Động cơ Quy y
II. ĐỘNG CƠ QUY Y
Sự Quy y chân chính sẽ giúp hành giả định hướng đúng đắn cho hành trình tu tập của mình, từ đó đạt được mục đích tối hậu giải thoát giác ngộ. Quy y chân chính phải được xuất phát từ động cơ chân chính. Vì vậy, trước khi thực hành Quy y, hành giả cần quán xét xem động cơ của mình là gì, liệu đó có phải là động cơ đúng đắn hay không?
Một trong những phương pháp giúp chúng ta soi xét lại động cơ của mình để có chính kiến trong việc Quy y chính là thiền quán về “Tứ Niệm Pháp”. Đây là pháp thiền quán vô cùng quan trọng mà bất kỳ ai tu tập cũng đều nên thực hành. “Tứ Niệm Pháp” bao gồm bốn đề mục cần được suy niệm và thiền quán một cách sâu sắc với mục đích mang lại cho chúng ta những tri kiến đúng đắn về bản chất của cuộc sống vô thường, vô ngã, khổ và không. Từ đó, chúng ta có thể phá bỏ những chấp trước sai lầm, biết trân trọng giá trị kiếp người và tận dụng từng giây từng phút của đời sống một cách hữu ích. Do vậy, pháp tu này được gọi là bốn pháp quán “xoay tâm về với Pháp”, đưa tâm trở về với hiểu biết chân thực.
Bốn đề mục để quán niệm đó bao gồm: Thiền định về Thân người khó được; Thiền định về cái Chết và Vô thường; Thiền định về luật Nhân quả; Thiền định về Khổ của các đạo luân hồi.
1. Thiền quán Tứ niệm pháp để có động cơ Quy y chân chính
a. Tầm quan trọng của Tứ Niệm Pháp
Tại sao Tứ Niệm Pháp được coi là một pháp thực hành căn bản và thiết yếu? Sự thật là cuộc sống vốn quý giá song cũng rất vô thường, đầy ắp những thăng trầm, thịnh suy, vinh nhục và kết cục cái chết tất yếu. Khi tử thần vẫy gọi cũng là lúc chúng ta phải bỏ lại tất cả sau lưng, những mục tiêu, kế hoạch, sự thành công, thất bại, mọi sở hữu thế gian và niềm vui nỗi buồn đều trở nên vô nghĩa. Vào thời điểm quan trọng ấy, bạn chỉ có một mình đơn độc, đối diện với nỗi sợ hãi khủng khiếp và vô số cạm bẫy nguy nan. Lúc ấy, đâu sẽ là điểm tựa và hành trang cho bạn?
Sẽ không khó để có câu trả lời. Khi tiến trình chết diễn ra, những người thân yêu, tiền tài danh vọng đều không giúp được gì cho bạn, duy chỉ có hành trang tâm linh, những kinh nghiệm thực hành và thiện nghiệp tích lũy trong đời sống kiếp trước mới có thể đồng hành, mang lại cho bạn nguồn sức mạnh và sự tự chủ, bình thản trước cái chết.
Vậy làm sao để chúng ta ý thức và tận dụng một cách hiệu quả từng khoảnh khắc quý báu của kiếp người? Câu trả lời nằm chính trong bài thiền quán “Tứ Niệm Pháp”. Khi đào sâu chiêm nghiệm từng đề mục thiền quán, chúng ta mới hiểu rõ những vấn đề căn bản thiết yếu của cuộc sống, để từ đó xả bỏ dần những bám chấp, đam mê vô nghĩa. “Tứ Niệm Pháp” giúp chúng ta nhìn cuộc sống đúng với bản chất của nó, khơi nguồn cảm hứng và động cơ tu tập đúng đắn.
b.1- Thiền quán về Thân người khó được:
Nay ta thoát khỏi vương tám nạn,
Được thân người toàn vẹn, phúc thay.
Nếu không nắm lấy cơ may,
Dịp nào còn được như vầy nữa sao?
Một trong những căn bệnh khó chữa của con người là không biết trân trọng những gì mình đang có. Những thứ không phải bỏ công sức, tiền bạc để sở hữu thường không được chúng ta coi trọng. Đối với thân thể này cũng vậy, chúng ta thường cho rằng việc có mặt trên cõi đời và sở hữu một cơ thể lành lặn là điều đương nhiên, chẳng có gì phải bàn cãi. Nếu không nhận ra thân người là quý giá, chúng ta sẽ không biết trân trọng và sẽ không chịu nỗ lực tinh tấn trong đời sống cũng như trong sự thực hành tâm linh. Bởi vậy, “biết trân trọng” là yếu tố cần phát triển trước tiên, biết trân trọng những gì mình đang có giúp chúng ta luôn thấy an vui tự tại và có thể sử dụng thân người một cách có ý nghĩa nhất.
Theo quan kiến Phật giáo, có được “thân người” là vô cùng quý giá và hoàn hảo, bởi vì được sinh ra làm người giúp chúng ta thoát khỏi tám nạn lớn và có được mười điều may mắn vô cùng hy hữu sau:
Thoát khỏi tám nạn lớn gồm:
Khi thực hành pháp quán này, chúng ta có thể dành thời gian mỗi ngày ngồi tĩnh lặng và suy ngẫm, phân tích như sau:
Thoát cảnh Địa ngục
Thật may mắn vì bạn không bị sinh trong Địa ngục. Đó là nơi khổ não chồng chất, dù là địa ngục nóng hay lạnh, chúng sinh ở đó phải chịu đau đớn suốt đêm ngày, không có được một giây phút bình an, không được biết đến Tam Bảo Phật, Pháp, Tăng. Cho dù có nghe đến giáo pháp, họ cũng không thể tư duy thực hành.
Thoát cảnh Ngã quỷ
Cõi Ngã quỷ lại bị chi phối bởi đói khát dày vò. Chúng sinh nơi đó không thể nghe được giáo pháp do ác nghiệp ngăn che. Một số loài quỷ có thể nghe được giáo pháp nhưng lại không đủ trí tuệ và sự an bình nội tâm để thực hành.
Thoát cảnh Súc sinh
Hãy thiền định suy ngẫm về loài Súc sinh đắm chìm trong si mê, ngu muội. Loài vật luôn trong cuộc chiến bảo toàn mạng sống, không biết lúc nào sẽ bị chết đói hay ăn thịt. Dù một con vật có thể nghe một bài Pháp, nó vẫn không đủ khả năng hiểu và thực hành, do đó không thể đạt được giải thoát. Phúc duyên may mắn thay bạn đã không phải sinh vào những cảnh khổ như thế mà lại được làm người với đầy đủ khả năng thực hành Phật Pháp.
Thoát cảnh sinh lên cõi Trời Trường thọ
Chúng sinh khi sinh lên cõi Trời Trường thọ sẽ an trụ vô số đại kiếp trong trạng thái định, không tạo thêm ác nghiệp song cũng không thể đoạn trừ phiền não. Khi Đức Phật ra đời thuyết Pháp họ cũng không biết tìm đến để nghe, không tích lũy thêm được thành tựu tâm linh nào cho đến khi kiếp sống đó kết thúc. Khi hết phúc báo, vô số ác nghiệp được tích tụ từ vô thủy kiếp sẽ khơi dậy và khiến họ đoạ lạc. Được sinh lên cõi Trời còn được gọi là “tai nạn kiếp thứ ba”, nghĩa là kiếp này chúng ta làm phúc, kiếp sau lên trời nhưng kiếp sau nữa chắc chắn sẽ đoạ lạc. Đây chính là nạn sinh vào cõi Trời Trường thọ để ta thấy được sự may mắn khi được tái sinh trong thân người.
Thoát khỏi cảnh sáu căn khiếm thiếu
Nếu bị khiếm thị, bạn sẽ không thể nhìn thấy bậc Thầy, chư Phật, Bồ tát, bạn không thể quán tưởng, đọc tụng hay nghiên cứu Kinh điển. Nếu bị khiếm thính, bạn sẽ không thể nghe giáo pháp giải thoát, những lời khẩu truyền quán đỉnh từ bậc Kim cương Thượng sư. Tương tự, nếu bị câm ngọng hay tay chân thiếu khuyết thì sự thực hành của bạn cũng sẽ bị hạn chế rất nhiều.
Thoát khỏi cảnh sinh ra nơi biên địa
“Biên địa” chỉ nơi không có Phật pháp. Nếu sinh ra ở một nơi không có Phật pháp, dù có được thân người hoàn hảo thì cũng sẽ thành uổng phí, bởi bạn không biết đường hướng để tu hành. Đời sống của bạn sẽ đắm chìm trong những mối ràng buộc và bận tâm thế tục không thể giải thoát.
Thoát khỏi cảnh sinh vào thời không có Phật
Kinh điển dạy rằng, quãng thời gian kể từ khi một Đức Phật nhập Niết bàn đến khi một Đức Phật khác đản sinh là rất lâu. Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca trải qua 500 năm Chính Pháp, tiếp đến là 1.000 năm Tượng Pháp và sau đó là 10.000 năm Mạt Pháp. Kết thúc thời Mạt Pháp, tất cả xá lợi của Đức Phật từ khắp nơi trên thế giới sẽ quy tụ về Bồ đề Đạo tràng và thị hiện lại hình ảnh Đức Phật Thích Ca một lần nữa trước khi tan biến hoàn toàn. Sau đó, Phật pháp sẽ hoàn toàn biến mất trên thế gian và con người bị chìm đắm trong vô minh u tối trong quãng thời gian dài đến khi Đức Phật Di Lặc đản sinh. Đó quả là một khoảng thời gian dường như vô tận mà chúng sinh không được thấy ánh sáng Phật pháp, không được nghe đến Tam Bảo dù chỉ một lần. Được sinh làm người vào thời gian này cũng không có chút lợi lạc nào .
Thoát khỏi cảnh không có tín căn.
Không có tín căn hay niềm tin vào Phật pháp là một bất hạnh rất lớn. Những người không có niềm tin Phật pháp, phủ nhận lý nhân quả sẽ chỉ lãng phí kiếp người của mình để tạo tác vô số nghiệp trôi lăn trong luân hồi.
Trên đây gọi là tám nạn lớn mà bất cứ chúng sinh nào cũng có nhiều khả năng gặp phải trong luân hồi. Hãy nhận thức rằng việc thoát khỏi đồng thời tám nạn này là điều kỳ diệu hy hữu mà bạn cần biết bao thiện nghiệp phúc báo chín muồi mới có được.
Có được Mười điều may mắn là:
Được sinh làm người: Thân người quý giá và khó được
Thân người quý giá bởi vì cõi Người không quá khổ đau như ba cõi thấp (Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh), cũng không quá sung sướng đến nỗi chìm đắm và không nhận thức được sự cần thiết thực hành Phật pháp như cõi Trời. Cõi Người là nơi khổ đau và hạnh phúc xen lẫn một cách vừa phải, đủ để làm động lực cho chúng ta tinh tiến thực hành Phật pháp.
Thân người đầy đủ sáu căn, hay đầy đủ chức năng thân tâm
Như đã phân tích ở phần trên, dù chỉ khiếm khuyết một trong sáu căn, bạn sẽ gặp rất nhiều trở ngại trong đời sống cũng như trong sự thực hành Phật pháp. Chúng ta có thể thấy mình vô cùng may mắn vì được sáu căn đầy đủ, cơ thể khỏe mạnh, và được tự chủ đối với thân thể của mình.
Có tín tâm với Phật pháp
Hãy suy nghĩ trong xã hội hiện đại ngày nay, có bao nhiêu người dành thời gian cho sự thực hành tâm linh, trưởng dưỡng niềm tin nơi Phật pháp? Bao nhiêu người chỉ chạy theo cuộc sống vật chất tiện nghi, hưởng thụ? Bao nhiêu người mê tín, lạc lối theo tà thuyết hay đến chùa để cầu tài cầu lộc nhằm mưu lợi thế gian?
Bởi vậy, chúng ta thật may mắn vì có tín tâm với giáo pháp. Điều này hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà do những thiện căn, những hạt giống chính pháp thiện lành đã được chúng ta gieo trồng và vun bồi trong các kiếp quá khứ.
Không phạm tội Ngũ nghịch
Tội Ngũ nghịch là năm trọng tội bao gồm giết cha, giết mẹ, giết A la hán, làm thân Phật chảy máu và phá hủy sự hòa hợp của Tăng đoàn. Những tội này gây ra ác nghiệp quá lớn dẫn đến quả báo chắc chắn tái sinh vào ba cõi dưới (Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh). Những người phạm tội ngũ nghịch không thể chứng đạt giác ngộ trong một đời. Ác nghiệp họ tạo ra quá lớn khiến sự thực hành gặp nhiều trở ngại và có thể chịu quả báo xấu ác ngay lập tức. Hãy nhận ra sự may mắn của mình vì đã không phạm một trong năm trọng tội này.
Sinh ra được hạnh ngộ Phật Pháp
Ở đây để chỉ sự may mắn được sinh ra nơi trung tâm của Phật pháp, có thắng duyên hạnh ngộ giáo pháp, hạnh ngộ Minh sư, được trợ duyên sách tấn bởi thiện hữu tri thức và một môi trường thực hành đúng đắn.
Sinh vào thời có Phật
Như đã đề cập ở trên, sinh vào thời có Phật là một phúc duyên hy hữu không thể nghĩ bàn. Bởi vậy, được sinh vào thời này, khi Phật pháp được lưu truyền, chúng sinh biết đến Tam Bảo, có cơ hội hạnh ngộ Minh sư, bạn cần tự cảm thấy vô cùng may mắn và tri ân vì có đủ phúc duyên và điều kiện thực hành giáo pháp chân chính.
Sinh thời Chính Pháp được lưu truyền kết tập
Kinh điển ghi lại, Ngài Xá Lợi Phất từng bạch Phật hỏi rằng thời Phật nào Chính pháp trụ lâu? Đức Phật trả lời: “Thời Phật Tỳ Bà Thi, Thức Khí, Câu Lưu Tôn, Ca Diếp. Bởi vì các Ngài rộng nói Kinh pháp, sau lại có người kết tập, như tràng hoa có chỉ xâu lại, dù gió thổi cũng không phân tán. Còn thời Phật Câu Na Hàm Mâu Ni và Tỳ Diệp La, Pháp chẳng trụ lâu. Phật và các Thanh văn diệt độ rồi, người sau không có Kinh pháp thu nhiếp”. Như vậy, tuy chúng ta ra đời sau khi Đức Phật Thích Ca nhập Niết bàn đã trên hai ngàn năm những vẫn được hạnh ngộ Chính pháp, nhờ công phu lưu truyền kết tập của nhiều đời Tổ sư, đây quả là một điều may mắn hiếm có.
Sinh thời Phật pháp phát triển
Hiện nay đang là thời Phật pháp phát triển: tự do tín ngưỡng của nhân dân được tôn trọng, chúng ta có thể tự do lựa chọn con đường tâm linh cũng như phương pháp thực hành phù hợp với mỗi người. Hãy suy nghĩ về các thời Pháp nạn ở Việt Nam cũng như trên thế giới để thấy rõ điều này.
Được hạnh ngộ Minh sư
Trên thế giới có bao nhiêu người có phúc duyên được biết đến Phật? Trong đó có bao nhiêu người có duyên lành được biết đến Pháp? Bao nhiêu người biết Pháp lại được hạnh ngộ Minh sư? Hãy suy ngẫm để thấy rằng dù hội tụ đầy đủ các điều kiện khác nhưng nếu bạn không được kết nối với một bậc Minh sư, một Thượng sư giác ngộ thì con đường tâm linh của bạn vẫn sẽ mờ mịt, rất nhiều khó khăn thử thách rình rập khiến bạn đi sai đường.
Được sự ủng hộ đầy đủ các điều kiện vật chất để tu tập
Ngày nay chúng ta không thiếu thốn các điều kiện vật chất, hầu hết mọi thứ đều đầy đủ. Chẳng hạn: Kinh sách được phổ biến, mạng internet cũng như các những phương tiện truyền thông khác giúp chúng ta dễ dàng tiếp cận với giáo pháp, dễ dàng kết nối với các Bậc Thầy. Môi trường thực hành như các tự viện, đạo tràng, trung tâm tâm linh cũng phát triển, tiện lợi hơn để trợ duyên cho chúng ta. Hãy tri ân những điều kiện thuận lợi đã tạo nên thắng duyên cho sự thực hành, do đó chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội.
b.2 - Thiền quán về Vô thường và Chết
Ba cõi phù du mây thu bay
Sinh tử khác nào vũ điệu say
Chúng sinh mạng mỏng như chớp lóe,
Trôi nhanh như thác đổ non ghềnh.
·Quán niệm về Vô thường
Đức Phật Thích Ca dạy rằng: “Trên thế gian không có pháp gì là thường hằng hay chắc chắn chân thật”. Bạn cần hiểu vạn Pháp đều bị chi phối bởi quy luật Vô thường. Tin và hiểu vô thường sẽ giúp chúng ta giải thoát khỏi khổ đau đến từ sự chấp thủ. Chúng ta chấp thủ vì còn vô minh và tin tưởng mù quáng rằng vạn pháp này tồn tại một cách chắc thật. Nếu cho rằng ngôi nhà này, núi sông kia, những con người nọ đều tồn tại vĩnh cửu thì đó là vô minh. Dòng sông không thường hằng bởi từng phút giây dòng nước kia vẫn luôn chảy trôi chuyển dịch. Không chỉ dòng sông con suối mà tất cả vạn pháp như nhà cửa, núi đồi, con người, cây cối cho đến cả vũ trụ,... đều theo quy luật này. Tất cả không thường hằng và đều tuân theo quy luật vô thường sinh diệt. Thế nhưng tâm vô minh của chúng ta lại thường không cho là như vậy. Mặc dù trí tuệ hiển bày sự thật còn vô minh thì nhìn nhận một cách giả dối, nhưng chúng ta hay chấp thủ mạnh mẽ vào sự bất diệt của bản thân mình, vào sự trường tồn của của cải vật chất và cả vũ trụ. Chúng ta tin tưởng tâm vô minh của mình hơn trí tuệ và chân lý khách quan của vạn pháp.
Nếu bất chợt chúng ta nghe tin ai đó từ giã cõi đời thì đó cũng là sự thị hiện vô thường. Nhưng không phải đến khi chết thông điệp vô thường mới có ý nghĩa. Trên thực tế, chúng ta đang già đi theo từng phút giây, đang tiến dần đến mốc cuối cùng của đời sống. Không phải bất chợt đến một ngày nào đó chúng ta mới già, mới chết mà những điều này đang âm thầm diễn ra từng giây, từng phút, từng giờ... Vô thường chi phối chúng ta trong từng khoảnh khắc. Nếu có trí tuệ hiểu rõ vô thường, chúng ta sẽ có cái nhìn tươi mới đầy đủ về toàn bộ thế giới hay cuộc sống này. Chúng ta sẽ nhận chân cuộc sống của mình và nhờ vậy cuộc sống sẽ trở nên dễ dàng, hạnh phúc. Ngược lại, nếu thấy cuộc sống hiện tại còn nhiều khổ đau, bạn cần biết rằng nguyên nhân chính của điều này là do bạn không có trí tuệ hiểu biết về lý Vô thường để có được thái độ sống tích cực và đúng đắn.
Lấy ví dụ, khi chúng ta trở nên già yếu. Đức Phật đã dạy: “Già là khổ”. Không chỉ là nỗi khổ của thân thể già nua, đau nhức, mỏi nhọc, rã rời,... mà còn là nỗi khổ tâm phiền muộn bám chấp ánh hào quang quá khứ. Khi bạn nhận ra tóc đã chuyển màu hoa râm, răng rụng đi vài chiếc, mắt mờ tai yếu, chẳng người hâm mộ, thiếu chúng bạn vui vầy, thì nỗi đau tâm lý này còn khó chịu hơn nhiều nỗi khổ thân như đau đầu, mỏi xương, nhức khớp... Nếu có trí tuệ quán chiếu vô thường, bạn sẽ giảm bớt được những phiền muộn tâm lý vì đã chuẩn bị tinh thần chấp nhận tuổi già bệnh tật. Nỗi đau thân thể vật lý vẫn có thể còn, nhưng nỗi đau trong tâm sẽ được giải tỏa.
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thật từ bi vô lượng. Ngài đã chỉ dạy cho chúng ta pháp quán Vô thường. Trên thực tế, khổ đau là bản chất của cuộc sống luân hồi. Vì lẽ này, việc tìm phương cách đối diện và giải quyết nó có ý nghĩa quan trọng. Điều này không có nghĩa là chúng ta xua đuổi và chạy trốn khổ đau. Như vậy sẽ không ích gì vì khổ đau vẫn sẽ luôn hiện diện. Điều quan trọng là chúng ta phải biết trực diện và thấu triệt bản chất của khổ đau một cách trí tuệ. Khi đó, bạn thấy đau khổ là một phần của cuộc sống và là bài Pháp chúng ta cần học tập, quán chiếu một cách đúng đắn. Thậm chí, chúng ta có thể chuyển hoá chúng thành hạnh phúc. Những khổ đau này vốn không thật, chúng xuất hiện chỉ vì chúng ta không biết cách quán chiếu mà thôi.
Đức Phật Thích Ca đã ban truyền phương tiện thiện xảo, thiết thực giúp chúng ta giải thoát khổ đau và định hướng đúng đắn cho cuộc đời. Nếu biết thực hành Phật pháp, chúng ta sẽ sống cuộc đời hạnh phúc, ý nghĩa và làm cho mọi người cùng hạnh phúc. Một cách chung nhất, Phật giáo Nguyên thủy mang đến cho ta thông điệp cần biết sống an lạc giác tỉnh trong hiện tại, và Phật giáo Đại thừa dạy bạn sống hòa hợp bình an với mọi người. Đây là hai truyền thống chính trong giáo lý Đạo Phật. Hai truyền thống này cần phải kết hợp với nhau giúp hành giả sống an lạc và chứng đạt chân hạnh phúc giác ngộ.
Quán niệm về Chết
Vô thường và cái chết là cặp phạm trù không thể tách rời. Dựa trên hiểu biết căn bản nền tảng về vô thường, bạn có thể suy ngẫm quán chiếu một cách sâu sắc về cái chết. Thân thể bạn giống như một cỗ xe tốt, nhưng chỉ là cỗ xe đi mượn, sớm muộn bạn cũng phải trả lại cỗ xe này. Hãy nhìn nhận rằng chết là một điều tất yếu, không ai có thể đi ngược quy luật tự nhiên chi phối hết thảy mọi người, mọi loài, mọi sự vật hiện tượng trong pháp giới vũ trụ này. Trong lịch sử, Đức Phật đã thị hiện Niết bàn, xả bỏ xác thân tứ đại sau 49 năm thuyết pháp độ sinh. Cuộc đời, công hạnh, đến cả sự ra đi của Đức Phật đều là một tấm gương, bài pháp giúp chúng ta nhận ra chân lý vũ trụ. Đó là cách bạn có thể bắt đầu tập làm quen với cái chết, ít nhất là trong suy nghĩ.
b.3 - Thiền quán về quy luật của Nghiệp
Khi mãn vận dù là Vua Chúa
Cũng giã từ của cải, giàu sang.
Bạn bè, quyến thuộc họ hàng,
Đi đâu ta cũng chẳng mangđược gì,
Chỉ duy có có nghiệp mang đi,
Theo như hình bóng không trừ một ai.
Quy luật về Nghiệp cũng rất cần được quán chiếu. Nếu không có hiểu biết đúng đắn về quy luật Nghiệp, bạn sẽ không thể tu tập giáo pháp Đức Phật. Toàn bộ hệ thống giáo lý Nguyên thủy, Đại thừa hay Kim Cương thừa đều dựa trên nền tảng của Nghiệp. Không có bất kỳ giáo lý nào của Đức Phật lại không dựa vào quy luật của Nghiệp. Đây là điểm vô cùng quan trọng trong hệ thống giáo lý Phật pháp.
Giáo lý về Nghiệp dạy rằng tất cả hạnh phúc hay đau khổ đều hoàn toàn phụ thuộc vào hành động của chính chúng ta. Toàn bộ thế giới ta đang sống được tạo nên và vận hành từ Nghiệp. Nhiều tôn giáo khác tin rằng Thượng Đế là Đấng tạo nên tất cả mọi khổ đau hay hạnh phúc. Ngược lại, quan kiến của Đạo Phật không tin ai đó ở bên ngoài, dù đó là Thượng đế hay Đức Phật, có thể tạo nên cuộc sống của mình. Tất cả chúng ta đều cần nhận thức cuộc sống này hoàn toàn phụ thuộc vào hành động thiện hay bất thiện từ xa xưa của chính mình.
Nghiệp thiện tạo nên an vui hạnh phúc, nghiệp xấu dẫn tới khổ đau. Ví dụ, ngôi Pháp đường này không phải do Thượng đế tạo ra. Nó được tạo nên bằng sự nỗ lực và ý chí của con người. Chư Ni và các Phật tử nơi đây đã đầu tư tài bảo, công sức, thời gian để xây dựng lên nó. Đó là kết quả hành động của con người, hay còn gọi là Nghiệp, chứ hoàn toàn không phải do Thượng Đế tạo thành. Chính Đức Phật Thích Ca đã nói Ngài không phải là Thượng Đế mà chỉ là một bậc Thượng sư dẫn đạo giúp chúng ta sống và làm việc tốt hơn. Ngài thực sự là bậc Thầy và người hướng đạo vĩ đại nhưng không phải là Đấng sáng tạo. Thực tế không có một vị Thượng đế nào tạo nên toàn bộ thế giới này.
Vậy qua pháp thứ ba của Tứ Niệm Pháp, chúng ta cần thấu hiểu tầm quan trọng của Nghiệp. Nếu không hiểu về quy luật Nghiệp, chân lý tối quan trọng do Đức Phật khai thị, thì bạn sẽ không hiểu tầm quan trọng của việc trở thành người tốt. Như thế, chúng ta sẽ sống và tiếp tục có những hành động bất thiện như sát sinh, trộm cắp, lừa đảo, nói dối,... dẫn đến muôn vàn đọa lạc khổ đau.
Chúng ta cần hiểu thế nào là “người xấu” và “người tốt”. Ví như hàng sáng trong thành phố có biết bao nhiêu sinh mạng gà, lợn, trâu, bò bị sát hại để đáp ứng nhu cầu khoái khẩu của con người. Những con vật này không biết nói, không biết kháng cự, không thể tự bảo vệ. Chúng chỉ biết kêu thét vì sợ hãi tuyệt vọng tận cùng nhưng chúng ta vẫn thản nhiên cắt cổ, mổ bụng, chọc tiết, moi gan chúng. Có người có thể giết chết hàng triệu con vật trong một giờ mà vẫn nghĩ rằng mình là người tốt. Đây là cách nghĩ thật vô minh, sai lệch. Vì thế, Đức Phật từ bi đã chỉ dạy chúng ta tin và hiểu về Nghiệp để trở thành người tốt, luôn làm việc tốt, nhờ thế sẽ thoát khỏi khổ đau và nguyên nhân khổ đau qua các hành vi sát sinh, lừa đảo, nói dối,... thực hành mười điều bất thiện và tránh các nghiệp ác là nguyên nhân khiến chúng ta đọa lạc trong vòng quay của luân hồi sinh tử.
Quy luật Nghiệp có hai khía cạnh chính là Nhân và Quả. Khi đã gieo nhân ắt sẽ có quả. Khi bạn gieo hạt giống của trái cam, cây cam sẽ mọc lên và cho nhiều trái ngọt. Không có quả nào không được hình thành từ một nhân. Nhân và quả luôn gắn liền với nhau. Nơi nào không có nhân thì sẽ không có quả và quả chỉ đến từ nhân được gieo trồng trước đó. Toàn bộ thế giới, vũ trụ này chính là kết quả từ những nhân tố chúng ta đã gieo trồng trong nhiều kiếp trước.
Điều này cũng giống như ngôi Pháp đường trang nghiêm đẹp đẽ này được xây dựng do chư Ni và các Phật tử đã nỗ lực góp công sức tạo dựng nên. Họ đã gieo những hạt giống tốt, nên kết quả là họ được hưởng một bầu không khí trong lành, một môi trường thanh tịnh an bình, và giờ đây tất cả chúng ta hoan hỷ ngồi trong Pháp đường này. Đây chính là kết quả từ những nhân tốt mà chư Ni và chúng Phật tử đã gieo trồng trước đó.
Hạt giống một khi đã gieo nhất định cho quả tương ứng. Nếu chúng ta là một người tốt, luôn làm việc thiện mọi lúc mọi nơi, thì kết quả là những nhân là nh sẽ luôn đồng hành với bạn.
b.4 - Thiền quán về Khổ trong sáu đạo luân hồi
Thiền quán về Khổ trong sáu đạo luân hồi
Sau khi thiền quán về Thân người khó được, Vô thường, Nghiệp, pháp thứ tư là thiền quán về Khổ trong luân hồi.
Dù đang ở đâu trong luân hồi, chúng ta cũng phải đối diện với các chướng ngại và khổ đau. Khổ đau này là do những nghiệp bất thiện, trong khi nghiệp bất thiện lại có nguyên do từ vô minh hay không hiểu rõ bản chất của tâm và vạn pháp. Chính vô minh này là nhân dẫn đến phiền não và khổ đau trong luân hồi.
Trước hết, cảnh khổ trong sáu cõi luân hồi được mô tả trong Kinh như sau:
Chúng sinh nơi Địa ngục
Chịu cực hình thiêu đốt
Ngã quỷ đói hành hạ.
Bàng sinh ăn lẫn nhau
Người chịu khổ đoản mạng
Atula tranh đấu
Ganh tỵ suốt đêm ngày
Chư thiên khổ đau ấy
Năm tướng suy xuất hiện
Cõi luân hồi vĩnh viễn
Chẳng an vui bao giờ.
Kinh Tứ niệm xứ (Smrti Upasthana) dạy rằng: “Sự đau đớn trong tám địa ngục hỏa thiêu và tám địa ngục hàn băng vượt ngoài sức nghĩ bàn. Ngã quỷ bị đói khát hành hạ; Súc sinh chịu cái khổ bị ăn tươi nuốt sống hoặc phải chịu cảnh nô lệ; Loài Người chịu cái khổ của sinh, già, bệnh, chết; Cõi Trời chịu cái khổ của sự chết, thoái chuyển và đọa vào ác đạo”. Nói tóm lại, không chỉ những khổ đau đầy rẫy các cõi luân hồi mà ngay cả những hiện tướng hạnh phúc và bình an ở trong các cõi đó cuối cùng cũng kết thúc bằng khổ đau. Vì vậy, hành giả cần phải nỗ lực tinh tiến tu tập để thoát luân hồi sinh tử.
Nỗi khổ của Ngã quỷ. Do ác nghiệp keo sẻn, trộm cắp đã tạo, bạn có thể tái sinh làm loài quỷ đói với hình thù xấu xí, bụng to như cái trống, cổ nhỏ như cây kim, ăn uống toàn những đồ nhơ bẩn, hoặc bị đói cả ngàn năm không có gì để ăn. Hãy nghĩ đến cơn đói của bạn, thông thường, bạn không thể chịu được cảm giác cồn cào đó mà lập tức phải đi kiếm ngay một cái gì đó để lấp đầy bao tử. Vậy mà Ngã quỷ phải chịu đựng nỗi khổ đói khát gấp bội lần như thế trong hàng nghìn năm.
Nỗi khổ của loài Súc sinh. Loài này phải chịu đựng năm loại khổ: nỗi khổ ăn thịt lẫn nhau, khổ do ngu si ám chướng, khổ chịu nóng lạnh, khổ chịu đói khát, khổ bị khai thác đọa đày hoặc sai làm việc nặng. Bạn cần nhận thức một cách sâu sắc rằng mình sẽ khốn đốn đến mức độ nào nếu phải tái sinh làm một hữu tình như vậy.
Nỗi khổ của cõi Người. Từ khi nằm trong bào thai mẹ đến khi rời khỏi thế gian, con người luôn phải trải qua tám loại khổ: sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, khổ vì yêu mến phải lìa xa, khổ vì oán ghét hận thù mà phải gặp gỡ, khổ vì mong cầu không được, khổ vì thân (năm đại: địa, thủy, hỏa, phong) và tâm (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) mất quân bình.
Nỗi khổ của cõi A tu la. Chúng sinh cõi này tuy cũng được hưởng đời sống sung sướng nhưng luôn có tâm đố kỵ, ganh ghét, hay đi đánh nhau với chư Thiên cõi Trời. Họ cứ thế tranh đấu cả đời và thường bị thua cuộc, luôn phải đối diện với sự thất bại, cái chết đau đớn trên chiến trường. Mưa tại cõi này thường hóa thành gươm đao nên cảnh giới A tu la cũng tràn đầy sự đau khổ.
Nỗi khổ của cõi Trời. Các chúng sinh cõi Trời có thọ mạng dài lâu, sung sướng thụ hưởng vật chất dục lạc và quá no đủ thỏa thê nên dường như không bao giờ nghĩ đến nhu cầu tu tập tâm linh hay tìm nơi nương tựa vững chắc. Thọ mạng tuy rất dài nhưng khi phúc báo cạn kiệt, họ phải trải nghiệm sự đọa lạc xuống cõi thấp hơn.
Quán chiếu toàn bộ nỗi khổ đau trong sinh tử luân hồi sẽ giúp bạn có động cơ đúng đắn cùng tâm xả ly mạnh mẽ để tinh tấn thực hành tâm linh và sống một cuộc đời ý nghĩa. Hơn nữa, khi thấu hiểu nỗi khổ đau mà các chúng sinh khác phải chịu đựng, chúng ta dễ dàng phát triển tâm từ bi, cảm thông và yêu thương mọi người, mọi loài và có thêm động lực mạnh mẽ để tu tập giác ngộ, đem lại lợi ích cho hết thảy hữu tình.
Như vậy, thiền quán “Tứ Niệm Pháp” cho chúng ta hiểu rõ hơn về Thân người khó được, Vô thường, Nghiệp và nỗi thống khổ của sáu đạo luân hồi để từ đó phát khởi động lực chân chính khi phát nguyện và thực hành Quy y. Tuy nhiên, nếu quy y còn dựa trên sự tướng thì đó chưa phải là quy y chân chính. Chúng ta cần có trí tuệ thấu rõ để phát tâm chí thành quy y từ sâu thẳm trong tim mình. Động cơ chân chính của Quy y gồm hai khía cạnh: tâm xả ly luân hồi đau khổ và tâm chí thành mong cầu giác ngộ giải thoát. Xả ly luôn đứng hàng đầu, là nhân, còn tâm chí thành là quả. Cả tâm chí thành và tâm xả ly đều là trí tuệ. Tâm chí thành là trí tuệ hiểu rõ Niết bàn giải thoát, còn tâm xả ly là trí tuệ hiểu rõ bản chất Luân hồi sinh tử. Vì vậy, trưởng dưỡng trí tuệ đúng đắn chính là điểm then chốt trong pháp Quy y.
2. Điều cốt yếu khi thực hành Quy y
a. Xả ly là Nhân
Nếu không tu hạnh xả ly, bạn không có cách nào để bắt đầu thực hành Pháp Quy y.
Một trong những lý do khiến chúng ta chưa có được sự xả ly chân chính vì chúng ta còn nhiều vô minh che chướng và quan niệm sai lầm về thế giới này. Bạn cho rằng bản chất của tất cả vạn pháp như nhà cửa, con người, động vật, núi sông… cũng giống như hiện tướng bên ngoài của chúng, có vẻ thường còn và chắc thật. Bạn tự huyễn hoặc và cho rằng mình đang sống hạnh phúc vĩnh cửu. Thậm chí ngay cả khi biết chắc mình sẽ già, sẽ bệnh, sẽ chết, chúng ta vẫn cố tình tránh né và cố gắng tìm vui trong sự vô minh quên lãng, an hưởng hạnh phúc tạm bợ, giả dối bằng cách che đậy mọi khổ đau. Tuy nhiên, theo giáo lý của Đức Phật, đó là cách sống vô minh nhất. Nếu thấy mọi thứ đều đầy đủ, chắc thật, viên mãn, chúng ta sẽ chẳng có nhu cầu tìm đến quy y, nương tựa ở nơi nào khác.
Tâm xả ly chính là trí tuệ hiểu rõ bản chất khổ, không, vô thường, vô ngã của luân hồi hay cuộc đời thế tục này. Như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni khi thấu rõ nỗi khổ của “sinh, già, bệnh, chết” đang chi phối loài người và tất cả chúng sinh trong luân hồi, từ quyền thế cao sang như bậc vương giả đến kẻ nghèo hèn như người nô lệ, Ngài đã mạnh mẽ xả ly để tìm ra con đường chấm dứt đau khổ. Vậy chúng ta cần tỉnh giác, biết rõ bản chất khổ đau của luân hồi để có được chính kiến chân thật về xả ly.
Xả ly cần xuất phát từ trong tâm. Nếu cho rằng phải xa lánh thế gian, gia đình, ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc, không tiếp xúc với mọi người mới là xả ly đúng đắn thì đó là một quan niệm sai lầm. Trên thực tế, dù đang sống cùng gia đình, không thể lánh mình trong rừng sâu, nhưng nếu tâm bạn không bám chấp vào cuộc sống thế tục mà hiểu rằng gia đình và cuộc sống này thực chất chỉ là ngắn ngủi, giả huyễn, do duyên hợp mà thành, có hợp ắt có tan thì lúc đó bạn đang trải nghiệm sự xả ly chân thực. Ngược lại, dù xa lánh gia đình nhưng tâm bạn vẫn ngày đêm tưởng nhớ, tiếc nuối cuộc sống thế gian, tuy về mặt sự tướng, bạn đang thực hành xả ly nhưng trong tâm bạn vẫn còn đầy bám chấp và những ràng buộc đó sẽ càng khó tháo gỡ.
b. Tâm chí thành là Quả
Tâm chí thành là quả, là trí tuệ hiểu rõ Niết bàn giải thoát
Nếu như tâm xả ly là trí tuệ hiểu biết sâu sắc bản chất của luân hồi sinh tử thì tâm chí thành là trí tuệ hiểu rõ về Niết bàn hay trạng thái tâm giải thoát, giác ngộ nơi mỗi người.
Tại sao hành giả cần phát khởi tâm chí thành?
Trong cả Tam thừa Phật giáo, tâm chí thành đều chỉ trí tuệ hiểu biết về bản chất của Niết bàn, hay trạng thái giác ngộ, vì giác ngộ là mục tiêu mà tất cả mọi hành giả đều xoay tâm chí thành quy hướng về đó. Khi hành giả nhìn thấu những khiếm khuyết của cuộc sống luân hồi thế gian như bản chất vô thường, giả tạm và đau khổ của nó và vì thế không còn tham luyến, bám chấp vào cuộc sống đó, đương nhiên, hành giả sẽ mong muốn tìm được một đối tượng có thể đem lại hạnh phúc, an bình, sự thường còn, hoàn hảo và viên mãn. Nơi đó không có khổ đau, không có luân hồi và không bị chi phối bởi vô thường. Đó chính là Niết bàn, thuật ngữ chỉ sự giác ngộ, giải thoát rốt ráo. Phát triển trí tuệ hiểu biết về những phẩm chất vô thượng tuyệt hảo đó của Niết bàn chính là trưởng dưỡng tâm chí thành quy hướng về con đường giác ngộ.
Niết bàn hay giác ngộ được biểu hiện và minh chứng sống động thông qua chính bậc Kim cương Thượng sư và Tam Bảo. Trong cả ba Thừa Phật giáo, tâm chí thành đều hướng về Phật, Pháp, Tăng, tuy nhiên, mỗi Thừa tập trung đặc biệt vào một đối tượng được cho là quan trọng hơn. Nguyên thủy Phật giáo hướng tâm chí thành nhiều hơn tới Đức Phật. Đại thừa Phật giáo chú trọng hơn tới Pháp. Kim Cương thừa Phật giáo tin rằng Tăng già là đối tượng quan trọng nhất để phát triển Tâm chí thành. Cụ thể, trong ba đối tượng của Tam Bảo thì Bậc Thượng sư là quan trọng nhất. Thông qua bậc Căn bản Thượng sư, bạn sẽ phát triển được tâm chí thành chân thật hướng về Đức Phật và giáo pháp một cách hoàn hảo. Lúc đó bạn sẽ đón nhận được giáo pháp chân thật từ Đức Phật.
Tâm chí thành không phải niềm tin tôn giáo mà chính là trí tuệ và kinh nghiệm thực chứng
Nhiều người nhầm lẫn tâm chí thành với đức tin và điều này hoàn toàn sai lầm. Nếu như các tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải phát khởi niềm tin vào một điều gì đó mà chúng ta không thấy và cũng không thể kiểm chứng sự tồn tại thì đó là niềm tin vô điều kiện, mang tính chất tín điều.
Tâm chí thành theo quan điểm của Phật giáo không dựa trên sự cuồng tín như vậy mà là niềm tin được trưởng dưỡng bởi trí tuệ. Đó không phải những lời ca ngợi suông hay đức tin được xây dựng một cách mù quáng, áp đặt mà chính là kinh nghiệm thực chứng, niềm tri ân chân thật xuất phát từ sự thực hành. Chính vì lẽ đó mà niềm tin của tâm chí thành rất thiết thực, hiện tại.
Tâm chí thành có ba thứ lớp cụ thể: Thứ nhất là tâm chí thành truyền cảm, nghĩa là bạn nhận được nguồn cảm hứng từ chư Phật, từ Niết bàn giải thoát, từ lòng từ bi trí tuệ, hay từ bất kỳ nguồn cảm hứng tâm linh thanh tịnh nào. Thứ hai là tâm chí thành tín nguyện, ví dụ như tâm tha thiết mong nguyện chứng đạt giác ngộ, tha thiết mong nguyện thành Phật, tha thiết mong nguyện chứng ngộ Đại Thủ Ấn (Mahamudra). Thứ ba là đức tin chân thật dựa trên sự chứng đạt trí tuệ giác ngộ hay hiểu biết sâu sắc về tự tính tâm.
c. Bồ đề tâm trong thực hành Quy y
Phát Bồ đề tâm vì lợi ích giải thoát hết thảy chúng sinh
Về bản chất, Bồ đề tâm chính là sự hợp nhất của tâm từ bi và trí tuệ hiểu biết. Theo tiếng Phạn, Bồ đề tâm có nghĩa là tâm giác ngộ. Trưởng dưỡng tâm từ bi cũng chính là phát triển trí tuệ hiểu biết chân chính. Phát triển trí tuệ hay trưởng dưỡng hiểu biết về chân lý cũng chính là trưởng dưỡng một trái tim rộng mở, cho phép bạn hòa nhập, yêu thương và cảm thông với tất cả mọi người, mọi chúng sinh.
Thực hành quy y chính là trưởng dưỡng, vun bồi những thiện hạnh tích cực được dẫn dắt bởi trí tuệ thay vì những hành vi tiêu cực do vô minh đem lại. Người thực hành quy y không làm tổn hại bất cứ ai, dù là loài vật, cỏ cây hay mọi loài chúng sinh.
Quy y Phật là phát nguyện nương tựa vào giáo pháp của Đức Phật, thực hành theo những lời Đức Phật dạy, noi theo con đường Ngài đã đi. Quy y Pháp là phát nguyện không làm tổn hại đến tất cả chúng sinh, cho dù hữu tình hay vô tình. Quy y Tăng là nương tựa và noi theo Tăng già, những người giữ tâm thanh tịnh, thực hành thiện hạnh lợi ích hết thảy chúng sinh. Dù chúng ta chưa mang hình tướng xuất gia nhưng khi thực hành các thiện hạnh như vậy, chúng ta cũng là một phần của Tăng già.
Đại thừa Phật giáo Mahayana mang nghĩa là cỗ xe lớn hay trái tim lớn, vì “yana” còn có nghĩa là “trái tim”. Bởi vậy, trưởng dưỡng Bồ đề tâm là phương pháp thực hành đầu tiên của Đại thừa Phật giáo. Việc thấu hiểu và trưởng dưỡng nền tảng căn bản của Đại thừa Phật giáo sẽ giúp chúng ta tu tập và phát triển cả Nguyên thủy Phật giáo và Kim Cương thừa Phật giáo.
Đối với hành giả Kim Cương thừa, Bồ đề tâm là một điều kiện tiên quyết của quy y. Bởi vậy, trong nghi thức, sau khi phát nguyện quy y, chúng ta cần phát Bồ đề tâm. Điều đó sẽ giúp chúng ta dẹp bỏ tâm ích kỷ chật hẹp, chuyển hoá các xúc tình tiêu cực và rộng mở tấm lòng, ban trải tình yêu thương đến mọi người, mọi loài.
Căn bản của Bồ đề tâm cần được chuyển thành những hành động thiết thực và cần được thực hiện trong đời sống hàng ngày. Chẳng hạn như tập ăn chay và học cách quan tâm đến sự sống của những loài khác, chính niệm, tỉnh thức trong mọi hành động thân khẩu ý để luôn luôn hộ mạng cho các loài chúng sinh.
- 1508
Viết bình luận