gọi đó là vô minh.
Thế Tôn! Niết Bàn cũng như vậy, có lúc không nhân nên gọi là Niết Bàn.
Phật nói: “Này Thiện nam tử Nay ông nói sáu nghĩa như vậy, cớ sao ông không dẫn rốt ráo không để dụ cho Niết Bàn, mà ông lại lấy có lúc không, để lệ cho Niết Bàn như vậy.
Này Thiện nam tử! Thể của Niết Bàn rốt ráo không nhân, cũng như không ngã và không ngã sở.
Này Thiện nam tử! Pháp thế gian cùng Niết Bàn trọn chẳng tương đối nhau, vì thế nên sáu việc của ông dẫn ra chẳng làm ví dụ được.
Này Thiện nam tử! Tất cả pháp đều không có ngã, mà Niết Bàn này thiệt không có ngã, do nghĩa này nên Niết Bàn không nhân mà thể của nó là quả. Là nhân mà chẳng phải qủa gọi là Phật tính, vì chẳng phải do nhân sinh, vì chẳng phải quả của Sa Môn nên gọi là chẳng phải quả. Cớ gì gọi là nhân, vì là liễu nhân vậy.
Này Thiện nam tử! Nhân có hai thứ: Một là sinh nhân, hai là liễu nhân. Hay sinh ra pháp thời gọi là sinh nhân. Đèn hay chiếu rõ đồ vật, nên gọi là liễu nhân. Phiền não kiết sử thời gọi là sinh nhân. Cha mẹ của chúng sinh thời gọi là liễu nhân. Như hột lúa v.v… thời gọi là sinh nhân. Đất nước phân tro v.v… thời gọi là liễu nhân. Lại có sinh nhân, chính là sáu môn Ba La Mật, vô thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhân, chính là Phật tính vô thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhân, chính là sáu môn Ba La Mật, Phật tính. Lại có sinh nhân, chính là Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội Vô Thượng Bồ Đề. Lại có liễu nhân, chính là Bát Chính Đạo Vô Thượng Bồ Đề. Lại có sinh nhân, chính là tín tâm sáu môn Ba La Mật.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như Phật nói: Thấy Như Lai và Phật tính, ý nghĩa đó như thế nào?”.
Bạch Thế Tôn! Thân Như Lai không có tướng mạo, chẳng phải dài ngắn trắng đen, không có phương sở, chẳng ở trong tam giới, chẳng phải tướng hữu vi, chẳng phải nhãn thức thấy được, như thế thời làm sao có thể thấy được, Phật tính cũng vậy”.
Phật nói: “Này Thiện nam tử! Thân của Phật có hai thứ: Một là thường, hai là vô thường. Thân vô thường chính là vì muốn độ thoát tất cả chúng sinh nên phương tiện thị hiện, thân này con mắt thấy được. Thân thường trụ chính là thân giải thoát của Như Lai, thân này cũng gọi là con mắt thấy, cũng gọi là nghe thấy.
Phật tính cũng có hai thứ: Một là có thể thấy, hai là chẳng thể thấy. Có thể thấy là nói bậc Thập trụ Bồ Tát và chư Phật. Chẳng thể thấy là nói tất cả chúng sinh. Con mắt có thấy, chính là Thập trụ Bồ Tát và chư Phật con mắt ngó thấy Phật tính của chúng sinh. Có nghe thấy, là tất cả chúng sinh và Cửu Trụ Bồ Tát nghe có Phật tính.
Thân của Phật lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là thân giải thoát của Như Lai. Là chẳng phải sắc vì đức Như Lai đã dứt hẳn sắc căn.
Phật tính lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là vô thượng Bồ Đề. Là chẳng phải sắc chính là phàm phu nhẫn đến Thập Trụ Bồ Tát. Vì Thập Trụ Bồ Tát chẳng thấy rõ ràng nên gọi là chẳng phải sắc. Phật tính lại có hai thứ: Một là sắc, hai là chẳng phải sắc. Là sắc chính là chư Phật và Bồ Tát. Là chẳng phải sắc chính là tất cả chúng sinh. Là sắc gọi rằng con mắt thấy. Là phi sắc gọi rằng nghe thấy.
Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài, dầu chẳng phải trong ngoài nhưng chẳng phải là hư mất, nên gọi rằng chúng sinh đều có Phật tính.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Như Phật nói tất cả chúng sinh đều có Phật tính như trong sữa có chất lạc. Kim Cang lực sĩ, chư Phật, Phật tính như đề hồ trong sạch. Cớ sao đức Như Lai nói rằng Phật tính chẳng phải trong chẳng phải ngoài?”.
Phật nói: “Này Thiện nam tử! Ta cũng chẳng nói rằng trong sữa có chất lạc. Vì chất lạc từ sữa sinh ra nên nói rằng có chất lạc”.
Thế Tôn! Tất cả sinh pháp đều có thời tiết.
Này Thiện nam tử! Lúc là sửa thời không có chất lạc, củng không có các chất sinh tô, thục tô, đề hồ. Tất cả chúng sinh cũng gọi đó là sửa. Vì thế nên ta nói rằng trong sửa không có chất lạc. Như trong sửa đồng thời có chất lạc, cớ sao chẳng đồng thời có hai thứ tên. Như người có hai nghề thời gọi rằng thợ vàng sắt. Lúc là chất lạc không có sửa cũng như không có sinh tô, thục tô và đề hồ. Chúng sinh cũng gọi là chất lạc chẳng phải sửa, sinh tô thục tô và đề hồ.
Này Thiện nam tử! Nhân có hai thứ: Một là chính nhân, hai là duyên nhân. Chính nhân là như sửa sinh chất lạc. Duyên nhân là như ủ ấm. Vì từ sửa sinh nên gọi là trong sửa có tính chất lạc.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Nếu sửa không tính chất lạc, trong sừng bò cũng không có, cớ sao chẳng từ trong sừng bò mà sinh?”.
Này Thiện nam tử! Sừng bò cũng sinh chất lạc. Vì ta nói rằng duyên nhân có hai thứ: Một là ủ, hai là ấm. Tính sừng bò là ấm nên cũng có thể làm duyên sinh chất lạc.
Bạch Thế Tôn! Nếu sừng bò có thể sinh chất lạc, người tìm chất lạc cớ sao lại tìm nơi sửa mà chẳng dùng sừng.
Này Thiện nam tử! Do cớ đó nên ta nói có chính nhân có duyên nhân.
Thế Tôn! Nếu trong sửa vốn không tính của chất lạc nay mới có, trong sửa vốn không tính cây am ma la, cớ sao chẳng sinh cây am ma la, vì trong sửa cả hai tính đều không.
Này Thiện nam tử! Sữa cũng có thể sinh cây am ma la, nếu dùng sửa tưới trong nột đêm, cây am ma la cao thêm năm thước. Do nghĩa này nên ta nói có hai thứ nhân.
Này Thiện nam tử! Nếu tất cả pháp chỉ có một nhân sinh ra thời mới có thể vấn nạn như lời của ông vừa nói.
Này Thiện nam tử! Như tứ đại làm nhân duyên có ra tất cả sắc pháp. Nhưng sắc pháp mỗi mỗi riêng khác chẳng đồng nhau, do nghĩa này nên trong sửa chẳng sinh cây am ma la.
Bạch Thế Tôn! Như Phật nói có hai nhân là chính nhân và duyên nhân, Phật tính của chúng sinh thuộc về nhân nào?
Này Thiện nam tử! Phật tính của chúng sinh cũng hai thứ nhân: Một là chính nhân, hai là duyên nhân. Chính nhân đó chính là các chúng sinh. Duyên nhân đó chính là sáu môn Ba La Mật.
Bạch Thế Tôn! Nay tôi quyết định biết rằng trong sửa có tính chất lạc. Vì tôi thấy trong đời những người tìm chất lạc chỉ lấy nơi trong sửa mà trọn chẳng lấy trong những vật khác. Do đây nên biết rằng trong sửa có tính của chất lạc.
Này Thiện nam tử! Như lời của ông hỏi, theo nghĩa thời chẳng đúng. Ví như có người muốn soi thấy hình bóng của mặt mình bèn lấy con dao sáng.
Bạch Thế Tôn! Do nghĩa này nên trong sửa có tính của chất lạc, vì nếu trong dao không có hình bóng của gương mặt, cớ gì lại lấy dao.
Này Thiện nam tử! Nếu trong con dao này quyết định có hình bóng của gương mặt, cớ sao lại điên đảo: Dựng đứng thời thấy hình dài, cầm ngang thời thấy bóng rộng. Nếu là mặt của mình cớ sao lại thấy dài? Nếu là mặt người khác thời đâu được gọi rằng là hình bóng của mặt mình. Nếu nhân mặt mình mà thấy mặt người khác, cớ sao chẳng thấy bóng của lừa của ngựa?
Bạch Thế Tôn! Nhãn quang đến nơi kia nên thấy bóng mặt.
Này Thiện nam tử! Thật ra nhãn quang này chẳng đến nơi kia, vì xa gần đồng một thời đều được thấy cả, vì chẳng thấy những vật ở chặng giữa vậy.
Nhãn quang nếu đến nơi kia mà được thấy, thời tất cả chúng sinh đều thấy lửa cớ sao chẳng bị cháy? Như người thấy vật trắng ở xa thời chẳng nên nghi rằng đó là chim hạc? Là phan? Là người? Là cây? Nếu nhãn quang đến nơi kia thế nào thấy được vật ở trong bình thủy tinh, cá cùng đá ở dưới vực sâu. Nếu nhãn quang chẳng đến mà thấy cớ sao thấy được vật trong bình thủy tinh, mà chẳng thấy được vật ở ngoài vách. Do lẽ này nên nếu nói rằng nhãn quang đến nơi kia mà được thấy đó là không đúng.
Này Thiện nam tử! Như ông vừa nói trong sửa có tính của chất lạc, cớ sao người bán sửa chỉ lấy giá tiền sửa mà chẳng đòi tiền chất lạc. Người bán ngựa cái cớ sao chỉ lấy tiền ngựa mà chẳng đòi tiền ngựa con.
Này Thiện nam tử! Người đời vì không con cái nên cầu cưới vợ. Vợ nếu có thai nghén thời chẳng được gọi là con gái. Nếu nói là con gái có tính của con cái nên phải cưới hỏi thời không đúng. Vì nếu có tính của con cái lẽ ra cũng phải có tính của cháu. Nếu có tính của cháu thời thành ra anh em, vì đồng một bụng sinh ra vậy. Do đây nên ta nói rằng nơi người con gái không có tính của con cái.
Nếu trong sửa kia có tính của chất lạc cớ sao chẳng thấy cả năm vị đồng một thời. Nếu trong hột cây có tính chất của cây ni câu đà cao năm trượng, cớ sao chẳng thấy mọng cây, nhánh lá, bông trái, hình sắc sai khác của cây đồng một thời.
Này Thiện nam tử! Lúc là sữa thời màu khác, vị khác công dụng khác, nhẫn đến đề hồ cũng lại như vậy. Làm sao có thể nói được rằng trong sửa có tính của chất lạc.
Này Thiện nam tử! Như có người sáng ngày sẽ uống chất tô, giờ đây đã sợ hôi. Nếu nói rằng trong sữa quyết định có chất lạc thời cũng như vậy.
Ví như có người dùng viết giấy mực hòa hiệp thành chữ, mà trong giấy này vốn không có chữ, vì vốn không có nên nhờ duyên mà thành có, nếu vốn đã có thời cần gì các duyên.
Như xanh vàng hợp lại thành màu lục, nên biết hai màu này vốn không có tính của màu lục, nếu vốn đã có cần gì phải hiệp lại mới thành.
Như chúng sinh do ăn mà được sống. Nhưng trong vật thực này thiệt không có mạng sống. Nếu vốn đã có mạng sống thời lúc chưa ăn lẽ ra vật thực này là mạng sống.
Này Thiện nam tử! Tất cả các pháp vốn không có tính, do nghĩa này nên ta nói kệ rằng:
Trước không nay có.
Trước có nay không.
Ba đời có pháp.
Không có lẽ đó.
Này Thiện nam tử! Tất cả pháp do nhân duyên mà sinh cũng do nhân duyên mà diệt.
Nếu chúng sinh có Phật tính, thời tất cả chúng sinh lẽ ra có thân Phật như ta hôm nay.
Phật tính của chúng sinh chẳng hư, chẳng hoại, chẳng bị kéo, bị bắt, chẳng bị trói, bị buộc. Như trong chúng sinh có hư không, vì tất cả chúng sinh đều có hư không chẳng chướng ngại, chúng sinh đều chẳng tự thấy mình có hư không này. Giả sử nếu chúng sinh chẳng có hư không, thời không có những sự đến đi dứng ngồi nằm, chẳng sống chẳng lớn. Do nghĩa này nên trong kinh ta nói tất cả chúng sinh đều có hư không giới, hư không giới đây gọi là hư không. Phật tính của chúng sinh cũng như vậy. Bậc Thập trụ Bồ Tát thấy được phần ít như châu kim cương.
Này Thiện nam tử! Phật tính của chúng sinh là cảnh giới của chư Phật, chẳng phải là hàng Thanh Văn, Duyên Giác biết được. Tất cả chúng sinh vì chẳng thấy Phật tính nên thường bị phiền não trói buộc mà phải lưu chuyển trong sinh tử. Chư Phật vì thấy Phật tính nên phiền não kiết sử chẳng trói buộc được, do đây giải thoát sinh tử đặng Đại Niết Bàn.
Sư Tử Hống Bồ Tát bạch rằng: “Thế Tôn! Tất cả chúng sinh có tính của Phật tính như tính chất lạc trong sữa. Nếu sửa không tính chất lạc, tại sao Phật nói có hai thứ nhân: Chính nhân và duyên nhân. Duyên nhân có hai: Ủ và ấm. Hư không vì là không tính nên không có duyên nhân.
Này Thiện nam tử: Giả sử trong sữa quyết định có tính chất lạc, cần gì đến duyên nhân?
Bạch Thế Tôn! Vì có tính nên phải cần duyên nhân. Vì muốn thấy rõ vậy. Duyên nhân đó chính là liễu nhân. Như trong nhà tối đã trước có những đồ vật, vì muốn thấy rõ nên dùng đèn soi sáng. Nếu vốn không đồ vật thời đèn soi sáng những gì? Như trong đất sét có bình, nên cần nhân công, nước, vòng dây, gậy v.v… mà làm liễu nhân. Như hột ni câu đà cần đến nước, đất, phân mà làm liễu nhân. Trong sửa cũng như vậy, phải nhờ ủ ấm làm liễu nhân. Vì thế nên dầu trước đã có tính phải nhờ liễu nhân rồi sau mới được thấy. Do nghĩa này nên quyết định biết trong sửa trước có tính của chất lạc.
Này Thiện nam tử! Giả sử nếu trong sửa quyết định có tính của chất lạc thời tính này chính là liễu nhân. Nếu đã là liễu nhân lại cần gì phải dùng liễu.
Này Thiện nam tử! Nếu liễu nhân đây tính nó là liễu thời lẽ ra phải thường tự liễu. Nếu chẳng tự liễu thời đâu có thể liễu cái khác.
Nếu nói liễu nhân có hai thứ tính: Một là tự liễu, hai là liễu tha, thời không đúng nghĩa. Vì một pháp liễu nhân làm sao lại có hai thứ tính? Nếu có hai tính thời sửa lẽ ra cũng có hai thứ. Giả sử trong sửa không có hai thứ, tại sao liễu nhân lại riêng có hai tính?
Bạch Thế Tôn! Như người đời nói rằng chúng tôi cộng có tám người: Liễu nhân cũng như vậy: Tự liễu và liễu tha.
Này Thiện nam tử! Liễu nhân nếu như vậy thời chẳng phải là liễu nhân, vì là số, có thể đếm, sắc của mình, sắc của người nên được nói là tám, mà sắc tính này tự nó không có liễu tướng, vì không liễu tướng phải nhờ trí tính mới đếm được tự và tha. Do đây nên liễu nhân chẳng thể tự liễu cũng chẳng liễu được tha.
- 12
Viết bình luận