Đối tượng Quy y
1.1. Phật Bảo
Đối tượng đầu tiên của quy y là Phật. Chúng ta quy y Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Ngài là bậc Giác ngộ tỉnh thức đã thấu rõ chân lý của vạn pháp, thị hiện trong hình tướng loài người để khai sáng Ánh đạo vàng. Bậc Giác ngộ đã đản sinh cách đây 2.500 năm tại Ấn Độ với tiểu sử, công hạnh được ghi nhận rõ ràng. Những Thánh tích nơi Đức Phật đản sinh, chuyển pháp luân, hoằng pháp hay thể nhập Niết Bàn đều còn được lưu dấu. Tất cả giáo lý chúng ta được tiếp cận đều do Đức Phật Thích Ca tuyên thuyết, các bậc Thầy giác ngộ sau này đều phát huy giáo pháp của Ngài nên chúng ta phải biết đến và tri ân Ngài là Bậc Thầy gốc của mình. Trên thực tế, Đức Phật chưa từng bao giờ bỏ rơi mà vẫn ở bên cạnh âm thầm nâng đỡ chúng sinh, chỉ do nghiệp chướng ngăn che nên chúng ta không nhận thấy Ngài. Nhưng nếu có lòng thành kính, đức tin chí thành hướng về Quy y nơi Ngài thì đồng thanh tương ứng sẽ có thể cảm thấu sự hiện diện gia trì của Ngài. Cho nên chúng ta có đức tin rằng Đức Phật vẫn ở đây, vẫn luôn luôn bên cạnh và không bao giờ từ bỏ hạnh nguyện cứu độ chúng sinh.
Khi quy y Bản sư Thích Ca Mâu Ni, chúng ta phải hiểu về hồng danh cũng là những công hạnh và năng lực của Ngài. Chữ Thích Ca Mâu Ni Phật là tiếng Ấn Độ. Khi dịch nghĩa sang tiếng Trung Quốc thì có hai nghĩa là Năng nhân và Tịch mặc.
“Năng nhân” có nghĩa là “sức mạnh của lòng từ bi” vô ngã bình đẳng đã trở thành năng lực vĩ đại để Đức Phật có thể cứu khổ cho chúng sinh. Tình thương của Đức Phật bình đẳng, có năng lực chuyển hóa mọi khổ đau giúp chúng sinh chứng đạt hạnh phúc giác ngộ. Chính lòng từ bi đã trở thành năng lực để Ngài có thể thị hiện vô số thân, bất cứ ai cầu đến, Ngài đều có thể cứu khổ. Sức mạnh của lòng từ bi đã giúp Đức Phật bao nhiêu kiếp không nhàm mỏi trong sự nghiệp cứu độ chúng sinh. Trong kinh Bồ Tát Giới, đích thân Đức Phật Thích ca nói: “Ta đã tám nghìn lần đến thế giới Sa bà”. Cho nên Ngài có danh hiệu là “Năng nhân” hay chúng ta có thể hiểu là “Từ bi”.
Còn “Tịch mặc” có nghĩa là Trí tuệ. “Tịch” là có trí tuệ thấu đáo ngoại cảnh, “Mặc” là có trí tuệ để đối diện chính nội tâm mình. Ngoại cảnh bên ngoài bao gồm thành bại, thịnh suy, vinh nhục, khen chê, đói khát, nóng lạnh hay khổ thuộc về bên ngoài không làm dao động Đức Phật. Trong lịch sử Đức Phật Thích Ca có câu “Núi tuyết tu hành sáu năm khổ hạnh”. Những năm dài tu hành khổ hạnh nhịn ăn uống, chịu bao vất vả ngoại cảnh chưa bao giờ làm Ngài nao núng. Trong Kinh Đức Phật dạy rằng: “Chiến thắng trăm quân chưa phải là chiến công oanh liệt. Người chiến thắng chính mình mới là người oanh liệt nhất”. Sức mạnh nội tâm đã khiến Ngài chiến thắng mọi ngoại cảnh, trước thành bại, thịnh suy, vinh nhục, đói khát, khen chê… tâm Ngài vẫn bất động cho nên gọi Ngài là Tịch. Còn nghĩa chữ Mặc thể hiện sức mạnh của Ngài không để các trạng thái tâm chi phối, những ma chướng đến từ tâm tham, sân, giận, ghét, ái dục, vô minh đều không làm Ngài dao động. Như vậy, cả ngoại cảnh lẫn nội tâm đều không làm Ngài dao động, mê mờ, khác hẳn chúng sinh luôn bị ngoại cảnh và những xúc tình tiêu cực tham, sân, si… chi phối.
Như vậy danh hiệu của Đức Phật Thích ca gồm cả hai phần Từ bi và Trí tuệ. Là đệ tử của Phật chúng ta phải thừa hưởng được gia tài Ngài để lại cho chúng sinh. Đó chính là kho báu của năng lực từ bi và trí tuệ. Gia tài ấy ai cũng có nhưng do chúng ta quên mất cách dùng nên vẫn mãi mắc mớ loanh quanh trong vòng khổ.
Sau khi hiểu về danh hiệu của Đức Phật, chúng ta phải biết rằng Đức Phật là bậc toàn giác, toàn tri, với năng lực từ bi uy dũng vô song không gì có thể so sánh được. Nên chúng ta phải rất hân hạnh được làm đệ tử quy y dưới gót sen của Ngài.
a. Mười danh hiệu của Đức Phật
Chúng ta phải biết về danh xưng của Đức Phật để phát khởi tâm rung động chí thành khi nghe danh hiệu Ngài và trưởng dưỡng niềm tin sâu sắc vào Thượng sư. Đức Phật nào cũng có mười danh hiệu sau đây:
Như Lai
Trong hồng danh này, từ “Như” có nghĩa là bất động, bất biến, không thay đổi, từ “Lai” có nghĩa là đến. Như Lai có nghĩa là tuy Đức Phật đến với cuộc đời nhưng Ngài không hề rời tự tính bất động, luôn an trụ trong tâm bất động, bất biến, không thay đổi, song vẫn thường đến với cuộc đời để thực hiện vô vàn thiện hạnh lợi ích chúng sinh. Cuộc đời ngũ trược ác thế này nhưng không có gì khuấy động được tâm Ngài, cũng như Ngài vẫn an trụ trong tự tính tâm, vẫn thực hiện vô số công hạnh lợi ích đến tất cả mọi người, mọi loài. Kinh có nói: “Vào đời không rời tự tính. Nhập thế không rời Niết bàn”. Đối với chư Phật các Ngài đều làm được như vậy.
Ứng Cúng
Trong hồng danh này, “Ứng” có nghĩa là tương ứng hay ứng hợp, “Cúng” có nghĩa là cúng dàng. Như vậy, Ứng Cúng có nghĩa là bậc xứng đáng được thọ nhận cúng dàng. Vì Đức Phật có A Tăng Tỳ kiếp tu hành các thiện hạnh, nên sự viên mãn từ bi, trí tuệ và phẩm hạnh của Ngài cũng giống như ruộng phước điền phì nhiêu màu mỡ, hạt giống công đức cúng dàng sẽ dễ nảy mầm, đơm hoa kết trái, ứng theo những mong nguyện tâm thành của chúng sinh khi dâng phẩm vật mà được tùy nguyện viên mãn.
Về việc cúng dàng đức Phật, điều quan trọng không phải là phẩm vật nhiều hay ít mà bạn phải có tâm chí thành. Kể cả khi bạn không có đủ điều kiện kinh tế, chỉ một đóa hoa cúng Phật với tâm thành kính thuần khiết cũng sẽ giúp bạn tích lũy công đức rất lớn.
Chính Biến Tri
Trong hồng danh này, “Tri” là cái thấy biết, là trí tuệ. “Chính biến” tức là cái biết chân chính. Cái biết của Đức Phật được gọi là chân chính vì Ngài đã giác ngộ được tất cả quy luật trên thế gian, ví dụ quy luật về vô thường, quy luật nghiệp… dù đã có từ muôn thủa nhưng không ai nhận ra cho đến khi đức Phật khai thị thuyết giảng.
Minh Hạnh Túc
Trong hồng danh này chữ “Minh” có nghĩa là trí tuệ, “Hạnh” là phúc đức và “Túc” là đầy đủ. Như vậy “Minh Hạnh Túc” là một bậc thầy đầy đủ trí tuệ và phúc đức. Trí tuệ Đức Phật có khả năng thấu suốt được tất cả chân lý, sự thật. Từ trí tuệ đó, Ngài tận tình cứu khổ, chia sẻ giáo pháp, giúp đỡ cho chúng sinh thoát khổ nên đây chính là phúc đức.
Thiện Thệ
“Thiện” là khéo, “Thệ” là đi trong ba cõi, nên Thiện Thệ là một bậc khéo đi trong ba cõi. Chúng sinh theo nghiệp lực, bị đẩy vào cõi nào là bị trói buộc trong cõi đó. Đức Phật tuy thị hiện đản sinh trong cuộc đời khổ não ác trược nhưng Ngài không hề bị trói buộc mà hoàn toàn tự tại đi lại trong ba cõi. Vì thế, chúng ta tán thán Ngài là Thiện Thệ, tức là một bậc đi trong ba cõi nhưng không bị ràng buộc.
Thế gian Giải
Thế Gian Giải có nghĩa là bậc hiểu biết trọn về các cõi thế gian là ba cõi Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới. Cõi Dục giới bao gồm địa ngục, ngã quỷ, súc sinh, người, A tu la và trời Dục giới. Cõi Sắc giới là cõi trời dành cho những vị tu tập tứ thiền (sơ, nhị, tam, tứ thiền). Cõi Vô sắc giới là cõi trời dành cho những vị tu tập tứ không (không vô biên xứ, thức vô biên xứ, vô sở hữu xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ). Đức Phật hiểu biết trọn vẹn, ngọn ngành của nhân quả, thấu suốt ba cõi cho nên gọi Ngài bậc Thế Gian Giải. Ngài hiểu rằng để có thể tái sinh trong cõi Người thì chúng ta phải trì giữ năm giới (không sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, uống rượu). Ngài thấy sát sinh hại vật, sân hận, thù địch sẽ bị đẩy xuống Địa ngục; keo kiệt, ky bo chấp thủ là nhân của Ngã quỷ, vô minh; sống bản năng, ham ăn ham ngủ, sống không cần biết đến ai sẽ bị đoạ làm Súc sinh; làm các việc thiện lành bằng tâm kiêu căng, nhân ngã, danh vọng, sinh vào A tu la; làm các việc thiện lành bằng tâm hoan hỉ sẽ tái sinh lên cõi Trời. Vì đã thấu suốt ngọn ngành, nhân quả của mỗi cõi và mỗi chúng sinh nên Đức Phật được tôn xưng là bậc “Thế Gian Giải”.
Vô thượng Sĩ
Danh hiệu này gồm hai phần. “Vô Thượng” có nghĩa là không có gì hơn. “Sĩ” tức là với nội đức tu tập từ bên trong, tích góp thiện hạnh từ nhiều đời, nên tự nơi Đức Phật tỏa ra được từ trường thanh cao, an bình, thoát tục, thoát khỏi tám mối bận tâm thế gian (đó là: mong được lợi lộc, lo sợ thua thiệt, mong được lạc thú, lo sợ khổ đau, mong được lừng danh, lo bị ghét bỏ, mong được ngợi khen, lo bị quở phạt). Đức Phật là bậc trí tuệ toàn tri, thấu đạt vạn pháp nên chúng ta tôn xưng Ngài là “Vô Thượng Sĩ”.
Điều Ngự Trượng Phu
Trong danh hiệu này, “Điều ngự” là khả năng điều phục và chế ngự. “Trượng phu” để chỉ những bậc quân tử, hào hiệp, hành xử với tâm hy sinh mình cho mọi người, luôn thấy khổ cứu khổ, thấy những điều tai ương chướng mắt là sẵn sàng xả thân để trợ giúp.
Đức Phật không chỉ tự điều phục và chế ngự tâm mình mà Ngài có thể khéo điều phục và chế ngự được tất cả chúng sinh, kể cả chúng sinh khó điều ngự nhất, nên được tán thán là bậc “Điều Ngự Trượng Phu”.
Thiên Nhân Sư
Danh hiệu này có nghĩa là bậc Đạo sư của cõi Trời Dục giới và cõi Người. Chỉ có loài người mới đủ trí tuệ để tôn thờ Ngài là bậc Thầy và theo được con đường giáo hóa của Ngài. Mặc dù Đức Phật thương xót chúng sinh trong các Cõi Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh, A tu la như con đỏ, tuy nhiên do nghiệp chướng chúng sinh của các cõi này không đủ trí tuệ để hiểu được giáo pháp và thực hành theo giáo pháp của Ngài. Còn cõi Trời khác như Cõi không vô biên xứ, vô sắc, không có thân thể vật chất, chúng sinh nơi đó ở trong một trạng thái tâm biến dịch, chìm trong trạng thái hỷ lạc trong thời gian dài hàng tỷ kiếp, mê đắm đến mức chư Phật ra đời họ không biết, chư Phật tịch họ cũng không hay, đến khi hết phúc đức lại bị đọa trở lại ba cõi dưới. Bởi vậy việc sinh vào cõi Trời trường thọ được coi là một đại nạn trong bát nạn. Cõi trời Sắc giới cứ mải mê trong thiền định, không có phúc. Chỉ có cõi trời Dục giới mới biết đến Phật vì khi Phật đản sinh bao giờ cũng có lục chủng chấn động: địa đại, hư không, rồi tiếng sấm... rung động cả cõi trời Dục giới. Chư Thiên nơi đấy có thể biết rằng một bậc Thế tôn Giác ngộ đã ra đời để hướng nguyện được đỉnh lễ học Pháp với Ngài. Cõi trời Dục giới như thế có phúc so với các cõi Trời khác, nơi chúng sinh mê đắm trong niềm vui của thiền định nên họ không biết và không thể đến được chỗ của Đức Phật.
Phật Thế tôn
Sự giác ngộ của Phật gồm ba cấp độ: tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. “Tự giác” có nghĩa là tự mình giác ngộ, Ngài đã thấy và thực chứng được tất cả thân tâm cảnh đều là hư vọng, nhận ra được sự giả tạm, vô thường, như huyễn của vạn pháp, nhận thức được quy luật về nghiệp và nhân quả, bản chất Phật tính ở nơi mình. “Giác tha” có nghĩa là đem sự giác ngộ của mình đi chia sẻ với mọi người, là phần hành để viên mãn tự giác. “Giác mãn” nêu biểu phẩm chất nhất như của thực hành với lý thuyết, phần sự và phần lý tương ưng không lệch. Chỉ khi “giác mãn” chúng ta mới có đầy đủ năng lực, trí tuệ mới được vẹn toàn viên mãn. Danh hiệu Thế Tôn tức là thế gian tôn xưng, cung kính Ngài là một bậc tôn quý trên thế gian bởi các năng lực tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.
Sự giác ngộ của Phật gồm ba cấp độ: tự giác, giác tha, giác hành viên mãn. “Tự giác” có nghĩa là tự mình giác ngộ, Ngài đã thấy và thực chứng được tất cả thân tâm cảnh đều là hư vọng, nhận ra được sự giả tạm, vô thường, như huyễn của vạn pháp, nhận thức được quy luật về nghiệp và nhân quả, bản chất Phật tính ở nơi mình. “Giác tha” có nghĩa là đem sự giác ngộ của mình đi chia sẻ với mọi người, là phần hành để viên mãn tự giác. “Giác mãn” nêu biểu phẩm chất nhất như của thực hành với lý thuyết, phần sự và phần lý tương ưng không lệch. Chỉ khi “giác mãn” chúng ta mới có đầy đủ năng lực, trí tuệ mới được vẹn toàn viên mãn. Danh hiệu Thế Tôn tức là thế gian tôn xưng, cung kính Ngài là một bậc tôn quý trên thế gian bởi các năng lực tự giác, giác tha, giác hành viên mãn.
b. Những phẩm chất công hạnh của Đức Phật
Những phẩm chất công hạnh, năng lực của Đức Phật bao gồm Mười lực, Bốn Vô Úy, Mười Tám Bất Cộng Pháp như được liệt kê dưới đây:
Mười lực: là mười trí tuệ của Đức Thế Tôn, bao gồm
-
Tri giác xứ phi xứ trí lực: Xứ có nghĩa là đạo lý, trí lực biết sự vật nào là đạo lý hay phi đạo lý.
-
Tri tam thế nghiệp báo trí lực: Trí lực biết rõ nhân quả của chúng sinh trong ba đời (quá khứ, hiện tại, vị lai)
-
Tri chư thiền giải thoát Tam muội trí lực: Trí lực biết cả những pháp Tam muội (như bát giải thoát, tam tam muội…)
-
Tri chúng sinh tâm tính trí lực: Trí lực biết hết tâm tính của đệ tử, tín đồ và của tất cả chúng sinh cao hay thấp.
-
Tri chủng chủng trí lực: Trí lực biết chúng sinh hiểu đạo tới đâu, biết rõ lối nhận hiểu của thế gian và xuất thế gian.
-
Tri chủng chủng cảnh giới trí lực: Trí lực biết các cảnh giới khác nhau của chúng sinh như thế nào.
-
Tri nhứt thiết sở đạo trí lực: Trí lực biết kết quả mà người tu hành sẽ đạt tới, như tu thập thiện, ngũ giới sẽ được ở cõi Người hay cõi Trời, người tu pháp vô lậu bát chánh đạo sẽ được tới Niết Bàn.
-
Tri thiên nhãn vô ngại trí lực: Trí lực vận dụng thiên nhãn thấy biết mọi việc của sinh tử và nghiệp thiện ác của chúng sinh một cách không ngăn ngại.
-
Tri túc mạng vô lậu trí lực: Trí lực biết rõ các đời trước của chúng sinh, biết rõ vô lậu Niết Bàn.
-
Trí vĩnh đoạn tập khí lực: Trí lực có thể biết rõ như thực mọi tàn dư tập khí, vọng hoặc, sẽ vĩnh viễn đoạn diệt chẳng sinh trở lại (biết rõ vô lậu hoặc).
Bốn Vô Úy: là bốn loại trí lực, bốn điều tự tin, không sợ hãi của Phật khi thuyết pháp
-
Chư pháp hiện đẳng giác vô uý: Đối với tất cả các pháp, Phật đều rõ biết một cách tường tận. Do đó, đối với những chúng sinh vì không biết về các pháp mà đặt câu hỏi thì Ngài giải đáp một cách tự tại, không có gì sợ hãi.
-
Lậu vĩnh tận vô uý: Phật đã dứt sạch hết tất cả mọi phiền não, không có sự sợ hãi từ các nạn bên ngoài.
-
Thuyết chướng pháp vô uý: Phật nói “pháp nhiễm ô chắc chắn gây trở ngại sự tu tập”. Phật không hề lo sợ sự bắt bẻ hay gạn hỏi của bất cứ ai.
-
Thuyết xuất đạo Vô uý: Phật chỉ bày con đường thoát ly sinh tử và phương pháp tu tập để thoát ly khổ đau. Phật tuyên thuyết đạo xuất ly mà không sợ hãi điều gì.
Mười tám bất cộng pháp: Là những Pháp hay đặc tính mà chỉ có Phật mới thành tựu viên mãn, mười tám đặc tính ấy như sau
-
Hành động Như Lai không lỗi lầm
-
Lời nói Như Lai không sơ sót
-
Tâm không vọng niệm
-
Thường an trụ trong tam muội
-
Không dị tưởng riêng biệt
-
Luôn luôn quán chiếu xem những ai sắp đạt đến giác ngộ để tùy cơ dẫn dắt
-
Không bao giờ mất đi mục đích thanh tịnh
-
Tinh tiến không giảm
-
Trí tuệ không giảm
-
Thiền định không giảm
-
Trí tuệ tính không không giảm
-
Phẩm hạnh không giảm
-
Thân nghiệp hành động theo trí tuệ
-
Khẩu nghiệp tạo tác theo trí tuệ
-
Ý nghiệp vận hành theo trí tuệ
-
Thấy biết việc quá khứ không chướng ngại
-
Thấy biết việc vị lai không chướng ngại
-
Thấy biết việc hiện tại không chướng ngại
Tam thân Phật: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân, là thể tính và diệu dụng tâm hoàn hảo của Phật và chúng sinh. Đức Phật là bậc Toàn giác nên Ngài hiển lộ được hoàn toàn cả Tam Thân. Các chúng sinh phàm tình vì vô minh ám chướng nên không nhận ra Tam Thân Phật!
Tam thân Phật bao gồm:
Pháp Thân (Dharmakaya) là tinh túy, thể tính chân thật của Phật, đồng nghĩa với Chân như, là thể của vũ trụ.
Báo thân (Sambhogakaya) hay Đại hỷ lạc thân, là Thân công đức của Phật hiển hiện trong các cõi Tịnh độ.
Hóa thân (Nirmanakaya) hay Ứng hóa thân, là Thân Phật thị hiện trong cõi luân hồi với mục đích cứu độ chúng sinh.
Ở mức độ khái quát, trong sự tương ứng với giáo lý Kim Cương thừa về Tam Bảo (Phật - Pháp - Tăng) và Tam Căn Bản (Thượng sư - Bản tôn - Không hành, Hộ pháp), chúng ta có thể nói Pháp thân là tinh túy của Phật và Thượng sư; Báo thân là tinh túy của Pháp và Bản tôn; Hóa thân là tinh túy của Tăng, tức là Tăng đoàn Phật pháp và các bậc Không hành, Hộ pháp. Như vậy, Pháp thân, Báo thân và Hóa thân là tinh túy của Ba quy y (Phật, Pháp, Tăng). “Tinh túy” nói đến chân tâm bản lai của Phật, Pháp và Tăng. Điều này nghĩa là dù chúng ta có biết hay chứng ngộ được Tam thân hay không, về mặt bản thể, tinh túy đó vẫn luôn tồn tại thường hằng. Phẩm chất của Pháp thân là trí tuệ toàn tri, phẩm chất của Báo thân là tình yêu thương, lòng bi mẫn và phẩm chất của Hóa thân là sự khích lệ bất hoại.
Về bản lai, chúng ta là Pháp thân. Nhưng vì chưa giác ngộ và còn đang vướng mắc trong luân hồi nên chúng ta chưa đủ lòng từ bi hay tình yêu thương trong hành động, hoặc chúng ta đang không thực hành điều đó cũng không thể hiện bản thân là một bậc toàn tri hay một người khích lệ những chúng sinh khác. Tuy thế, những phẩm chất giác ngộ chắc chắn vẫn tồn tại. Cho dù chúng ta không thể hiện thành người tràn đầy lòng bi mẫn thì lòng bi mẫn căn bản vẫn nằm trong Báo thân bởi đó là phẩm chất căn bản của Báo thân. Để thấu hiểu được những điều này, bạn cần thực hành thiền định với tâm chí thành và dưới sự hướng đạo của một Bậc Thầy giác ngộ. Sự thực hành của hành giả chân chính phải tựa như tấm gương tu học thiền định miên mật của Đức Milarepa, bởi sự thực chứng không thể đến từ tri thức.
Việc chứng ngộ được Pháp thân, Báo thân và Hóa thân có nghĩa là bạn sẽ thực sự đạt được những phẩm chất đó và trở nên bất biến, bất diệt. Hóa thân liên quan nhiều hơn đến thân vật lý chúng ta; Báo thân liên quan nhiều hơn đến khẩu và Pháp thân liên quan nhiều hơn đến ý. Thân, khẩu, ý là những điểm rất quan trọng. Khi bạn chứng ngộ được Tam thân, Tam thân sẽ tương ứng với thân, khẩu, ý. Khi ấy, tâm sẽ rất ổn định và trí tuệ bản lai sẽ hiển lộ hoàn toàn.
Chúng ta phải nắm rõ khái niệm về Pháp để trong suốt tiến trình tu tập của mình luôn có thể đi đúng Pháp. Pháp theo nghĩa chung là phương pháp. Phương pháp ở thế gian thường giúp con người có sự hiểu biết và tạm thời phục vụ cho cuộc sống và mong muốn . Còn giáo Pháp của Đức Phật có mục đích giúp cho chúng ta có được hạnh phúc bình an, chấm dứt được khổ đau trong hiện tại và trong vô số kiếp tương lai.
Có hai cách hiểu đúng đắn về Pháp Bảo: một là những giáo lý, phương pháp thực hành Đức Phật đã truyền dạy, và hai là tất cả sự vật, hiện tượng trên thế giới này.
Nhờ sự thực hành, thiền định mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã chứng ngộ được chân lý của vũ trụ, thấu rõ nguồn gốc khổ đau và chấm dứt khổ đau, đạt giác ngộ toàn tri. Sau đó Ngài đã khéo léo thuyết giảng lại những chân lý này, chia sẻ những kinh nghiệm thực chứng của Ngài để chúng ta cũng có thể tu tập, dứt nhân khổ đau và đạt giác ngộ. Sự chia sẻ những chân lý, phương pháp này chính là Pháp Bảo.
Những chân lý mà Đức Phật đã chứng ngộ được gọi là Đạo. Thực ra Đạo khó có thể diễn tả qua lời nói mà chỉ có thể được chứng ngộ qua thực hành thiền định. Tuy nhiên, với trí tuệ toàn tri và lòng từ bi xót thương chúng sinh, Đức Phật đã thuyết giảng Đạo Lý để các hàng đệ tử thượng thừa có thể qua đó chứng ngộ được Đạo. Đạo Lý là những nguyên lý, cách thức để mỗi người có thể tự thực hành và chứng ngộ.
Bởi Đạo Lý rất vi diệu và chỉ hàng đệ tử thượng căn mới có thể hiểu, Đức Phật đã sử dụng Triết Lý, nghĩa là phân tích, giảng giải thêm để các hàng đệ tử có căn cơ thấp hơn có thể nắm được. Tuy vậy, chúng ta cần cẩn thận không bị đắm chìm vào việc học và lý luận về Triết Lý, nếu không Đạo Phật sẽ chỉ có ý nghĩa ở mức độ Triết học. Bạn phải luôn nhớ mục đích của việc thực hành Đạo Phật là để thực chứng được chân lý tuyệt đối của bản thân và vạn pháp. Thực chứng ở đây là sự chứng ngộ tâm linh chứ không phải là lý thuyết hay những sự lý luận của ngôn từ nhị nguyên.
Mặt khác, ta có thể hiểu Đạo là thực tại. Để hiểu về thực tại, chúng ta sử dụng những khái niệm của con người để giải thích qua những ngôn từ. Tuy các bậc Thầy có thể sử dụng nhiều ngôn từ để giảng về đạo, nhưng chúng ta cũng phải cẩn thận không bị bám chấp vào các ngôn từ đó, nếu không càng học nhiều từ ta sẽ càng bị vướng mắc, xa rời mục đích tối thượng là thấu hiểu thực tại.
Những gì Đức Phật khéo thuyết khéo giảng được kết tập thành Tam Tạng gồm có Kinh, Luận và Luật.-
Kinh
Đức Phật thuyết giảng về chân lý, các sự thật của vũ trụ (ví dụ như Kinh Vô Thường, Nghiệp), là sự thật hiển nhiên đang tồn tại ở cuộc đời này. Đức Phật thấy, thực chứng chân lý vũ trụ và khéo thuyết giảng, nhằm giúp chúng sinh có thể hiểu và cố gắng sống thuận với những quy luật này.
Kinh do Đức Phật tuyên thuyết đáp ứng cùng lúc hai điều kiện:
- Khế Lý: “lý” tức là chân lý của Đức Phật thuyết, “khế” có nghĩa là hợp. Khế Lý là luôn luôn hợp với chân lý, hợp với sự thật, dù hàng ngàn, hàng triệu năm sau vẫn không sai.
- Khế Cơ có nghĩa là phải đảm bảo phù hợp với căn cơ, trình độ, tâm lý của chúng sinh. Đức Phật đã giáng sinh ở cõi Sa bà nên những gì Ngài thuyết pháp phải phù hợp với thế giới này chứ không thể nói pháp như cho chúng sinh ở các cõi Tịnh độ. Lời Pháp của Đức Phật hợp với từng địa phương, từng hoàn cảnh, môi trường. Với trí tuệ của Đức Phật, Ngài còn có thể thấu suốt trình độ của từng chúng sinh, và rồi sẽ tùy duyên nói pháp ứng hợp với căn cơ của người nghe. Và cuối cùng, chúng sinh áp dụng lời Phật dạy đối trị phiền não, bớt đau khổ tức thời giải thoát.
b. Luận
Luận là những phân tích, giảng giải kỹ lưỡng, bàn luận nghĩa lý trong Kinh được Đức Phật cùng các đại đệ tử của mình phân tích, chia chẻ, bàn luận một cách kỹ lưỡng, giúp cho những vị đệ tử với căn cơ thấp hơn dễ dàng hiểu được các chân lý, các sự thật của vạn pháp.
-
Luật
Khi thấy Kinh và Luận tuy vi diệu nhưng một số chúng sinh khó thấu hiểu và thực hành, Đức Phật đã chế ra Luật, là những quy tắc đơn giản, rõ ràng để cho chúng ta thực hành có thể tránh được những nhân xấu, nhờ đó không phải chịu những nghiệp báo đọa lạc. Không như một số tôn giáo, Luật của Đức Phật không áp đặt và hoàn toàn tự nguyện.
Sau khi hiểu về Pháp theo cách thông thường, bạn phải nỗ lực trau dồi cái nhìn đúng đắn và hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng trong cuộc sống. Đó cũng gọi là Pháp. Những thăng trầm, thịnh suy, vinh nhục, thất bại, đắng cay, buồn, vui, yêu, ghét, kể cả những căn bệnh đau đớn của thể xác… đều là Pháp nếu chúng giúp cho chúng ta giác ngộ.
Giáo pháp của Đức Phật phải đảm bảo năm đặc tính:
- Thiết thực, hiện tại: giáo pháp của Đức Phật thiết thực, không mơ hồ, xa rời thực tế, luôn gắn liền thân, tâm, cảnh của chúng ta với cuộc sống hiện tại.
- Vượt thời gian: Giáo pháp của Đức Phật không bị lệ thuộc vào thời gian. Cho dù Đức Phật đã tuyên thuyết từ gần 2.600 năm về trước, nhưng cho đến bây giờ vẫn không hề sai lệch, bởi những gì Đức Phật nói luôn hợp với sự thật, hợp với chân lý.
- Quay lại mà thấy: giáo pháp của Đức Phật không thể được thấu hiểu qua việc học hay qua cái nhìn từ bên ngoài, mà chúng ta phải hướng nội, quay lại ngay chính đời sống thân tâm cảnh của mình để thâm nhập giáo pháp.
- Thăng hoa hướng thượng: việc áp dụng giáo pháp vào cuộc sống sẽ giúp tinh thần thăng hoa tỉnh thức, hiểu rõ hơn về thực tại, không ảo tưởng về quá khứ hay tương lai.
- Tự tri tự chứng: không ai có thể ban cho ta giác ngộ, bạn phải tự thực hành Phật pháp và trải nghiệm thực tế để có thể chứng ngộ được những chân lý của vũ trụ.1.3. Tăng Bảo
Tiếp đến, chúng ta tìm hiểu về Tăng Bảo, đối tượng Quy y cuối cùng trong Tam Bảo. Theo cách hiểu của Đại thừa, Tăng già là cộng đồng người xuất gia ít nhất bốn vị trở lên đã thọ giới Tì Kheo, Tì Kheo Ni (tức là thọ Đại giới) và sống với nhau đảm bảo hai điều kiện là thanh tịnh và hoà hợp. Khi nói “xuất gia” có nghĩa là các vị đã từ bỏ cuộc sống thế tục với các lý tưởng danh vọng, địa vị, tiền bạc… bước chân vào chùa sống cuộc sống tự tại, tu tập theo chính Pháp. Vì cuộc đời xuất gia dành trọn cho lý tưởng giải thoát cho nên các Ngài có nhiều thời gian để tu học, thực hành Pháp và tiếp đến chia sẻ hướng Đạo Phật Pháp cho chúng sinh. Đó là lý do chúng ta cần quy y hay nương tựa vào Chư Tăng.
Trong Kim Cương thừa, quy y Tăng chính là quy y Kim cương Thượng sư, người đại diện cho chúng tăng. Mặc dù Đức Phật vẫn luôn hiện diện gia trì nhưng do vô minh và nghiệp lực chúng ta không thể diện kiến và thọ nhận trực tiếp giáo pháp từ Ngài. Tuy nhiên, chúng ta lại có thể tiếp cận với bậc Thầy của mình, bậc Giác ngộ trong hình tướng Tăng già đã đón nhận Pháp mạch Truyền thừa không gián đoạn từ Đức Phật.
a. Tứ hạnh - phẩm chất thanh tịnh của Tăng Bảo
- Thiện hạnh: có nghĩa là hy sinh quên mình vì mọi người, có trí tuệ gạt bỏ bản ngã để đưa lợi ích chung lên trên, quan tâm nâng đỡ đời sống tinh thần của những người xung quanh mình.
- Trực hạnh: thẳng thắn đối với mọi người, không nói quanh co, nói sau lưng. Khi mắc lỗi, dám nhìn thẳng và nhận lỗi về mình.
- Phạm hạnh: giữ gìn giới hạnh thanh tịnh.
- Pháp hạnh: Thực hành Bát Chính Đạo (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến, chính định và chính niệm).
b. Lục hòa - nền tảng sức mạnh của Tăng Bảo
Nền tảng của Hòa hợp là từ bi, trí tuệ, và bình đẳng. Muốn có từ bi chúng ta phải có sự hiểu biết, có sự cảm thông chia sẻ mới có thể dễ dàng chấp nhận, tha thứ cho nhau. Người có thể sống hòa được là người có trí tuệ, bởi hòa hợp là tinh thần tỉnh thức, biết thấy, hiểu được và sống được với nghĩa của Vô ngã, gạt bỏ được sự ích kỷ của bản ngã để hòa vào cái chung của mọi người. Và trong Đạo Phật, mỗi chúng ta đều bình đẳng trong Phật tính, tất cả đều bình đẳng dù là nam, nữ, già, trẻ… bởi Phật tính bình đẳng cho nên trong Tăng đoàn cũng cần cư xử bình đẳng với nhau.
Sự tướng của Hòa hợp là Lục Hòa:
- Thân hòa: cùng ở một nơi, đồng lo một việc, chia sẻ vui buồn.
- Khẩu hòa: Lời nói dịu dàng, ôn tồn, chân thật, và không khiêu khích.
- Ý hòa: mỗi thành viên biết dẹp bản ngã của mình, đồng lòng, đồng tâm, đồng lực thì việc khó gì cũng sẽ giải quyết được.
- Lợi hòa: cùng chia sẻ, không có sự riêng tư về vật chất, tài bảo.
- Giới hòa: cùng giữ giới như nhau không có tinh thần hơn thua, có những ngày bố tát để sám hối lỗi lầm và khôi phục giới thanh tịnh.
- Kiến hòa: tri kiến, sở học cũng phải hòa, khi gặp nhau thì chia sẻ những kinh nghiệm tu tập, những điều đã học hỏi được.
1.4. Chữ “Bảo” trong Tam Bảo
Tam Bảo là quý giá vì báu vật ở thế gian như vàng bạc, châu báu, của cải không đem đến chân hạnh phúc mà chỉ đem đến loại hạnh phúc gắn liền với khổ đau. Là Phật tử, chúng ta không tìm cầu hạnh phúc giả tạm đó mà hướng về chân hạnh phúc, vốn sẵn có nơi tâm nhưng chúng ta chưa biết cách tìm ra và trải nghiệm.
Phật Pháp được gọi là tôn quý, bởi nhờ có Phật Pháp, ta có thể khai mở suối nguồn chân hạnh phúc mà mình đang có. Những Bảo báu của thế gian đem đến sự sung túc về vật chất, của cải nhưng gắn liền với nó luôn là khổ đau. Tam Bảo xuất thế gian mang đến sự an lạc, giải thoát trong tâm hồn, giúp cho ta có cái nhìn thanh thản, nhẹ nhàng hơn. Chúng ta hiểu rõ sự quý giá của Tam Bảo, và điều này sẽ nâng đỡ khiến ta thấy mình đã chọn đường đi rất đúng đắn, hoàn toàn không mê tín. Nương tựa vào con đường này chúng ta sẽ tìm được suối nguồn hạnh phúc nơi chính mình.
Chữ ‘Bảo’ trong Tam Bảo có 5 khía cạnh:
- Hiếm có: Đức Phật đã nhập Niết bàn từ hàng nghìn năm trước. Chúng ta có may mắn được gặp giáo pháp của Ngài, nhưng giáo pháp thực ra không dễ gì được gặp. Trên thế giới có hàng tỉ người và vô số chúng sinh khác. Vậy mà không phải tất cả mọi người đều có phúc duyên được tiếp cận với Phật, Pháp, Tăng, biết quy y Tam Bảo như chúng ta.
- Sáng suốt: Đức Phật sáng suốt, có trí tuệ bởi vì giáo pháp của Ngài chỉ rõ mỗi người đều có khả năng đạt giác ngộ giải thoát, tìm được chân hạnh phúc. Giáo pháp của Ngài là cách thức giúp con người tìm được trí tuệ căn bản của chính mình, cho nên Pháp được gọi là sáng suốt. Tăng đoàn có lý tưởng phục vụ cho nhân loại, phụng sự cho cuộc đời, bởi vậy con đường xuất gia được gọi là con đường trí tuệ.
- Trong sạch: Đức Phật trong sạch vì tất cả ích kỷ, bản ngã, tham lam, giận dữ, tật đố, kiêu căng đều vắng bóng nơi Ngài. Những công hạnh của Ngài luôn hướng về lợi ích của chúng sinh. Giáo pháp của Ngài trong sạch bởi không khiến cho người ta khởi thêm tham, còn giúp con người tịnh hóa được tham, sân, si. Tăng Bảo trong sạch bởi vì ngay giữa cuộc đời này các Ngài vẫn sống vô nhiễm, không mải mê theo danh vọng, không tham lam, không tật đố kiêu căng, chỉ trau dồi tâm linh, trí tuệ với tâm nguyện cứu giúp tất cả chúng sinh.
- Uy lực: Đức Phật tuy không có của cải, không có vũ khí, nhưng đi đến đâu Ngài đều có thể thu phục lòng người với uy lực từ đức tu của Ngài tỏa ra. Uy lực của giáo pháp là chữa lành bệnh tật, siêu độ, viên mãn tâm nguyện thế gian… Tăng là những vị xuất gia thanh tịnh cùng một cộng đồng, cho nên năng lực của Tăng rất lớn.
- Đẹp đẽ: mỗi một tướng đẹp của Đức Phật là do công đức tu hành thiện hạnh viên mãn vô số kiếp của Ngài tích lũy được. Đẹp ở đây không phải đẹp kiểu thế tục mà là đẹp từ tâm hồn Ngài, nét đẹp của sự vô ngã, vị tha chỉ biết làm lợi ích cho chúng sinh. Pháp rất đẹp, rất thanh cao vì giúp ta đạt được an bình giải thoát.
Ngoài phần quy y Tam Bảo, trong Kim Cương thừa chúng ta có thêm Tam Căn Bản hay ba đối tượng quy y căn bản nữa gồm Thượng sư (Guru), Bản tôn (Ydam), Không Hành (Dakini). Trong truyền thống Kim Cương thừa, đối tượng quy y quan trọng nhất được mọi hành giả hướng tới là Kim cương Thượng sư, được nhìn nhận bất khả phân với vị Phật Bản tôn.
2. Tam Căn bản
2.1. Căn bản Kim cương Thượng sư
a. Tầm quan trọng của Căn bản Kim cương Thượng sư:
Tầm quan trọng của Căn bản Kim cương Thượng sư
Thượng sư theo tiếng Phạn gọi là “Guru”, có nghĩa là hợp nhất của tất cả sự thành tựu, là Bậc thầy linh thiêng tôn quý, hiện thân của mọi phẩm hạnh giác ngộ.
Đối với thực hành Kim Cương thừa, tất cả mức độ tu tập từ mới nhập môn đến cao cấp như Đại Thủ Ấn (Mahamudra), Đại Toàn Thiện (Dzogchen) đều đặt Thượng sư làm trung tâm của pháp thực hành. Do đó hành giả cần trưởng dưỡng tín tâm nơi Thượng sư - bậc giác ngộ có khả năng hướng đạo, dìu dắt chúng sinh chứng đạt giác ngộ giải thoát. Bởi vậy, trong phần Quy y quan trọng nhất là bạn phải phát tâm chí thành, tha thiết nguyện cầu quy y bậc Kim Cương Thượng sư.
Căn bản Thượng sư là điều kiện tiên quyết để thành tựu giác ngộ
Do vô minh nghiệp chướng, chúng ta chưa thể đón nhận trực tiếp giáo Pháp của chư Phật, Bồ Tát, không có đủ phúc duyên để hạnh ngộ và đón nhận giáo pháp trực tiếp từ Đức Phật Thích Ca, mà chỉ có thể đón nhận giáo pháp thông qua các Bậc thầy tâm linh giác ngộ.
Theo truyền thống Kim Cương thừa, Căn bản Thượng sư chính là tổng nhiếp của Phật, Pháp, Tăng. Ngài là bậc thành tựu giả đã đạt được chứng ngộ trong hình tướng loài người. Vì đã đạt giác ngộ nên các Ngài tự chủ động hóa thân chuyển thế để trở lại thế gian trong các hình tướng khác nhau và hướng đạo cho chúng sinh theo nhiều phương pháp như Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim Cương thừa.
Bằng cách tin Thượng sư là Phật, chúng ta có thể tiếp cận và đón nhận ân phúc gia trì, sự giáo dưỡng của Đức Như Lai, kết nối trực tiếp với tâm giác ngộ của chư Phật, chư Thượng sư và cuối cùng để có thể chứng ngộ tự tính Phật sẵn có nơi mình.
Căn bản Thượng sư là cội nguồn của ân phúc gia trì
Trong Tam Căn Bản, bậc Thượng sư được coi là cội nguồn của ân phúc gia trì bởi Ngài luôn ban trải phẩm tính từ bi và trí tuệ đồng thời trực tiếp dẫn dắt chúng ta trên con đường trưởng dưỡng từ bi trí tuệ hướng đến chứng đạt giác ngộ. Ân phúc gia trì của Thượng sư đồng nghĩa với sự trưởng dưỡng tâm chí thành hay trí tuệ giác ngộ nơi hành giả.
Thượng sư thực chất chính là Phật hay phẩm tính giác ngộ toàn hảo. Quan kiến của hành giả về bậc Căn bản Thượng sư sẽ cho thấy hành giả đang ở mức độ nào trên hành trình giác ngộ. Trong Kinh nói rằng nếu chỉ nhìn nhận Thượng sư như một bậc Thầy thế gian thông thường thì hành giả chưa trưởng dưỡng được tâm chí thành và chưa đi vào con đường Kim Cương thừa, bởi vai trò của bậc Thượng sư chưa được nhìn nhận và phát huy một cách đúng đắn. Nếu hành giả có quan kiến thanh tịnh nhìn Thượng sư như một Bồ tát, điều đó có nghĩa hành giả đã trưởng dưỡng tâm chí thành ở mức độ cao hơn và kết quả sẽ đón nhận được ân phúc gia trì của Bồ tát. Nếu hành giả nhìn nhận bậc Căn bản Thượng sư của mình như một vị Phật thì hành giả có thể tích lũy vô lượng công đức và đón nhận ân phúc gia trì của Phật. Một cách rốt ráo, nếu nhìn nhận bậc Thượng sư chính là chân lý vũ trụ và có thể hợp nhất bất khả phân với tâm giác ngộ của Ngài, hành giả trưởng dưỡng được tâm chí thành tuyệt đối, viên mãn thành tựu tâm linh. Như vậy, tâm chí thành thanh tịnh hướng đến Thượng sư là nền tảng của sự thành tựu trên con đường Kim Cương thừa. Tương ứng với quan kiến thanh tịnh là sự gia trì của Thượng sư, vì thế chúng ta nói rằng Thượng sư chính là thước đo công đức hay hiện thân phúc điền của hành giả.
b. Thượng sư là tinh túy của Quy y
b.1. Thượng sư nêu biểu Tam bảo
Thượng sư là hiện thân Tam Bảo bởi thân Ngài là Tăng Bảo, tức hiện thân của chư Tăng, khẩu Ngài là Pháp Bảo vì Ngài chuyển tải giáo pháp giác ngộ của Đức Phật tới chúng ta, và cuối cùng, năng lực tu chứng thể hiện qua tâm giác ngộ từ bi của Ngài chính là Phật Bảo.
b.2. Thượng sư nêu biểu Tam Căn bản
Thân của Căn bản Thượng sư là Thượng sư (Guru).
Khẩu của Thượng sư là Bản tôn (Yidam).
Tâm của Thượng sư là Không hành mẫu (Dakini).
Ngài là hiện thân Tam Căn Bản bởi Thân Ngài là thân Truyền thừa Thượng sư, Khẩu Ngài tượng trưng cho Bản tôn hay phương tiện và Tâm Ngài là Dakini hay trí tuệ tính không.
b.3. Thượng sư nêu biểu Tam Thế Phật
Thượng sư là hiện thân của chư Phật quá khứ.
Hóa thân của chư phật hiện tại.
Là cội nguồn của chư Phật trong tương lai.
Thượng sư cũng nêu biểu cho Tam Thế Phật, là hiện thân của ba đời mười phương chư Phật quá khứ, hiện tại và tương lai. Kinh điển dạy rằng mặc dù có vô số Bậc giác ngộ đã viên mãn công đức và thành tựu Phật quả trọn vẹn, nhưng khi còn an trụ trong cảnh giới Pháp thân, với lòng từ bi và trí tuệ vô hạn, các Ngài vẫn tiếp tục hóa thân chuyển thế, hiển hiện nơi nhân gian để không ngừng lợi ích hết thảy hữu tình. Chư Thượng sư như Ngài Tilopa, Naropa, Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa hay tất cả những bậc nắm giữ Truyền thừa đều chính là Đức Phật, các Ngài đều chứng ngộ sự hợp nhất của tâm Đại từ bi và trí tuệ tính không. Qua Pháp mạch truyền thừa giác ngộ của mình, các Ngài hóa thân chuyển thế lợi ích chúng sinh.
b.4. Thượng sư nêu biểu Tam Thân Phật
Thân của Thượng sư là Hóa thân, hiện thân của chân lí tương đối.
Khẩu của Thượng sư là Báo thân quang minh nêu biểu phương tiện.
Tâm của Thượng sư là Pháp thân, là chân tâm chu biến khắp pháp giới và trí tuệ tính không tuyệt đối.
Bậc Căn bản Thượng sư cũng đồng thời tổng nhiếp Tam Thân, thân Ngài là Hóa thân, khẩu Ngài là Báo Thân và tâm Ngài là Pháp thân Phật. Mặc dù bậc Thượng sư thị hiện nhậm vận khắp pháp giới dưới hình thức Tam thân (Pháp thân, Báo thân, Hóa thân). Tuy nhiên, chúng ta chỉ thường thấy Ngài là Hóa thân Phật bởi trong Kinh dạy rằng Bồ tát chứng đắc từ ngôi Địa thứ nhất tới ngôi Địa thứ tám mới có thể thấy được Báo thân Phật. Vì vậy, điều quan trọng là chúng ta cần phải tuyệt đối tin rằng bậc Căn bản Thượng sư chính là hiện thân của chư Phật, Bồ Tát và bất khả phân với chư Phật, Bồ Tát.
c. Phẩm chất giác ngộ nơi Căn bản Thượng sư
Thượng sư là bậc hướng đạo, dẫn dắt đệ tử, hơn nữa đạo giải thoát không phải môn khoa học thông thường mà là khoa học siêu việt về giải thoát khổ đau và luân hồi sinh tử, vậy nên một bậc Thượng sư chân chính cần hội tụ đầy đủ những phẩm hạnh đặc biệt. Thượng sư không chỉ đơn giản là người biết giảng Pháp, quan trọng hơn cả, bậc Thượng sư phải có kinh nghiệm thực chứng và là Bậc thành tựu giác ngộ, viên mãn mọi phẩm hạnh từ bi và trí tuệ.
Vì thế, khi tiếp cận với bậc Thầy, chúng ta phải rất tinh tế và cũng cần phát triển về mặt tâm linh để nhận biết những phẩm hạnh của Thượng sư một cách kín đáo chân thật. Trí tuệ Bát Nhã và tâm từ bi vô điều kiện hướng tới hết thảy chúng sinh là hai phẩm hạnh quan trọng nhất của một Thượng sư chân chính. Hai phẩm hạnh này phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau. Một Thượng sư chân chính phải là bậc đã hoàn thiện viên mãn Đại trí, Đại bi.
d. Ba cấp độ quy y Căn bản Thượng sư
Nhờ quy y bậc Thượng sư bên ngoài, hiện thân của Tam Bảo với các phẩm tính giác ngộ, chúng ta được thụ nhận giáo pháp và dìu dắt hướng đạo. Thông qua việc thực hành giáo pháp và trưởng dưỡng tâm chí thành đối với Thượng sư, chúng ta dần nhận ra bậc Thượng sư bên trong hay trí tuệ có sẵn nơi bản thân. Rốt ráo, chúng ta có thể thực chứng Thượng sư bí mật hay thành tựu giác ngộ. Như vậy, Thượng sư chính là cầu nối đưa hành giả trở về với tự tính tâm trong sáng, Phật tính luôn tiềm ẩn bên trong chính mình.
Quy y bên ngoài
Hành giả đặt trọn niềm tin, tha thiết phát nguyện nương tựa vào Tam Bảo và bậc Thượng sư bên ngoài. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là bậc toàn tri, toàn giác. Ngài đã chỉ bày, dẫn dắt chúng sinh đi trên con đường giác ngộ từ hơn 2.500 năm trước. Những giáo pháp, Kinh điển mà Ngài đã khai thị cho chúng sinh để đạt được giác ngộ chính là Pháp Bảo; còn những người thiết tha tìm cầu giác ngộ, nhất tâm đi trên con đường hướng tới giải thoát đó chính là Tăng Bảo. Trên hành trình tâm linh, bất kỳ ai che chở, nâng đỡ, hướng đạo, giúp bạn khai mở phát triển từ bi, trí tuệ và có một cuộc sống an lạc ý nghĩa, thì đó chính là bậc Thượng sư mà bạn cần hướng tâm chí thành của mình đến.
Quy y bên trong
Quy y bên trong cho bạn biết rằng, chính bản thân mình có đầy đủ cả ba ngôi báu Phật Bảo, Pháp Bảo và Tăng Bảo. Bạn không nên xem Phật là đối tượng tồn tại bên ngoài mà Phật tồn tại trong chính bạn, là tâm thanh tịnh từ bi và trí tuệ toàn thiện của bạn. Đây là hai phương diện của tâm mà bạn không thể tìm cầu từ bên ngoài. Vậy nên, con đường tu tập, chuyển hoá bản thân và mong nguyện thực hành để đạt giải thoát giác ngộ cũng nằm ngay trong chính bạn.
Quy y bí mật
Sự hợp nhất giữa Tự tính của vạn pháp (tính không và quang minh) với Đại hỷ lạc (sâu xa và bất biến) phát khởi một cách vô tác. Quy y bí mật thực chứng sự hợp nhất bất nhị này, đó là Trí tuệ bản lai. Vì vậy, Quy y bí mật cũng chính là sự thực chứng thể tính tự nhiên, nguyên thủy của tâm:
Tâm siêu việt thanh tịnh và thủ đắc là Phật.
Tâm bất biến và tinh khiết không tỳ vết là Pháp.
Tâm viên mãn tất cả các phẩm chất giác ngộ là Tăng.
2.2. Bản tôn
Định nghĩa Bản tôn
Một cách tuyệt đối, Bản tôn chính là Phật tính, là tự tính tâm có sẵn trong mỗi chúng sinh. Chư Phật luôn thị hiện quanh chúng ta, nhưng bởi vì nghiệp lực vô minh che lấp, chúng sinh phàm không thể kết nối trực tiếp với sự gia trì. Với lòng từ bi của mình, chư Phật đã thị hiện qua các hình tướng (sắc thân Phật, Kim Cương Hộ Pháp…), âm thanh (chân ngôn)…, để chúng sinh sơ cơ cũng có thể kết nối và thực hành. Vậy một cách tương đối, Bản tôn có thể được hiểu là khía cạnh phương tiện của Phật tính, là cách thức, thứ lớp thực hành.
Trong Phật giáo Kim Cương thừa, các hành giả thực hành quán tưởng về Bản tôn dựa trên nền tảng tâm chí thành. Pháp thực hành Bản tôn bắt nguồn từ những giáo lý thâm sâu của Đạo Phật và sử dụng kỹ thuật vô cùng thiện xảo để đánh thức sự chứng ngộ ở cấp độ sâu sắc nhất.
Chư Phật Bản tôn được quán tưởng là những mẫu hình toàn hảo về năng lượng giác ngộ và công hạnh lợi tha. Các Ngài hoàn toàn không tách rời với cuộc sống và những kinh nghiệm hàng ngày của con người mà chính là sự phản ánh các trạng thái ý thức khác nhau. Đức Phật, Đức Lục Độ Phật Mẫu Tara và chư Bản tôn An bình tượng trưng cho các khía cạnh tâm siêu việt, trong khi đó chư Bản tôn Uy mãnh biểu trưng cho những khuynh hướng bên trong chưa được chuyển hóa như thù hằn, đố kị, tham lam và tội lỗi. Khi chúng ta chưa hiểu bản chất của những năng lượng tiềm ẩn này, chúng sẽ bộc lộ ra ngoài theo hướng tiêu cực. Nhưng khi chủ động nhìn nhận chúng một cách có ý thức, chúng ta sẽ dễ dàng chấp nhận và bao dung hơn với chính bản thân cũng như với mọi người. Về mặt sự tướng, chư Bản tôn hiện diện bên ngoài là đối tượng thiền định hoàn hảo, song về mặt lý, các Ngài nêu biểu cho những năng lượng tích cực và tiêu cực bên trong mỗi người. Vì thế, việc thiền định Bản tôn giúp chúng ta chuyển hóa những năng lượng tiềm ẩn bên trong mình thành năng lực sáng tạo tốt đẹp.
Trong Tam Căn Bản, chư Phật Bản tôn là cội nguồn của thành tựu bởi thông qua phương tiện thiện xảo của việc thực hành Bản tôn, chúng ta có thể thực chứng tự tính tâm. Một hành giả tu tập theo Kim Cương thừa coi Phật Bản tôn là một đối tượng cụ thể của thiền định và tìm cách trưởng dưỡng qua trải nghiệm của bản thân về sự hợp nhất với các phẩm hạnh của Thân, Khẩu và Ý Phật hay hiện thân của ba Kim cương giác ngộ: Thân bất biến, Khẩu bất hoại và Tâm bất động. Ba Kim cương Thân, Khẩu, Ý giác ngộ này hoàn toàn siêu việt thân, khẩu, ý thông thường đầy ám chướng và bản năng tập khí. Bằng cách quán tưởng thân khẩu ý là Bản tôn - Chân ngôn - Trí tuệ, chúng ta trở nên cởi mở để đón nhận sự gia trì tuyệt hảo, chuyển hóa thân khẩu ý phàm tình của mình thành ba tự tính Kim cương bất hoại.
2.3. Không hành mẫu
Định nghĩa Không hành mẫu
Nếu Bản tôn là khía cạnh phương tiện của Phật tính, thì Không hành mẫu - Dakini là khía cạnh trí tuệ. Bởi trí tuệ là năng lượng Mẫu tính nên Dakini thường được diễn tả trong hình tướng Phật Mẫu.
Thuật ngữ ‘Dakini’ xuất phát từ tiếng Phạn, từ tiếng Tạng tương đương là Khandro có nghĩa là “Không hành mẫu”. Dakini xuất hiện trong hình tướng nữ giới và thường được chia ra Dakini thế gian và Dakini trí tuệ. Dakini thế gian là những chúng sinh vẫn bị trôi lăn trong các cõi Trời - Người, có thể mang hình tướng đẹp đẽ hay dạ xoa. Các nữ hành giả đã đạt một vài thứ lớp chứng ngộ nhưng vẫn chưa thoát khỏi luân hồi sinh tử cũng được gọi là Dakini thế gian. Dakini trí tuệ là những bậc đã giác ngộ như Đức Kim Cương Thánh Mẫu Vajra Yogini. Theo nghĩa này, Dakini là một trong những đối tượng Quy y của Tam Căn Bản. Mặc dù hiện tướng bên ngoài là nữ giới (tượng trưng cho trí tuệ, năng lượng Mẫu tính) nhưng hiện tướng bên trong của Dakini chính là Trí tuệ Căn Bản hay Tâm giác ngộ của Thượng sư.
Dakini nêu biểu cảnh giới của sự tỉnh thức được kiểm soát, vững chắc và hoàn toàn tự do. Dakini như thế có khả năng du hí tự tại trong Pháp giới tính không và là cội nguồn của các công hạnh giác ngộ: Tức tai, Tăng ích, Kính ái, Hàng phục vì lợi ích chúng sinh. Thiết yếu của Dakini là trợ giúp và nương sự trợ giúp của Dakini, hành giả thành tựu được sự nghiệp từ giai đoạn sơ phát tâm đến giai đoạn cuối cùng của thành tựu tối thượng. Như vậy, quy y Không hành mẫu Dakini là quy y cội nguồn công hạnh giác ngộ.
Nói chung Dakini tượng trưng cho dòng năng lực Mẫu tính mạnh mẽ năng động mà hành giả Mật thừa phải thực hành để đạt được sự chứng ngộ. Dakini là trí tuệ tính không, được biểu trưng bằng năng lượng Mẫu tính. Khía cạnh còn lại là từ bi hay phương tiện thiện xảo được biểu trưng bằng năng lượng Phụ tính. Tất cả chúng sinh, bất kể nam hay nữ, đều có tiềm năng chứng ngộ tự tính Dakini trí tuệ nơi tự thân. Khi lòng bi mẫn (hay năng lượng Phụ tính) và trí tuệ (năng lượng Mẫu tính) được hợp nhất hoàn hảo, chúng ta sẽ chứng đạt giác ngộ và trở thành Phật.
- 2214