3. Pháp quán Mười thừa
Pháp quán Mười thừa
-
Quán cảnh bất tư nghì - Tức một niệm hiện tiền, là cảnh mầu sở quán.
-
Chính phát tâm bồ đề - Nương trên cảnh mầu, để dấy cái thể nguyện lớn.
-
Thiện xảo an tân chỉ quán – Khéo dùng pháp chỉ pháp quán, để an trụ lòng đạo.
-
Phá pháp khắp - Lấy ba pháp quán hay để phá khắp cả các pháp vọng mê.
-
Biết thông tắc – Sinh diệt pháp ác đó là bế tắc, vô sinh pháp lành đó là khai thông.
-
Đạo phẩm điều thích – Ba mươi bảy phẩm đạo phẩm để điều hoà cho định và huệ quân bình với nhau.
-
Đối trị giúp mở - Với chánh đạo khó phát triển, nên cần phải có trợ đạo.
-
Biết ngôi thứ - Biết được ngôi thứ của Thánh hiền, đặng khỏi cái lỗi thượng mạn thối lui.
-
Hãy an nhẫn - Gặp cảnh thuận nghịch, tâm chẳng động, có thể tiến lên bực Thánh.
-
Lìa pháp ái - Chớ chấp yêu pháp tương tự, mới có thể tiến lên bậc Sơ trụ pháp tánh.
---o0o---
Đồng thể Tam Bảo
Ngôi Đồng thể cũng gọi là ngôi Nhất thể, là cái pháp thân của Phật. Biệt tướng của ngôi Tam Bảo, là cái tướng của Báo thân Ứng thân của Phật. Song tánh tướng của chư Phật vốn là nhứt như, nguyên không hai ba, chỉ nhân vì căn cơ của chúng sanh có riêng biệt, nên đức Như Lai Ngài đối trong một thể mà phân ra ba thân, Đồng và Biệt ba Bảo để ứng cơ thuyết pháp. Tuy có Đồng thể và Biệt tướng, mà đâu chẳng tại trong tự tâm của chúng ta sẵn đủ cả. Thế thì, nay quy y đây tức là quy nơi đồng và biệt Tam Bảo trong tự tánh.
Con nay phát tâm sám hối đây, chẳng vì cầu cho mình sẽ hưởng phúc báo ở nhân gian và thiên thượng, hay là quả Thánh Thanh Văn, Duyên Giác, nhẫn đến các vị Bồ Tát bên Quyền thừa; mà duy chỉ nương nơi bậc Tối Thượng thừa, phát tâm Bồ đề, để nguyện cùng pháp giới chúng sinh, đồng một thời đều đắc bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác. (Tức là đại đạo của Phật quả; Viên giáo, bậc Sơ trụ, Biệt giáo mới đầy đủ đắc đạo “Vô thượng Chánh đẳng Biến chánh giác” đây).
Đây là phổ vị chúng sinh mà phát nguyện.
Con: Người bái sám chính tự mình xưng hô. Phát tâm: Dấy cái tâm tu chứng lên quả Phật Vô thượng Chánh đẳng Biến Chánh giác. Bất vị tự cầu: Phi như các thánh Nhị thừa chuyên vì tự cầu cho mình ra khỏi tam giới, mà là con nay khắp vì pháp giới chúng sinh một giờ đồng thành đạo Phật, Nhân gian thiên thượng: Nói trời và người là đã khắp trùm lục đạo, do lục đạo duy người và trời là hưởng phúc thắng hơn các đạo kia, nên riêng nói lên nhân gian thiên thượng. Song, các Trời còn có cái khổ năm suy tướng hiện, nhẫn đến Trời Phi phi tưởng ở trên đỉnh thượng giới, sống rất lâu tám vạn đại kiếp, đến khi hưởng hết phúc còn đọa làm thân con chồn có cánh biết bay (là ông Uất Đầu Lam Phất đó), huống chi loài người và Tu La, Súc sinh, Ngạ quỷ, Địa ngục ư!?
Bởi vì chúng sinh ở Địa ngục, chịu các khổ: lửa đốt, giá lạnh v.v… không một giờ tạm ngừng, chúng sinh ở trong Ngạ quỷ cả trăm ngàn muôn kiếp, chẳng hề nghe đến cái tên nước cháo, thường chịu những khổ đói khát! chúng sinh trong loại Bàng sinh, thường chịu mọi khổ giật mình sợ hãi vì bị ăn tươi nuốt sống lẫn nhau! Các Thần A Tu La thường chịu cái khổ ưa chiến đấu bị chặt tay chặt chân. Chúng sinh giữa nhân đạo, thì thường chịu mọi điều thống khổ: sinh lão bịnh tử ưu bi phiền não.
Ví dẫu tu chứng đến các Thánh: Thanh Văn, Duyên Giác, đã ra khỏi ba giới, hết sinh tử phiền não, nhưng còn sa trệ nơi Niết Bàn không tịch, không thể ra nơi cảnh giả để độ sinh.
Dầu là bậc quyền thừa Bồ tát, đã phát khởi cái đại tâm phổ hoá chúng sinh, nhưng còn có cái vô minh hoặc chưa phá được, thì chưa phải cứu cánh.
Con nay phát tâm bái sám đây, nhẫn có chút công đức nào bằng mảy lông hột bụi, cũng phổ nguyện các pháp giới chúng sinh một giờ đồng đắc đạo Phật tam miệu tam Bồ đề, đến sau đó mới thôi.
Cung kính cúi lạy mười phương tột cõi hư không tất cả chư Phật.
Cung kính cúi lạy mười phương tột cõi hư không tất cả tôn Pháp.
Cung kính cúi lạy mười phương tột cõi hư không tất cả Hiền Thánh Tăng.
Đây là quy y các ngôi Tam Bảo nhiều đến vô cùng vô tận.
Mười phương: Đông, Nam, Tây, Bắc, bốn góc và thượng phương, hạ phương.
Như từ phương Đông thẳng đi với hư không chẳng khá hết, thế giới chẳng khá hết, một thế giới là một đức Phật, thì với chư Phật chẳng khá hết, mà với Pháp bảo và Tăng bảo cũng chẳng khá hết. Đó là kể một phương Đông, còn chín phương kia cũng như thế.
Thế thì với: Mười phương hư không, và ngôi Tam Bảo nữa có thể cùng tận ru!
Tất cả: Là lời khắp gồm. Con nay vận cái tâm làm pháp quán tưởng quy y tất cả vô tận ngôi Tam Bảo, để cầu cho ta với chúng mau thành quả Vô thượng Bồ đề.
Chỉn bởi, với “Tự tánh chân không” trong ngần vắng lặng, lại bỗng mê mờ đi mà làm ra cái ngoan không mù tối; với tự tánh mỗi sự viên dung, lại bỗng mê mờ đi làm ra cái thế giới phân cách khác lạ nhau! Nếu hay giác ngộ trở lại, thì hiện tiền một niệm đó, vốn là tinh minh tức là nghĩa vô tận chư Phật ; hiện tiền một niệm đó, thể nó vốn trống vắng tức là nghĩa vô biên hư không: hiện tiền một niệm đó nó đủ các sự công đức, tức là nghĩa viên dung thế giới.
Ngài Trí Giả Đại Sư nói: “Thoạt vậy một niệm, tức đủ pháp mười giới mười như, ngoài một niệm ra không còn những gì bằng một sợi tóc sợi lông nữa”.
Chúng ta hiện tiền phát cái tâm quảng đại, để khắp lạy vô tận pháp giới Tam Bảo, thì với vô tận pháp giới, và vô lượng Tam Bảo, chỉ ở trong “Nhất niệm tâm” không thiếu không dư. Như thế quán tâm lạy tụng, thì nghiệp đời trước hoàn toàn tiêu diệt, tỷ như nước sôi đổ vào khối nước đá.
Kính lạy các đức Như Lai đủ cả mười hiệu: Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hành Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.
Đó là xưng dương đỉnh lễ mười hiệu của chư Phật (88 vị Phật).
Mười hiệu là phổ thông, vì mỗi đức Phật đều đủ có cả, nên xưng trước nhất.
Như Lai: Tánh của Pháp thân, thể vẫn chẳng động gọi là Như; bi trí hiện ra thân, hào quang, diệu dụng khắp soi, gọi là Lai (tức Ứng thân và Báo thân).
Pháp thân như cõi hư không, thanh tịnh vốn sẵn, không lại không đi; bi trí như mặt nhật, sáng suốt khắp soi, đâu chẳng khắp giáp. Chúng sinh tuy thấy Phật có cái tướng ứng thân, và báo thân mà chưa thấy được pháp thân, vì pháp thân thuần và lý, hẳn không hình tướng, thường vẫn trong vắng sáng và vắng không hai, tức gọi là Như lai.
Với ba thân: Pháp, Báo, Ứng đã rõ ở Nhị thời cúng dường nghi, và Kinh Di Đà cũng có biểu đồ.
Ứng Cúng: Ứng: Chịu. Các bậc Thánh bậc Nhị thừa mới đoạn được phiền não của kiến hoặc, tư hoặc, thoát liễu cái thân phân đoạn sinh tử, thì chỉ chịu (ứng) người và trời cúng dường, nên gọi là “Bán ứng cúng”. Đức Như Lai đã dứt trọn ba hoặc (kiến hoặc; tư hoặc; vô minh hoặc), trừ hẳn hai biên sinh tử (phận đoạn và biến dịch), muôn đức trọn thành, phúc huệ đầy đủ, khắp chịu (Ứng) chín cõi cúng dường, nên gọi “toàn ứng cúng”.
Chánh Biến Tri: Chánh: Trung đạo. Biến: Không có hai bên. Tri: Viên dung ba trí. Vì Phật đối với hai bên, trung đạo chăng chẳng rõ biết. Bởi chúng sinh trong sáu ngả đều chấp trước nơi bên có; các Thánh trong Nhị thừa sa trệ nơi bên không; Bồ Tát bên Quyền thừa, trụ nơi “chỉ trung lý tánh”, các vị pháp tánh Bồ Tát, sáng lần từ phần “tròn trung lý tánh”, bậc Diệu Phật quả thì với hai bên chẳng chấp trước, với trung đạo chẳng an trụ, ráo rốt không chỗ nào chẳng dung hoà, thế là viên dung ba đế cả.
Minh hạnh túc: Minh: tức là tam minh, nghĩa là thiên nhãn minh, thì thấy biết được cả đời hiện tại. Túc mạng minh thì thấy biết cả đời quá khứ. Lậu tận minh thì thấy biết cả đời vị lai. Hành: tức lục độ, bởi Phật từ vô lượng kiếp tu sáu độ, muôn hạnh, công chứng đến tròn tột, ba minh rỗng suốt.
Thiện Thệ, Thiện: khéo. Thệ: Qua. Nghĩa là Phật Ngài dùng cái chánh trí phá hết ba hoặc, khéo ra nói thế gian mà thành quả Phật, đã thành Phật quả, tuy lại cõi nầy hoá hiện thân ra, mà chẳng còn bị nhiễm nơi sinh tử.
Thế gian giải: thế gian là các pháp hữu lậu, xuất thế gian là các pháp vô lậu, mà những pháp ấy, trí của Phật đâu chẳng hiểu rõ sáng suốt.
Vô thượng sĩ: Với chín pháp giới, không một ai có thể cùng sánh vai với Phật, vì Phật là bực độc nhất vô tỷ, mà lại hay phổ biến ứng hiện cả chín giới kia.
Điều ngự trượng phu: Đối với chúng sinh có tánh nhu nhược, Phật ngài điều hòa khiến được dũng tiến; với kẻ có cái tánh cang cường, Phật ngài ngự trị uốn nắn khiến cho khiêm thuận, tức là đại trượng phu điều ngự chúng sinh. Lại, thân của Phật đủ cả tướng tốt vi diệu, nên nói là Trượng phu. Trong kinh thi, lời chú rằng: Vả có cái đức phó tướng, mà có thể nương tựa, gọi là trượng phu. Phó: Sư phó; phó tướng đều là nghĩa giúp: Đem đức nghĩa ra giúp cho chúng được nương tựa. Vậy biết: Trượng phu là bực Sư phó.
Thiên nhân sư: Phật làm vị Đạo Sư của thiên thượng lẫn nhân gian. Lại, với chúng sinh ở bốn ác đạo thì khó tế độ, vì chúng bị nghiệp báo làm chướng ngại; với chúng sinh ở thiên đạo, nhân đạo thì dễ hoá độ, nên gọi là thiên nhân sư, vì tối hậu thân thì ở cung Trời Đâu Suất để độ các trời giáng sinh xuống Ấn Độ để giáo hoá chúng nhân, Phật nào cũng thế.
Phật: cựu dịch tắt gọi là Phật; tân dịch đủ gọi là Phật Đà. Tiếng Phạn là Buddha (Phật Đà), dịch là giác giả, hoặc Tri giả. Giác có hai nghĩa: giác sát và giác ngộ. Giác sát phiền não, chẳng cho nó làm hại tâm thần, tỷ như người đời giác tri kẻ làm giặc, để mà phòng, nên gọi là giác sát, ấy gọi là nhất thế trí. Giác tri sự lý của các pháp, lảu lảu phân rành, tỷ như hết mê mộng đã thức, gọi là giác ngộ, thế gọi là nhất thế chủng trí. Đủ có ba giác, như biểu đồ trước đã rõ. Nghĩa là hay phổ giác chúng sinh, để về nơi chân giác.
Bộ Thành Thật Luận, thì lấy hiệu vô thượng sĩ và hiệu Điều ngự nhập chung làm một hiệu; Phật, Thế Tôn làm hai hiệu. Vì rằng ngôi rất không trên, trọn hay điều phục chúng sinh. Còn bộ Đại Luận, thì đem vô thượng sĩ điều ngự phân ra làm hai hiệu, Phật thế tôn nhập chung lại làm một hiệu. Vì rằng Thế Tôn là tổng hiệu do đủ mười hiệu trên, thì thế xuất thế gian mới xưng là độc tôn.
Mười hiệu đây là hiệu phổ thông của chư Phật, vì Phật nào cũng đồng xưng thế. Còn như hiệu Di Đà, hiệu Thích Ca v.v… là hiệu riêng của chư Phật, vì mỗi đức Phật danh đều khác.
Từ đây sắp xuống, chính là lễ bái 89 đức Phật (vì thêm đức A Di Đà, thành số tám mươi chín Phật), phân làm ba phần:
1. 53 Phật,
2. 35 Phật,
3. Một đức A Di Đà Phật.
Với số 53 Phật, Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng nhị Bồ Tát nói: Bấy giờ ông Dược Thượng Bồ Tát làm hành giả xưng nói đời quá khứ, danh hiệu của 53 Phật, thưa với chúng rằng “Các pháp tử! Đời quá khứ có Phật tên là Phổ Quang, kế có Phật tên là Phổ Minh, kế có Phật tên là Phổ Tịnh v.v… nhẫn đến có Phật tên Nhất Thế Pháp Tràng Mãn Vương”. Ông Dược Thượng Bồ Tát thuyết kể danh hiệu của 53 đức Phật về đời quá khứ rồi, lặng thinh ngồi định.
Bấy giờ ông Dược Thượng liền từ trong định, đặng thấy bảy đức Phật Thế Tôn từ quá khứ. Đức thứ nhất là Tỳ Bà Thi Phật khen rằng: “Hay thay hay thay! Thiện Nam Tử (Dược Thượng)! Người tuyên nói 53 Phật danh, bèn là về quá khứ lâu xa, các Ngài vẫn lớp cũ đã ở tại cõi ta bà này, từng giáo hoá cho chúng sinh được thành thục, mà các Ngài đã vào cõi Niết Bàn rồi. Thế có Thiện nam tín nữ và bao chúng sinh khác, được nghe danh đức của 53 Phật đây, thì người ấy suốt trăm nghìn muôn ức kiếp số A Tăng Kỳ, chẳng đoạ xuống ba ác đạo. Hoặc lại có người xưng niệm danh hiệu của 53 đức Phật đây, thì người ấy luôn luôn mỗi đời sinh ra chỗ nào cũng thường đặng gặp mười phương chư Phật. Hoặc có người năng chí tâm kính lạy 53 đức Phật đây, dứt được tội tứ trọng, ngũ nghịch và tội chê bai pháp phương đẳng, thảy đều thanh tịnh. Vì là vốn lời thệ nguyện của chư Phật đây. Nên người lễ kính, trong mỗi niềm liền đặng trừ diệt các tội như đã nói trên”.
Kế với Phật trước là Đức Thi Khí, Đức Tỳ Xá Phù, Đức Câu Lưu Tôn, Đức Câu Na Hàm Mưu Ni, Đức Ca Diếp, các đức Như lai trên đây, tiếp tục nhau, cũng vẫn tán dường 53 đức Phật như thế, và cũng khen rằng: Thiện nam Tín Nữ nào, năng nghe được danh đức của 53 Phật đây, và năng xưng niệm danh hiệu, và năng kính lễ nữa, năng trừ diệt tội chướng, cũng như trên đã nói.
Bấy giờ đức Thích Ca Mâu Ni Phật bảo đại chúng rằng: “Với vô số kiếp về trước, ta vẫn từng ở nơi đời Mạt pháp của Đức Phật Diệu Quang, ta xuất gia hành đạo, được nghe danh hiệu của 53 đức Phật, nghe rồi hoan hỷ chấp tay, dạy cho người khác đồng nghe và giữ làm, người khác nghe rồi, lại đi lần lựa truyền trao cho kẻ nhau, từ một đến nhiều, cứ mãi như thế, đến người số 3.000 khác miệng đồng tiếng, xưng niệm lễ bái 53 hiệu Phật, do nhân duyên công đức đó, liền siêu rỗi được vô số kiếp sinh tử trọng tội, đã thành một 1.000 Phật ở đời quá khứ, đời hiện tại 1.000 Phật và đời vị lai một nghìn đức Phật, thực thế. Mà ta là Thích Ca Thế Tôn đây, với trong 1.000 Phật đời hiện tại, làm vị Phật thứ 4 này”.
Với hiện tại kiếp 1.000 Phật ra đời, đã rõ nơi kiếp đồ trong Di Đà Kinh.
Lại, Phật bảo Bửu Tích rằng: “Nguyên chư Phật hiện tại trong mười phương, như đức Thiện Đức Như Lai v.v…cũng đã từng nghe danh đức của 53 Phật, nên với mười phương phía này các ngài đều đã thành Phật rồi đó”.
Chính chỗ gọi rằng: thà ở chỗ chịu tất cả khổ, mà đắc nghe danh của chư Phật, chứ chẳng chịu ở chỗ hưởng tất cả vui, mà chẳng đặng nghe danh Phật.
Nếu có chúng sinh: Muốn đặng dứt trừ 4 tội trọng dâm (sát, đạo, dâm, vọng), muốn đặng sám hối tội ngũ nghịch thập ác, muốn đặng trừ diệt cái tội cực trọng là không căn do gì mà sanh tâm huỷ báng chánh pháp, mấy người ấy phải kính lạy 7 đức Phật, lạy phải kính lạy 53 đức Phật, nhiên hậu khắp lại vô lượng tất cả chư Phật ở 10 phương, luôn ngày đêm 6 giờ, lòng tưởng rành rẽ, tỷ như nước chảy không gì trở ngại, để hành lễ pháp sám hối, lẽ cơ cảm lẫn nhau, tội lỗi dứt trừ.
Phật Danh Kinh nói: Cả 3.000 Phật nguyên xưa nhân lạy 53 Phật, dứt trừ hết tội lỗi đã chứa chất nhiều kiếp, mà đắc thành chánh giác đó.
1. Kính lạy Đức Phổ Quang Phật: Hoá thân hàng trăm ngàn ức, ánh trí huệ khắp chiếu.
2. Kính lạy Đức Phổ Minh Phật: Báo thân tròn đầy, đuốc tuệ khắp sáng.
3. Kính lạy Đức Phổ Tịnh Phật: Pháp thân khắp giáp hư không, xưa nay vẫn thường thanh tịnh.
4. Kính lạy Đức Đa Ma La Bạt Chiên Đàn Hương Phật: Đa Ma La Bạt, dịch: ly cấu, là tên núi Ngưu đầu. Chiên đàn, dịch: Dữ dược. Nghĩa là năng trừ các bệnh, dụ phận đủ các đức, hương mầu khắp xông, chúng sinh được ly cấu thanh tịnh, Ly cấu: lìa dơ, dữ dược: cho thuốc.
5. Kính lạy Đức Chiên Đàn Quang Phật: giới hương thanh tịnh, ánh sáng tròn đầy.
6. Kính lạy Đức Ma Ni Tràng Phật: Ma Ni là ngọc báu như ý; Tràng: Phan, phướn, là nghĩa cao sáng. Lại là nghĩa tồi tà phụ chánh. Dụ đức của Đức Phật tỷ ngọc Như ý treo trên cao, xô pháp tà xuống, nêu pháp chánh cao lên.
7. Kính lạy Đức Hoan Hỷ Tạng Ma Ni Bửu Tích Phật: Kho pháp vô tận, khiến chúng vui mừng! Nhóm trí như ý, khắp độ bầy mê.
8. Kính lạy Đức Nhất Thế Gian Nhạo Kiến Thượng Đại Tinh Tấn Phật: hết thảy thế gian ưa cầu thấy Phật, tinh tấn bậc thượng đại, thì chóng thành đạo Phật.
9. Kính lạy Đức Ma Ni Tràng Đăng Quang Phật: Ngọc Như Ý ánh đèn, là rõ hai trí: thực trí để chiếu lý tánh; quyền trí để chiếu căn cơ.
10. Kính lạy Đức Huệ Cự Chiếu Phật: hừng đuốc lửa huệ, để chiếu phá vô minh phiền não.
11. Kính lạy Đức Hải Đức Quang Minh Phật: đức lớn rộng sâu tỷ như biển cả, ánh từ sáng tỏ soi xét không cùng.
12. Kính lạy Đức Kim Cương Lao Cường Phổ Tán Kim Quang Phật: chất kim cang cứng rắn mà phực tia sáng, đức trí huệ chắc bền mà khắp chiếu xem.
13. Kính lạy Đức Đại Cường Tinh Tấn Dũng Mãnh Phật: giáp khắp nói là đại; mười lực nói là cường; trọn một nói là tinh; chẳng lui nói là Tấn; Dũng: chẳng khiếp; Mãnh: Sấn đến trước, tu nhân đã tròn, Phật trí riêng chiếu, đại phá quần mê.
14. Kính lạy Đức Đại Bi Quang Phật: lòng bi thương giáp khắp là đại, ánh sáng toả tròn đầy là quang.
15. Kính lạy Đức Từ Lực Vương Phật: chữ Vương nghĩa là tự tại; sức từ vô duyên (bất trụ) khắp dạy thong thoả.
16. Kính lạy Đức Từ Tạng Phật: kho báu từ bi, nói pháp chẳng cùng chẳng tận.
17. Kính lạy Đức Chiên Đàn Khốt Trang Nghiêm Thắng Phật: thân Phật cả tám vạn bốn nghìn lỗ lông, đều rỉ rã ra mùi hương mầu chiên đàn, khắp xông cả pháp giới để làm trang nghiêm cái khốt Pháp thân.
18. Kính lạy Đức Hiền Thiện Thủ Phật: Đức Như Lai là bậc hiền tài Vô thượng, cả hay vượt lên đỉnh mười pháp giới, làm nhà thầy đứng đầu cả chúng.
19. Kính lạy Đức Thiện Ý Phật: Nhớ cả chúng sinh dường như chư con đỏ, ý lành nói pháp, đều đặng lợi ích.
20. Kính lạy Đức Quảng Trang Nghiêm Vương Phật: Rộng tu giới, định, huệ, để trang nghiêm thân Phật quả.
21. Kính lạy Đức Kim Hoa Quang Phật: Kim dụ tịnh quả, hoa dụ tu nhân, nhân bền quả tịnh, sáng rọi không lường.
22. Kính lạy Đức Bửu Cái Chiếu Không Tự Tại Lực Vương Phật: Cái bửu cái bằng tâm từ bi, khắp che cõi hư không: lấy cái sức tự tại, làm chúa mười giới.
23. Kính lạy Đức Hư Không Bửu Hoa Quang Phật: Pháp thân thanh tịnh, dường như hư không, ánh trí sáng vẻ, như lọng hoa báu.
24. Kính lạy Đức Lưu Ly Trang Nghiêm Vương Phật: Lưu ly dịch: ngọc báu sắc xanh, thân của Phật trang nghiêm thanh tịnh trong suốt như báu, trong ngoài ngời sạch, bóng dáng tự tại hiển hiện.
25. Kính lạy Đức Phổ Hiện Sắc Thân Quang Phật: Khắp trong pháp giới, tuỳ cơ hiện thân, phóng quang, như Kinh Hoa Nghiêm nói: Thân đầy nhẫy nơi pháp giới, khắp hiện trước tất cả quần sinh, sáng tròn khắp chiếu cả mười phương thị hiện mỗi mỗi chỗ làm việc.
26. Kính lạy Đức Bất Động Trí Quang Phật: Trí căn bản chẳng động, nên hay khắp phóng ánh trí sai biệt.
27. Kính lạy Đức Hàng Phục Chúng Ma Vương Phật: Phật Ngài dùng cái sức trí vô lậu để chiến thắng các Ma, đã chịu giáo hoá rồi, đắc pháp tự tại.
28. Kính lạy Đức Tài Quang Minh Phật: đem cái biện tài trí huệ vô ngại, để độ quần mê, và phá các phiền não.
29. Kính lạy Đức Trí Huệ Thắng Phật: đem cái thắng lực trí huệ, khiến các chúng sinh, phá cả ba hoặc phiền não.
30. Kính lạy Đức Di Lặc Tiên Quang Phật: Di Lặc dịch: Từ Thị, Tiên: nghĩa như chữ giác. Đem cái hào quang đại từ trí giác, để phổ chiếu chúng sinh lìa hết các khổ mê mờ.
31. Kính lạy Đức Thiện Tịch Nguyệt Âm Diệu Tôn Trí Vương Phật: Phật tính lặng mà thường soi, soi mà nói pháp, công đức rất mầu, được cả chúng suy tôn, trí như trăng sáng lớn, khắp phá vô minh hoặc.
32. Kính lạy Đức Thế Tịnh Quang Phật: Với thế gian của Phật đạo, đã tịnh mà quang rồi, khiến cho thế gian của chúng sinh, cũng sạch mà sáng.
33. Kính lạy Đức Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật: Long Chủng tức là trí chủng, rồng hay nổi mấy xuống mưa Phật thường hiện thân thuyết pháp, làm đấng Vô thượng tự tại độ sinh.
34 Kính lạy Đức Nhật Nguyệt Quang Phật: Phật thủy giác như Nhật, Phật uarn giác như Nguyệt, thủy giác soi tột, uarn giác mở rõ, bản thủy hiệp một, sáng như mặt trời, mặt trăng.
35. Kính lạy Đức Nhật Nguyệt Châu Quang Phật: ánh nhất thế trí như Nhật quang, ánh đạo chủng trí như Nguyệt quang, ánh đạo chủng trí như Nguyệt quang, ánh nhất thế chủng trí như minh châu, ba trí tròn suốt, sáng lẫn không ngăn.
36. Kính lạy Đức Huệ Tràng Thắng Vương Phật: Trí huệ như cây phướn cao, chiến thắng phá tan Tà ma ngoại đạo mà đắc tự tại lợi sinh.
37. Kính lạy Đức Sư Tử Hầu Tự Tại Lực Vương Phật: Sư tử là chúa trăm loài thú, một khi nó rống lên, thì bách thú bặt dấu; Như Lai nói Pháp, chúng tà ma ngoại đạo đều kinh nép, nên đắc tự tại.
38. Kính lạy Đức Diệu Âm Thắng Phật: Tiếng của Như Lai đủ tám giọng, không phải ở gần nghe lớn, mà ở xa nghe nhỏ, mà xa gần gì cũng đều nghe đồng một cỡ.
39. Kính lạy Đức Thường Quang Tràng Phật: Dựng cây pháp tràng lớn rực rỡ thường chói.
40. Kính lạy Đức Quan Thế Đăng Phật: Ba trí xét soi, làm đèn sáng cho thế gian.
41. Kính lạy Đức Huệ Oai Đăng Vương Phật: Lời huệ biện vô ngại, uy vang mười phương, đèn pháp tròn soi, dung thông tự tại.
42. Kính lạy Đức Pháp Thắng Vương Phật: Kinh nói: Ta làm Pháp vương, đối muôn pháp đều được tự tại.
43. Kính lạy Đức Tu Di Quang Phật: Tu Di, dịch: Diệu cao, do bốn chất báu họp thành là diệu; vượt khỏi các núi là cao. Là núi chúa lớn nhất, sáng chói soi xa. Tiêu biểu Phật có bốn trí phực sáng vô cùng.
44. Kính lạy Đức Tu Ma Na Hoa Quang Phật: Tu Ma Na Hoa, dịch xứng ý, hoa màu xăng vàng trắng, thơm và sáng đưa xa; tiêu biểu Phật có tâm hương phực sáng, đâu chẳng vừa ý chúng sinh.
45. Kính lạy Đức Ưu đàm Bác La Hoa Thù Thắng Vương Phật: Ưu đàm Ba La Hoa, dịch Bông linh thoại, ba ngàn năm, mới trổ một kỳ, là tiêu biểu Luân vương ra đời, đến kỳ Phật ra thế gian còn lâu hoa ấy, nói là thù thắng.
46. Kính lạy Đức Đại Huệ Lực Vương Phật: do sức đại trí huệ tự tại thuyết kinh.
47. Kính lạy Đức A Súc Tỳ Hoan Hỷ Quang Phật: A Súc Tỳ, dịch: Bất động, dùng cái trí quang bất động, khắp khiến chúng sinh trên miền đại địa đều được vui mừng!
48. Kính lạy Đức Vô Lượng Âm Thanh Vương Phật: Phật dùng thốt ra vô lượng âm thanh, mỗi mỗi tiếng tăm lại diễn ra vô lượng lời nói.
49. Kính lạy Đức Tài Quang Phật: biện tài thuyết pháp, phóng quang chiếu cơ.
50. Kính lạy Đức Kim Hải Quang Phật: thân Phật sắc vàng, trong ngoài thấy suốt, ảnh hiện ra mười phương y báo chánh báo, như gương ẩn biển phực sáng lô nhô muôn tượng đâu chẳng hiện rõ.
51. Kính lạy Đức Sơn Hải Huệ Tự Tại Thông Vương Phật: ánh huệ rực rỡ, dường núi phực thắm, phương tiện, rộng nhiều như biển không cùng, là nói: với trí huệ thuyết pháp suốt thông thong thả.
52. Kính lạy Đức Đại Thông Quang Phật: Pháp lớn dung thông, hào quang khắp soi.
53. Kính lạy Đức Nhất Thiết Pháp Tràng Mãn Vương Phật: Hiệu cờ phát của chư Phật thảy đều viên mãn, hoá thân ứng cơ, khắp hay tự tại.
Với tam thập ngũ Phật, trong đại Bửu Tích bộ quyết định Tỳ Ni kinh nói: ông Xá Lợi Phất bạch Phật rằng: “Đức Thế Tôn! Các vị Bồ Tát đây với tham sân si chẳng sợ ư? Phật dạy: “Xá Lợi Phất! Tất cả Bồ tát, có hai điều phạm giới, những gì là hai?
1. Sân tướng phải phạm,
2. Si tướng phải phạm, với hai điều phạm như thế, gọi là đại phá giới.
Xá Lợi Phất! Nhân lòng tham mà phạm đó, là vì nó quá ư vi tế, nên khó thể tả lìa! Nhân lòng sân mà phạm đó, là vì nó quá ư thô trọng nên dễ xả lìa! Nhân lòng si mà phạm đó là vì nó quá ư trọng lại càng khó xả lìa.
Sở dĩ là sao? Cái điều tham kiết nó hay làm hạt giống cho các hữu (hai mươi lăm hữu), với đường sinh tử nó tràn lan kéo dài giữ liền chẳng dứt, do nghĩa đó nên khó đoạn được vì thể nó quá ư vi tế.
Nhân điều sân mà phạm đó, thì đọa nơi ác thú, nhưng có thể mau đoạn được. Nhân đều si mà phạm đó, sẽ vào trong tâm sở địa ngục lớn, nên khó thể mà giải thoát đặng.
Xá Lợi Phất! Nếu các Bồ Tát gây nên năm điều tội, nơi ngục vô gián, mà phạm các tội khác nữa, thì Bồ Tát ấy cần phải đối trước ba mươi lăm vị Phật, luôn ngày đêm ở chỗ riêng một mình lo sốt sắng sám hối.
Kinh Bửu Tích chép: tất cả chúng sinh, nếu có phạm ngũ nghịch và thập ác, mà trong luật chẳng cho sám hối đó, dẫu đến muôn kiếp, thì ở đây, cần phải đirnh lễ ba mươi lăm vị Phật, chăm lòng sám hối, liền đặng trừ diệt tất cả tội chướng.
1. Kính lạy Đức Thích Ca Mâu Ni Phật: Thích Ca dịch: năng nhân, ứng hoá ba giới, rộng độ chúng sinh, vì không trụ nơi cảnh vui Niết Bàn. Mâu ni dịch: tịch mặc, cái thực trí soi lý vắng lặng thanh tịnh, vì chẳng bị nơi cảnh khổ sinh tử.
2. Kính lạy Đức Kim Cương Bất Hoại Phật: Trí huệ kiên cố như chất kim cương bất hoại, mà lại hay phá hoại, được tất cả vật khác.
3. Kính lạy Đức Bửu Quang Phật: Trí quang ngời sạch chiếu suốt không cùng.
4. Kính lạy Đức Long Tôn Vương Phật: Rồng hay lên xuống biến hiện, Phật hay tuỳ cơ ứng hoá.
5. Kính lạy Đức Tinh Tiến Quân Phật: như làm đại pháp tướng, hàng phục các Ma oán, như ba quân mãnh lực tinh tiến, hay đẩy lui oán địch.
6. Kính lạy Đức Tinh Tiến Hỷ Phật: Do vì tinh tấn làm việc tự lợi lợi tha, công tròn chứng tột, khắp đặng hoan hỷ.
7. Kính lạy Đức Bửu Hoả Phật: Dùng lửa trí bửu để đốt cháy hết rừng phiền não sinh tử của tự và tha.
8. Kính lạy Đức Bửu Nguyệt Quang Phật: Trăng báu tròn sạch, sáng suốt pháp giới.
9. Kính lạy Đức Hiện Vô Ngu Phật: Hiện ra cái đức tướng trí huệ, vẫn không cái ngu ba hoặc.
10. Kính lạy Đức Bửu Nguyệt Phật: trăng báu dạo đi trên hư không, ánh trí chiếu nơi pháp giới.
11. Kính lạy Đức Vô Cấu Phật: chân thể riêng bày nay thanh tịnh.
12. Kính lạy Đức Ly Cấu Phật: Vẫn lìa cái nhơ phiền não, thường được cái sạch chân như.
13. Kính lạy Đức Dũng Thí Phật: Mạnh dạng ra bố thí tài và pháp để rộng đường giáo hoá chúng sinh.
14. Kính lạy Đức Thanh Tịnh Phật: Cái thực tướng thanh tịnh xưa nay vẫn giáp tròn.
15. Kính lạy Đức Thanh Tịnh Thí Phật: Thí pháp thanh tịnh ba luân thể không, khắp khiến chúng sinh đều đến địa vị Phật.
16. Kính lạy Đức Ta Lưu Na Phật: Ta Lưu Na, dịch: nước cam lộ, là thuốc trường sinh bất tử, Phật pháp khiến chúng sinh vẫn vào địa vị vô sinh.
17. Kính lạy Đức Thuỷ Thiên Phật: Nước lóng chiếu trời trên, trời dưới, lòng tin lẽ Phật và chúng sinh.
18. Kính lạy Đức Kiên Đức Phật: Trì đức bền chắc hoá độ vô biên.
19. Kính lạy Đức Chiên Đàn Công Đức Phật: Pháp thân có mùi hương công đức khắp huân vào nơi chúng sinh.
20. Kính lạy Đức Vô Lượng Cúc Quang Phật: Cúc là lột, đức Như Lai tướng tốt, lột ra ánh sáng trùng trùng vô tận.
21. Kính lạy Đức Quang Đức Phật: ánh từ khắp ích, ơn đức không hết.
22. Kính lạy Đức Vô Ưu Đức Phật: Chứng đại Niết Bàn, vẫn lìa ưu não, tự chứng công đức, khắp giáp không cùng.
23. Kính lạy Đức Na La Diên Phật: Na La Diên dịch: kiên cố, thân Phật kiên cố, dường như kim cương, không chi phá hoại.
24. Kính lạy Đức Công Đức Hoa Phật: Nhân tu vạn thiện công đức như hoa nở, quả chứng ba đức chân như dường kết trái.
25. Kính lạy Đức Liên Hoa Quang Du Hí Thần Thông Phật: Hoa sen nở trải sáng vẽ khắp ngời, phép thần dạo chơi ứng hoá ba giới.
26. Kính lạy Đức Tài Công Đức Phật: Công đức thí pháp thí tài, khắp giúp vô cùng.
27. Kính lạy Đức Đức Niệm Phật: Đức từ khắp nhuần, niềm bi chẳng nghỉ.
28. Kính lạy Đức Thiện Danh Xưng Công Đức Phật: công đức diệu thiện tiếng đồn khắp nghe.
29. Kính lạy Đức Hồng Diệm Đế Tràng Vương Phật: Hồng Diệm tức là cái ánh của cây phướn bằng ngọc Xích châu trong cung của Thiên đế, tia ngọc xạ lẫn nhau, để tỷ dụ hào quang của Phật khắp suốt.
30. Kính lạy Đức Thiện Du Bộ Công đức Phật: Đức Như Lai bước đi dường voi chúa, phàm có dạo bước xứng khéo công đức, khắp đến mười phương, ứng hoá vô lượng.
31. Kính lạy Đức Đấu Chiến Thắng Phật: Phật có đủ tên Trí, cung Thiền, kiếm Huệ, nên bốn Ma và bọn ngoại đạo nghe đến đều phải kính phục.
32. Kính lạy Đức Thiện Du Bộ Phật: Sức thần túc thông của Phật không cần đến cái tướng khứ lai, mà chóng khắp mười phương để phổ hoá chúng sinh.
33. Kính lạy Đức Châu Tráp Trang Nghiêm Công Đức Phật: Công đức trang nghiêm giáp khắp mười phương, hoá hoá chẳng dứt, lợi ích vô lượng.
34. Kính lạy Đức Bửu Hoa Du Bộ Phật: Dưới đáy (lòng) bàn chaan của Phật có cái tướng tốt như vòng tròn bánh xe một ngàn bức, bước đi có hoa báu đỡ chơn, dạo khắp mười phương.
35. Kính lạy Đức Bửu Liên Hoa Thiện Trụ Ta La Thọ Vượng Phật: Ta la, dịch: Tối thắng, và kiên cố, làm chúa loại cây, là một cây chỗ Như Lai thành đạo, nên xưng là Vương.
Hiệp với chư Phật trước, cộng thành 88 vị Phật.
Hỏi: Đức hiệu của chư Phật đâu chẳng lẫn đủ lẫn gồm, như thập phương hư không, khắp ngậm pháp giới, cũng như một ngàn ngọn đèn, mỗi ngọn đèn lẫn khắp với nhau, kinh Pháp Hoa nói: “Ta dùng Phật nhãn xem các người tin căn tánh có lợi, có độn, tuỳ theo chỗ nên độ, mỗi chỗ ta tự nói danh tự chẳng đồng, tuổi tác hoặc lớn hay nhỏ”. Thế mà ông nay lại tùy theo văn thích nghĩa ra đó, há không cái lỗi đặng một sót muôn ư?
Đáp: Tuy không thể giải thích, cũng có kẻ từ nơi lược thích mà hiểu được tròn đủ, hoặc có người do nơi lược thích đây mà dần tiến vào cửa đạo, nên nay phương tiện giải thích ra.
Vả chăng, danh hiệu của chư Phật, không có nhất định, nghĩa là hoặc có Phật y nơi họ mà thành lập ra danh hiệu, như đức Thích Ca, đức Di Lặc v.v…. hoặc có Phật theo nơi chữ để thành lập danh xưng như Đức Vô Cấu, Đức Ly Cấu v.v… hoặc có Phật do nơi y báo để thành lập ra danh hiệu, như Đức A Súc Bệ v.v… Hoặc có Phật do nơi chánh báo để thành lập ra danh hiệu như Phổ Quang v.v…. hoặc riêng dùng nơi Dụ để lập danh nơi pháp để lập danh; hoặc dùng luôn nơi pháp dụ để lập danh, nơi pháp để lập danh; hoặc dùng luôn nơi pháp dụ hiệp lại để lập danh v.v… hoặc dùng nơi nhân, nơi quả để xưng danh, hoặc dùng luôn nhân quả hiệp lại để xưng danh. Hoặc có Phật thì dùng luôn cả hạnh nguyện để lập danh v.v…Như thế đâu chẳng tuỳ nơi Cơ để lập danh, danh dù đều khác, mà nghĩa thực trọn gồm.
Sách Pháp Uyễn nói: Thích Ca, dịch: Năng nhân, há có một đức Phật nào khác lại phi năng nhân ư? A Di Đà: Rằng Vô Lượng Thọ, há có một Phật nào khác lại phi trường thọ ư? Chỉ lấy họp nơi có thuyết pháp, tuỳ nơi đời kiến lập, thì danh hiệu của chư Phật lẽ đều đồng nhau cả.
Kinh Hoa Nghiêm chép: mười phương các Đức Như Lai đồng chung một Pháp thân, một tâm, một trí tuệ, một thập lực, một tứ vô uý, cũng thế.
Kinh Lăng Già biên: cả thảy chư Phật với bốn điều nầy đều đồng bậc nhau:
1. Với tự đồng bậc, như mười hiệu của chư Phật.
2. Lời nói đồng bậc, như lời nói có sáu mươi bốn thứ giọng tiếng Phạn.
3. Thân đồng bậc, như pháp thân và sắc thân.
4. Pháp đồng bậc, như chánh đạo phẩm, trợ đạo phẩm.
So lại nghĩa của hai Kinh đã dẫn trên đó, thì danh đức của tám mươi chín đức Phật: số một số nhiều dung khắp, Phật kia Phật đây gồm lẫn với nhau, một Phật tức thông tất cả Phật, thích một nghĩa tức là rõ vô lượng nghĩa, thế có nào thêm bớt chẳng viên dung ru?
89. Kính lạy Đức Pháp giới Tạng Thân A Di Đà Phật
Xâu kết hai phần nghĩa của Phật danh trước để quy về Đức A Di Đà.
Quán Kinh nói: “Thân pháp giới của chư Phật Như Lai, vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sinh” Nay Pháp thân của A Di Đà Phật đây, nó (Pháp thân) bao trùm cả mười phương vi trần sát độ, thế là cái kho thân pháp giới vô tận công đức vậy.
Với 88 Phật sau thêm A Di Đà Phật đó, là từ trước đến đây, các công đức lạy Phật, đều kết về cõi nước Cực lạc, phải vậy. Chỉn bởi Đức A Di Đà Phật có bốn mươi tám nguyện rộng sâu, nên một mình Ngài thắng hơn hết, cũng cơ duyên của chúng sinh ở cõi ta bà này số là những chỗ người ta ra làm được công đức gì nếu quy nhất đặng đó, thì cái đại đạo dễ thành tựu, thế nên người mà ra làm việc Phật đó, đều do Đức Di Đà làm chỗ kết quy là chỉn có lý do thế.
Đối với lý đó, Sư Thư Ngọc giải có bốn ý nghĩa:
1. Với danh hiệu A Di Đà Phật, khi mà một tiếng xưng lạy, hay diệt được tội nặng đường sinh tử từ tám mươi ức kiếp, vì ngũ nghịch tam đồ thảy đều siêu thoát.
2. Đức Di Đà tuy ở Tây phương mà vẫn cũng cưỡi thuyền đại nguyện đến độ cõi ta bà, vì mười niệm còn được vãng sinh thay.
3. Từ thành Phật nhẫn lại đến nay đã mười kiếp, vì hiện giờ vẫn đương thuyết pháp, để phổ độ chúng sinh mười phương.
4. Đức Thích Tôn cùng với các đức Như Lai ở mười phương đồng tán thán Đức A Di Đà. Vì có bốn ý nghĩa đó, nên thêm danh hiệu đức Vô Lượng Thọ là thế.
89 đức Phật đã rồi. Dưới đây là phát lộ sám hối.
Như thế tám mươi chín đức Phật; lại gồm cả mười phương, hết thảy thế giới như vi trần, các đức Thế Tôn nhiều cũng Vô lượng, các Ngài thường trú nơi thế gian, thường phóng hào quang, hằng độ chúng sinh, cúi xin các đức Thế Tôn đây phải thương nhớ chúng con.
Đó là ngửa cầu chư Phật duỗi lòng từ thương nhớ. Với chư Phật ở tất cả thế giới, đó là khắp bề ngang, thường trú ở đời; đó là tột bề dọc. Số là, Pháp thân của chư Phật, thường trú giáp khắp, ánh từ quang xưa nay thường soi. Ngặt vì chúng sinh lấy nghiệp tự ngăn, trọn ngày thường ở trong thân Phật, mà không thấy được Phật! Tỷ như kẻ tối mắt, ở dưới ánh sáng của mặt nhật, mà chẳng thấy được màu sắc. Bởi vì bị vọng tưởng chấp trước, sa đắm nơi đường mê đã lâu rồi mà chẳng biết lối ra! Nay hân hạnh gặp giáo lý của Phật, phải cầu thỉnh chư Phật ở đời để dung thứ cho ta sám hối.
Hoặc con từ đời nầy, hoặc con từ đời trước, từ vô thủy sinh tử lại nay có làm các tội; Hoặc tự làm hoặc sai người làm, hoặc thấy người làm mà mình vui mừng theo.
Đó là chung phát lộ đời trước đời này những chỗ tạo tác các tội lỗi.
Tiền sinh lại còn đời trước đời trước nữa, đời đời không hết, nên nói là từ đời vô thủy (không đầu, là chả biết từ đâu là đầu, vì luân hồi nhiều kiếp quá), như thế kiếp số nhiều như vi trần, mỗi đời tạo tác tội nhiều không ngần mé, luôn cả đời nay những chỗ gây tội hoặc nhớ hoặc quên, nay đối trước Phật, tận tình thổ lộ cầu xin sám hối.
Với chỗ mà nói là các tội đó: Chúng tại gia thì các tội mười ác, năm nghịch, tội lớn tội nhỏ; chúng xuất gia thì các tội của tánh giới, cha giới, khinh giới, trọng giới.
Mình làm: Chính tự thân mình ra làm tội. Sai người làm: chỉ bảo kẻ khác làm tội. Thấy người làm mà mình vui mừng theo: Do thấy kẻ khác làm tội, hoặc nghe người làm tội mà mình ưa thích theo sinh quan niệm hoan hỷ, khuyên khen thúc đẩy, cách này, thế nọ để giúp thành việc làm tội.
Hoặc là: tự làm, thì thuộc thân tội, dạy làm, là thuộc về khẩu tội, theo mừng là thuộc về ý tội. Rút lại mà nói, thì tự làm dạy làm, mừng làm, mỗi mỗi đều lẫn gồm cả ba nghiệp thân, khẩu và ý. Nên nay đối trước chư Phật, hết lòng kể bày không mảy giấu che.
Tánh giá khinh trọng
Tánh: Quyết định, lại là nghĩa chẳng khá đổi, nghĩa là bốn trọng giới : Sát, đạo, dâm vọng nó làm căn bản cho các giới khác. bất luận chịu ưa hay chẳng chịu ưa, hễ phạm đến thì hiện tại đời chịu cái nạn của pháp luận nước nhà, khi chết rồi đoạ vào tam đồ, khong cải hay cứu gì được, phải đợi chịu khổ đến hết rồi, tội mới tiêu diệt. với giới đây, khi Phật chưa ra đời, mà chúng sanh đã tự có sẵn, nên không luận tăng tục, nhưng tăng mà phạm đến, thì lại thêm có cái tội trái lời Phật cấm.
Vì là chỗ Phật ngăn cấm, sau khi phạm có thể sám hối, nhưng sau khi sám rồi, chẳng đặng tái phạm. như giới tửu trong năm giới, sáu giới, sau trong mười giới của Sa di, các giới Tăng tàn trong giới Tỳ kheo, sáu giới sau trong mười trọng của Phạm võng, Và các giới bốn mươi tám khinh, đều là những điều do Phật cấm (giá).
Đối với của: ngôi Pháp, ngôi Tăng, bốn phương tăng nếu mình lấy, dạy người lấy, thấy lấy tuỳ hỉ.
Đây là riêng phát lộ những tội từ trước, hoặc đời nay, lấy tài vật gì của ngôi Tam Bảo.
Nói ngôi tháp, thì kiêm có luôn cả các ngôi: Tự, miếu, am, viện. Tiếng Phạn Stùpa, hoặc nói Tuý-chữ-ba, dịch: Mả vuông - Mồ tròn, Linh miếu. Trong Kinh A Hàm ghi rõ bốn chỗ dựng tháp, nghĩa là chỗ Phật giáng sinh, chỗ chuyển pháp luân, chỗ nhập niết bàn, bốn chỗ đó đều nhân nêu rõ đức của Phật, và phụng thờ Xá lợi của Phật, nên dựng ngôi tháp. Lại Tự, Viện, miếu, am và tháp của chư Tổ, đều là chỗ phụng thờ ngôi Tam Bảo, chỉ nên cúng dường, chẳng nên lấy một phân, một hào gì cả.
Ngôi Tăng là các đức Thầy trong hàng: Tam sư, Thất chứng, Trụ trì, Thầy tế độ, Thầy y chỉ, và đức Thầy mà ta thụ nghiệp, quý Thầy ấy đều là đấng làm Sư phạm cho người, ta chỉ nên cúng dường, chớ không nên trộm lấy sự vật chi của các đấng ấy.
Vật của tứ phương Tăng, là: tài vật của các nhà Tăng từ tứ phương đem lại, hoặc tài vật của nhà Thí chủ đã cúng cho các nhà Tăng ở bốn phương. Số là có hai nghĩa tứ phương:
-
Chỉ cho Tăng chúng còn hiện tiền nơi mười phương;
-
Hoặc quá khứ hay vị lai mà có ảnh hưởng đến Tăng chúng nơi tứ phương, do vì tài vật của Chiêu đề thường trú thể nó rất tột cả ba đời cũng chỉ nên cũng, chớ chẳng nên lấy những gì bằng một mảy lông.
Trong Phương Đẳng Kinh, ông Hoa Tu Bồ tát nói: “Với những tội ngũ nghịch thập ác, ta cũng có thể cứu được, chỉ với cái tội trộm lấy tài vật của Tăng chúng, thì ta chẳng thể cứu đặng!”.
Kinh Bửu Lương chép: “Thà tự ăn lấy thịt trong thân thể của mình, chớ không nên trộm lấy tài vật của Tam Bảo”.
Luận Trí độ nói: “Kẻ trộm dầu đèn của Phật sẽ đọa vào địa ngục hắc ám, sau hết tội địa ngục, đầu thai làm người đui mắt; kẻ trộm hương của Phật, phải đoạ địa ngục Nê-lê, kiếp sau làm người hôi dơ; kẻ trộm tràng phan về làm áo, kiếp sau mắc báo bị thứ ghẻ độc ác thường chảy nang huyết”.
Thiếc Sơn Quỳnh Thiền Sư nói: “Phàm của cái trong Chùa ít nhất là: một gói trà, một hột gạo, một phân một ly, đều là của thí chủ vì cầu phúc đức, nên đem đến cúng chùa, nếu ta có được thí cho, cũng nên đem cúng ngôi Tam Bảo, đâu đặng riêng dùng”.
Đạo thế Pháp Sư nói: “Nếu kẻ nào lấy tài vật của Chùa, để đem riêng cho nơi nhà người bạch y xài dùng, thì bị Long thiên bát bộ giận trách, cả kẻ cho người dùng đều mắc tội lỗi”.
Sách Cao Phong di sự chép: “Ngài Ngưỡng Sơn Vỉ Thiền Sư, bẻ một mụt măng của Chùa, sau nhập định, thấy mụt măng hiện trước mặt, phải lo bồi thường và sám hối, cái hiện tướng mới diệt”.
Sách Bửu giám chép: “Chùa núi Vận Cái, Ngài Ngung Thiền sư làm chức giữ núi, nhân vì lấy tiền trai tăng đem làm Tăng đường, sau khi thác, Ngài Tân trụ trì, là Trí thiền sư, nửa đêm đương ngồi thoạt nghe mùi lửa cháy, kế thấy ông Ngung mang cái gông bằng lửa, nói đủ lại chuyện trước, năn nỉ yêu cầu bán Tăng đường, để lấy tiền thiết lễ trai phạn cúng chúng, mới có thể thoát khổ báo, Ngài Trí Hiền Thiền Sư y lời lập đàn trai tăng đêm đó thấy ông Ngung đến tạ ơn”.
Ngài Tứ Vân sám chủ nói: “Thưở xưa, tại phủ Hàng Châu (tỉnh lỵ Chiết Giang) vị hoá chủ Vân lôi tháp, nhân vì đem tiền gạch mà mua ngói, nên sau khi thác, đạo làm con cá ở Tây hồ suốt 500 năm.
Đời Đường, niên hiệu Hưng nguơn năm thứ nhất (784, giáp Tỳ, Vua Đức Tôn), xứ Hoài Tây Lộ, phủ thọ châu, huyện An phong, có kẻ dân họ Mao, vợ y là họ Châu, sanh một đứa con hình tướng rất quái, vì đầu trâu, chân lừa, tai voi, vi cá! Cha mẹ toan muốn đem trấn nước chết cho rồi. Bé liền thốt tiếng người nói: con đây nguyên đời trước không tin nhân quả, từng ở chùa Khai Ngươn, phủ Lư Châu, có mượn 500 quan tiền và hai cây vải gai của thường trụ (chùa) để xài dùng, nhưng vẫn để thiếu chịu chớ không trả, nên nay tội trừng phạt đây. Cúi mong Cha mẹ nhận nuôi, đợi lớn đưa đến chùa để con trả nợ. Nhân đó, phải nuôi nấng đến 7 tuổi, đưa đến Chùa ở, hàng ngày quét đất để trả nợ trước thường thường cứ tự đánh vào thân mình, mà hô rằng: Trả nợ! Do vì lại trái (trả nợ), nên thời nhân gọi là: Mao Lại Trái. Vua Đức Tôn ngự chế bài tụng rằng :
Kham ta Mao Trái dị nhân lưu,
Phụ khiếm tăng tiền nghiệp báo thù
Lưỡng phiến ngư tai liên tượng nhĩ,
Nhất song lư cước đới trư đầu.
Tiền sinh tạo ác tâm vô quỷ.
Kim nhật chiêu ương khổ vị hưu.
Vị báo hậu hiền quân tử đạo.
Tăng tiền bất khả thiện tham cầu.
Tạm dịch
Xiết than Mao Trái lạ hình người!
Vì mắc nợ chùa nghiệp trả lui:
Vi cá tai voi đều cả cặp
Chân lừa, đầu lợn chiếc va đôi
Thuở xưa gây ác lòng không thẹn
Hiện kiếp mang ương khổ chẳng thôi
Ngỏ với lớp sau: Tăng chúng đạo
Tiền Chùa xài mượn đấy gương soi.
- 743
Viết bình luận