5. Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần chú
Phật Mẫu Chuẩn Đề Thần chú
(Trích ở Kinh Chuẩn Ðề nơi hàm chữ Mạc trong Đại tạng)
Khể thủ quy y Tô tất đế
Đầu diện đảnh lễ thất Câu chi
Ngã kim xưng tán Ðại Chuẩn Ðề
Duy nguyện từ bi thùy gia hộ
(Cúi đầu lạy pháp Tô Tất Ðế (ngôi pháp),
Chân thành đảnh lễ bảy ức Phật (ngôi Phật),
Con nay ca ngợi đức Ðại Chuẩn Ðề (ngôi Tăng),
Xin rủ lòng từ bi gia hộ).
Bốn câu chữ trên là của đức Long Thụ Bồ tát làm bài kệ để đọc mở đầu tụng thần chú nầy: Câu đầu là quy y ngôi “Pháp bảo”; câu thứ hai là kính lễ ngôi “Phật bảo”; câu thứ ba là làm lễ ngôi “Tăng bảo”; câu thứ tư là cầu nguyện cả Phật pháp tăng Tam Bảo đều chứng minh gia hộ cho.
Phạm ngữ Su Si Dhi dịch ra chữ Nho mà tiếng ta đọc là: Tô tất địa, tô tất đế (đọc đủ là Tốt tất địa pháp: một trong ba pháp lớn của ba bộ chân ngôn tông). Tô tất đế, dịch: Thiện viên thành, Diệu thành tựu, chữ thiện nghĩa như chữ Diệu Viên thành nghĩa như thành tựu. Nghĩa là phép tu này rất “nhiệm mầu” vì “hay khéo trọn” mãn được tất cả lòng nguyện, và cũng có thể “khéo nên” mọi sự lý nghĩa thế gian và xuất thế gian.
Chân thành đỉnh lễ: là người năng lễ, bảy ức Phật là Phật sở lễ. Nghĩa là bảy ức Phật bị người lạy.
Tiếng Phạn Koti (Cu tri) ta đọc là Cu Chi, dịch: Trăm ức. Nghĩa là đức Chuẩn đề Phật Mẫu với Bảy trăm ức Phật đoanh vây.
Tiếng Phạn Can di (Chuẩn đề) hoặc đọc: Tôn Na, Tôn Di.... Dịch nghĩa là Ra làm, là nói: lòng nguyện rộng lớn đúng nơi lý, dùng đại trí để dứt vọng hoăc, vì đủ các nhân hạnh để ra làm việc lợi tha cho chúng sinh. Lại còn dịch là thành thực, nghĩa là: từ nơi “pháp không” tường quán ra “Pháp giả” vì để thành tự cái cảnh trí tịch diệt.
Những chữ Quy y...Duy nguyện...nghĩa nó thuộc về ý nghiệp; đầu diện đảnh....là thân nghiệp; xưng tán....là khẩu nghiệp. Nghĩa là người trì tụng thần chú này, đem toàn lực cả ba nghiệp thân, khẩu, ý đồng thời tương ứng nhau, cốt được nhất tâm thanh tịnh để cho trí và nguyện của người được tương ứng nhau với trí nguyện của Thánh, thì tâm Từ bi của đức Chuẩn Đề trọn thâu gồm thân tâm của người, nên nói là thùy gia hộ: rủ lòng từ bi đoái xuống để thêm trí nguyện giúp cho.
Mẫu: mẹ, Pháp là thầy học của chư Phật, thật trí là mẹ và Quyền tài là cha của Chư Phật. Vậy có thể thấy rằng: nguyên bảy số Cu Chi Phật đều do nơi pháp “Chuẩn Đề tam muội” để chứng quả bồ đề, mà tất cả chúng sinh cũng nên thụ trì sẽ chứng quả Phật. Vì pháp kết thành ra quả Phật nên gọi là Phật mẫu.
Kinh Chuẩn đề chép: Đức Như Lai trụ tại vườn cây của hai ông Kỳ Ðà, Tu Ðạt, được tứ chúng và Bát bộ vi nhiễu, đức Thế Tôn vì thương tưởng đến chúng sinh bị nghiệp dày phước mỏng trong đời mạt pháp, nên Phật vào định Chuẩn Đề tam muội, rồi thuyết pháp, thuật lại phép thần chú này là chỗ của bảy trăm ức Phật đã nói:
Nam mô tát đa nẫm, Tam miệu tam bồ đà, Cu chi nẫm đát điệt tha. Án, Chiết lệ chủ lệ Chuẩn Đề ta bà ha.
Phật dạy rằng: người trì tụng thần chú này đủ chín chục muôn biến, có thể diệt được các tội thập ác, tứ trọng và ngũ nghịch. Nhẫn đến với nhà thế tục nào bất luận là tịnh hay uế, chỉ cần chí tâm tụng thần chú này, liền được tiêu trừ tai nạn bịnh hoạn, và tăng nhiều phước thọ. Tụng đủ 49 ngày, liền được đức Bồ Tát sai hai vị Thánh giả để thường phò hộ người ấy trong những lúc đi đứng nằm ngồi.
Những người; hoặc cầu cho đặng trí huệ, hoặc cầu tiêu chướng nạn, hoặc cầu cho được phép thần thông, hoặc cầu quả vô thượng bồ đề....chỉ y theo pháp thiết đàn tràng, tụng đủ một trăm muôn biến, thì những người ấy liền đặng ở nơi tịnh độ của chư Phật, khắp hầu hạ chư Phật, khắp nghe cả pháp mầu trọn chứng quả Bồ Đề.
Phụ chú:
Trăm ức Kinh Hoa Nghiêm phẩm A tăng kỳ nói : 10 vạn làm một lạc xoa, lạc xoa là con số ức; 100 lạc xoa làm 1 cu chi. Cu chi có 3 hạng : một 10 vạn; hai 100 vạn; ba 1000 vạn. Ngài Huyền Trang Tam Tạng định số là ngàn vạn. Trong bài kệ trên, cai chữ Cu chi đó là gọi tắt hiệu “Tỳ Cu Chi Quan âm” cũng gọi tắt hiệu “thất Cu Chi Phật mẫu”.
- 15800
Viết bình luận