3. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (phần 1) | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

3. Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam (phần 1)

Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam

(Từ Lúc Mới Du Nhập Đến Hết Đời Nhà Lý)

A. Mở Đề

Trong thời Pháp thuộc, vì vận mệnh chung cả nước nhà đang suy đồi, lại bị văn hóa Tây phương và ngoại đạo lấn áp, nên Phật Giáo đối với phần đông dân tộc Việt nam như là một tôn giáo hạ đẳng, phụ thuộc, không có nghĩa lý gì.

Nhưng vì nếu có ai đi sâu vào lịch sử Phật Giáo Việt Nam theo dõi bước đi của sự truyền giáo qua các thời đại từ khi dân tộc Việt Nam mới lập quốc đến ngày nay, thì sẽ thấy Phật Giáo giữ một địa vị quan trọng vô cùng trong công trình gây dựng văn hóa Việt-Nam. Có thể nói một cách không quá rằng: Văn hóa Việt Nam một phần lớn là văn hóa Phật Giáo. Rút cái tính chất Phật Giáo trong văn hóa Việt Nam ra thì văn hóa ấy thật là nghèo nàn, nông cạn. Chính Thượng tọa Mật Thể, trong quyển '' Việt Nam Phật Giáo sử lược'' đã nói rất đúng: ''Nhờ tinh thần sáng suốt của thể đạo, với công nghiệp bố giáo của các tổ sư Phật Giáo rất có công to trên lịch sử văn hóa nước nhà''.

Ngày nay, để nhận chân đứng đắn cái vai trò quan trọng và sứ mệnh lịch sử của Phật Giáo nước nhà, cũng như để thêm tinh tưởng và phấn khởi mà tu học, để thừa tiếp cái tinh thần ''Bi-Trí-Dũng'' của đạo mà truyền lại cho các thế hệ về sau, chúng ta, Phật tử Việt Nam cần phải biết rõ lịch sử Phật Giáo Việt Nam.

B. Chánh Đề

I. Phật Giáo Du Nhập Vào Việt Nam

1. Con đường du nhập

Nước Việt Nam ta nằm trên bán đảo Ấn Độ Chi-na, giữa hai nước rộng lớn, hai dân tộc đông đảo nhất thế giới, hai nền văn minh sáng lạn của châu Á là Ấn Độ và Trung Hoa. Vì địa thế của nước Việt Nam nằm ở giữa con đường biển đi Ấn Độ đến Trung Hoa, nên đã chịu ảnh hưởng nhiều của hai nền văn minh ấy.

Riêng về Phật Giáo, thì sư du nhập vào Việt Nam củng do cả hai con đường: đường biển từ phía Nam lên và đường bộ từ phía Bắc xuống. Trong số bốn nhà truyền giáo đầu tiên đặt chân lên Việt Nam, thì hết ba nhà sư là người Ấn Độ, đi đường thủy sang Trung Hoa truyền đạo và đã ghé tại Việt Nam là các Ngài: Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội và Chi Cương Lương.

Nhà truyền giáo thứ tư là người Trung Hoa, Ngài Mâu Bác, đã đi đường bộ từ phía Bắc xuống. Đó là điều chứng minh rằng Phật Giáo vào Việt Nam do cả đường thủy và đường bộ cả từ phía Nam lên và phía Bắc xuống. Nhưng vì nước ta bị Trung Hoa đô hộ ngót một ngàn năm và sau đó vẩn còn lệ thuộc vào văn hóa và chính trị nên về sau con đường truyền giáo từ Trung Hoa sang là con đường chính.

2. Thời đại du nhập đầu tiên

Theo các sử gia đáng tin cậy, thì nhà thì nhà truyền-giáo đầu tiên đến Việt nam (lúc bấy giờ là đất Giao Châu) là Ngài Mâu Bác, người quận Thương Ngô tức là Ngô Châu (Trung Hoa bây giờ). Sau khi vua Hán Linh Đế mất (189) nước Tàu thường loạn lạc, Ngài theo mẹ qua ở Giao Châu và truyền bá đạo Phật.

Nhà truyền giáo thứ hai đặt chân lên đất Giao Châu là Ngài Khương Tăng Hội, Ngài gốc Khương Cư (Soadiane, Ấn Độ). Mục đích của Ngài là sang Trung Hoa, nhưng ông thân của Ngài sang Giao Châu buôn bán nên Ngài cũng theo đường Giao Châu để sang Trung Hoa. Trung Hoa lúc ấy về đời Tam Quốc, Ngài đến nước Đông Ngô và được Ngô Tôn Quyền sùng mộ, xin quy y với Ngài (229-252). Như thế là Ngài Khương Tăng Hội ghé lại Giao Châu vào khoảng đầu thế kỷ thứ III, sau Tây lịch.

Vào khoảng giữa thế kỷ thứ III đến cuối thế kỷ thứ III, đất Giao Châu lại đón tiếp hai nhà sư Ấn Độ nữa là Ngài Ma Ha Kỳ Vực và Chi Cương Lương, trên bước đường sang Trung Hoa truyền giáo của các Ngài, vào đời nhà Tần (265-306).

Như thế, có thể nói rằng: Đạo Phật du nhập đầu tiên sang Việt Nam trong khoảng cuối thế kỷ thứ II đến thế kỷ thứ III, sau Tây lịch.

3. Các môn phái du nhập

Trong thời kỳ đầu tiên du nhập Việt Nam, đạo Phật chỉ phớt qua trên đất nước, chưa có màu sắc riêng biệt và dân chúng chỉ mới tiếp xúc với Đạo Phật trong phương tiện thờ cúng lễ bái mà thôi.

Phải đợi đến vài ba năm sau, đạo Phật mới thâm nhập dần vào dân chúng và do ảnh huởng của Phật Giáo Trung Hoa. Có một đều chúng ta ngạc nhiên là, mặc dù Phật Giáo Trung Hoa gồm mười tông phái, mà chỉ có Thiền Tông là được truyền đi sang Việt Nam trước nhất và mạnh mẽ nhất. Tông này được truyền vào Việt Nam trước hết do Ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi (Vinitaruci) đưa sang (580). Ngài là đệ tử được truyền tâm pháp của Tam tổ Tăng Xán, và chính là sơ tổ Thiền Tông ở Việt Nam.

Đến đời Dường (820) lại có Ngài Vô ngôn Thông ở Trung Hoa sang truyền giáo, lập thành phái Thiền Tông thứ hai; kế đó là các phái Thảo Đường, Tào Động, Lâm Tế v.v.. lần lượt truyền sang Việt Nam.

Tóm lại, đạo Phật du nhập vào Việt Nam, chỉ có Thiền Tông là gây ảnh hưởng mạnh mẽ hơn cả.

B. Phật Giáo Dưới Thời Hậu Lý Nam Đế (571-602) Và Bắc Thuộc Lần Thứ Ba (603-939)

Từ khi Phật Giáo truyền vào Việt Nam cho đến thời Tiền Lý Nam Đế, kể cả trên ba năm (189-548) nhưng vẫn còn nằm trong thời kỳ phôi thai chưa có gì đáng gọi là thịnh hành lắm. Đến thời Hậu Lý Nam Đế (571-602) và Bắc thuộc lần thứ III (603-939) Phật Giáo mới bắt đầu bước vào thời thành đạt.

1. Giai đoạn thứ nhất

Sự truyền bá Thiền Tông của Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi ở Trung Hoa sang (580) đem Thiền Tông truyền bá vào, được người Việt Nam hết sức sùng mộ. Do đó, lần đầu tiên nước Việt Nam được biết đến ThiềnTông và Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi chính là sơ tổ phái Thiền Tông ở Việt Nam. Sau Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi có Ngài Pháp Hiển là đệ tử của Ngài Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi nối nghiệp thầy, đem đạo Phật truyền sâu trong dân chúng.

2. Giai đoạn thứ hai

Ảnh hưởng của ba đoàn truyền giáo:

Đến đây, Phật Giáo Việt Nam bắt đầu thịnh. Lúc bấy giờ nước ta đang lệ thuộc nhà Tùy, vua Cao Tổ nhà Tùy , nghe nước ta đạo Phật đang phát triển mạnh, nên vua ban cho các vị danh tăng ở nước ta năm hòm lễ vật, và sắc lệnh cho xây tháp ở ở chùa Pháp Vân, chùa Trung Khánh cùng các danh địa khác.

Sau này Tùy mất ngôi (618) nhà Đường kế nghiệp, vua Đường Cao Tổ củng có ban cho An Nam năm viên ngọc Xá Lỵ và sắc dựng chùa xây tháp.

Cũng trong giai đoạn này, những nhà truyền giáo Trung Hoa và Ấn Độ, thường mượn đường nước ta mà qua lại. Trong khi đi ngang Việt Nam các Ngài thường ghé lại ít lâu để thuyết pháp, do đó chúng ta cũng chịu được nhiều ảnh hưởng tốt. Trong số những doàn truyền giáo ấy, đang kể nhất là ba đoàn sau đây:

a) Đoàn thứ nhất: Gồm có các Ngài Minh Viễn Pháp sư, Huệ Mạnh Thiền sư, và Vô Hành Thiền sư, đều là người Trung Hoa.

b) Đoàn thứ hai: Gồm các Ngài Đàm Nhuận Pháp sư, Trí Hoàng Pháp sư, và Tăng Già Bạt Ma (Hai Ngài đều người Trung Hoa và Ngài sau người TâyTrúc).

c ) Đoàn thứ ba: Gồm sáu nhà sư Việt Nam là các Ngài Vân Kỳ Thiền sư, Mộc-Xoa-Đề-Bà, Khuy Sung Pháp sư, Huệ Diệm Pháp sư, Trí Hành Thiền sư bốn Ngài đầu người Giao Châu, hai Ngài sau người Ái Châu (Thanh Hóa, Nghệ An bây giờ). Các Ngài này đếu từ Việt Nam đi sang cầu pháp ở Tây Trúc và tịch, phần nhiều rất sớm, ở Ấn Độ hay Tích-lan.

3. Giai đoạn thứ ba

Sự truyền bá của phái Vô Ngôn Thông:

Vào năm 820, nước ta lại được một vị cao tăng thuộc phái Thiền Tông sang truyền giáo và lập thành một phái Thiền Tông thứ hai là Ngài Vô Ngôn Thông.

Ngài họ Trịnh, quê ở Quảng Châu. Lúc nhỏ Ngài đã mộ đạo, xuất gia tu học tại chùa Song Lâm, đất Vũ Châu (Triết Giang). Tính Ngài điềm đạm, ít nói nhưng sự lý gì cũng hiểu, nên người thời ấy gọi Ngài là Vô Ngôn Thông.

Một hôm Ngài đang ngồi lễ Phật, gặp một vị Thiền sư đến điểm hóa cho Ngài và đưa Ngài đi tìm Đức Mã Tổ mà tham học. Nhưng đến Giang Tây, Ngài nghe tin Đức Mã Tổ đã tịch rồi, nên Ngài đi đến xin tòng sư với tổ Bạch Tượng thiên sư.

Một hôm trong buổi giảng, có vị học tăng hỏi BạchTượng:

Thế nào là pháp môn của phái Đại thừa?

Tổ trả lời:

Tâm địa nhược thông, huệ nhật tự chiếu (nghĩa là: nếu tâm địa thông rồi thì mặt trời huệ tự nhiên chiếu sáng).

Nghe được mấy câu ấy, Ngài Vô Ngôn Thông liền ngộ đạo. Ngài trở về Quảng Châu, trụ trì tại chùa An Hòa. Đến năm 820, Ngài qua Việt Nam trú ở chùa Kiến Sơ, làng Phù Đổng (Bắc Ninh) trọn ngày ngồi quay mặt vào vách mà thiền định. Như thế đã mấy năm mà không ai biết; chỉ có vị sư ở chùa ấy là Cảm Thành Thiền sư biết Ngài là bậc Cao tăng đắc đạo trong phái Thiền Tông, nên hết lòng kính trọng và thờ làm thầy. Ngài thị tịch một cách rất an nhiên tự tại, vào năm 826 Tây lịch, sau khi truyền tâm ấn cho Ngài Cảm Thành Thiền sư

Ngài Cảm Thành Thiền sư lại truyền tâm ấn cho Ngài Thiện Hội và gây thành một truyền thống cho phái Vô Ngôn Thông (Chúng ta sẽ học tiếp trong các dời vua sau).

Tóm lại, trong khoảng thời gian gần bốn trăm năm, từ đời Hậu Lý Nam Đế (571-602) cho đến hết thời ký Bắc thuộc lần thứ ba (603-939), sự truyền giáo ở Việt-Nam có thể chia làm ba giai đoạc: giai đoạn thứ nhất, do công đức của phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi; giai đoạn thứ hai, do các đoàn truyền giáo Trung Hoa và Việt Nam, và sự khuyến khích ủng hộ của các đời vua Tùy và Đường; giai đoạn thứ ba, do phái Vô Ngôn Thông.

III. Phật Giáo Dưới Thời Đinh Và Tiền Lê (968-1009)

1. Tình trạng tổng quát của Phật Giáo trong hai đời Đinh, Lê

Trong hai đời vua này, đạo Phật được tiến phát rất nhiều. Có thể nói Đạo Phật trở thành độc tôn. Tất cả văn hóa, chính trị trong nước, một phần lớn đều thuộc về tăng sĩ, cho nên Đạo Phật được phổ biến dễ dàng trong quần chúng. Mặc dù Nho giáo và Lão giáo đã truyền vào từ lâu, nhưng không làm sao có uy thế được như Phật Giáo. Trong triều chính thì Ngài Ngô Châu Lưu làm đến chức Khuông Việt thái sư; trong giới tăng sĩ thì Ngài Trương Ma Ni làm Tăng lục đạo sĩ và Pháp sư Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân uy nghi.

Sau khi nhà Đinh mất ngôi, Lê Đại Hành lên kế vị, chóng lại quân nhà Tống (980) và được thăng lợi. Trong giai đoạn này, các vị tăng sĩ lại được biệt đãi hơn; vua Lê Đại Hành thường triệu thỉnh các vị Tăng thống vào triều để bàn hỏi việc nước và khuyến khích việc truyền bá Phật pháp.

Đều đáng chú ý trong giai đoạn này là, sau khi đã hòa với nhà Tống, vua Đại Hành sai sứ sang triều cống nhà Tống và xin thỉnh bộ "Cửu kinh" và "Đại tạng kinh" đem về truyền bá. Đây là lần đầu tiên trong nước tăng sĩ công khai sang thỉnh kinh ở Trung Hoa về.

Một điều đáng ghi nhớ nữa là trong giai đoạn này, trong giới tăng sĩ có hai vị cao tăng xuất chúng đã làm ver vang cho nước nhà một thời. Đó là Ngài Khuông Việt Thái sư và Ngài Đỗ Thuận Thiền sư.

2. Khuông Việt Thái sư

Ngài họ Ngô pháp hiệu là Chân Lưu, quê ở làng Cát Lỵ, trụ trì chùa Phật Đà. Thuở nhỏ Ngài theo học Nho, lớn lên thọ giới ở Vân phong Thiền sư ở chùa Khai Quốc. Từ đó Ngài chuyên đọc kinh điển nhà Phật, hiểu được mọi lẽ cốt yếu của Thiền Tông, tiếng tăm lừng lẫy trong nước. Năm Ngài 40 tuổi, vua Đinh Tiên Hoàng vời vào hỏi đạo, Ngài ứng đối tinh tường, vua rất mến phục và phong làm Tăng Thống. Năm sau vua lại phong Ngài làm Khuông Việt thái sư (Khuông Việt là người có công giúp đỡ sửa sang người Việt).

Đến đời vua Lê Đại Hành, Ngài càng được kính trọng hơn nữa. Bao nhiêu việc quan, việc nước, vua thường triệu Ngài đến hỏi. Ngài ở triều được ít lâu rồi lấy cớ già yếu xin cáo về, dựng một ngôi chùa ở núi Du Hý. Ở đó, Ngài mở trường dạy hạc, học trò đến rất đông.

Ngày rằm tháng hai, niên hiệu Thuận Thiên thứ hai đời nhà Lý, Ngài gọi Đa Bảo Thiền sư là đệ tử thân tín của Ngài đến, truyền tâm pháp qua bài kệ sau đây, rồi chắp tay an nhiên thị tịch.

Nguyên văn

Mộc trung nguyên hữu hoa,

Nguyên hỏa phục hoàn sinh,

Nhược vị một vô hỏa,

Toản toại hà do sinh?

Dịch nghĩa:

Trong cây vốn có lữa,

Tia lữa mới sáng lòa,

Nếu bảo cây không có lữa,

Cọ sát sao lại ra?

Ngài thọ được 81 tuổi, và là người thứ tư được truyền tâm pháp của phái Vô Ngôn Thông.

3. Đỗ Thuận Thiền sư

Ngài dòng họ Đỗ, không rõ nguyên quán ở đâu, xuất gia từ thuở nhỏ, thọ giới với Long Thọ Phù Trì Thiền sư. Khi nhà Tiên Lê mới thành nghiệp, Ngài thường được vời vào triều để bàn luận chính trị và ngoại giao. Vua Đại Hành thường gọi là Đỗ Pháp sư, chứ không dám gọi chính tên. Ngài làm thơ rất hay, và thường được cử ra để đối đáp với các sứ giả Trung Hoa.

Niên hiệu Hưng Thống thư hai nhà Tiền Lê, Ngài thị tịch, thọ được 76 tuổi. Ngài có làm quyển "Bồ Tát hiệu sám hối văn", nay truyền lại. Ngài là đời pháp truyền thống thứ mười của phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi.

4. Nhận xét chung về Phật Giáo trong giai đoạn này

Phật Giáo đời Đinh Tiên Hoàng và Tiền Lê, sở dĩ được ưu đãi và giữ địa vị độc tôn, vì những lý do sau đây: các vị tăng sĩ phần nhiều là những vị bác học thâm Nho. Chữ Nho mặc dù trước đó đã được đem dạy ở đất Việt, nhưng vì chưa có khoa thi cử, nên ít người theo học. Chỉ có các vị Thiền sư, vì cần nghiên cứu Phật Giáo qua kinh điển bằng chữ Hán, nên phải học nho nhiều. Những vị sư lúc bấy giờ, vừa túc Nho, vừa hiểu đạo lý mà vừa có đức hạnh, thì lẽ dĩ nhiên trong triều được vua trọng vọng, ngoài dân chúng được kính nể. Đạo Phật được thạnh hành trong giai đọan này cũng không có gì đáng ngạc nhiên.

IV. Phật Giáo Dưới Thời Nhà Lý (1010-1225)

1. Dưới đời Lý Thái Tổ

a. Vua Lý Thái Tổ và tình hình Phật Giáo dưới đời này (1010-1028)

Vua Lý Thái Tổ tên húy là Lý Công Uẩn, con nuôi của sư Lý Khánh Vân ở chùa cổ pháp, thọ giáo với Ngài Vạn Hạnh Thiền sư .Sau khi vua Lê Ngọa Triều mất, Ngài mới lên ngôi kế vị, lấy hiệu Thuận Thiên đóng đô ở Thăng Long (Hà Nội). Lý Thái Tổ là một Phật tử thuần thành, nên sau khi lên ngôi, Ngài hết sức chú trọng đến sự truyền bá Phật Giáo. Ngài đã dựng rất nhiều ngôi chùa và độ rất nhiều tăng chúng. Đáng chú ý hơn cả là năm 1019, Ngài sai sứ thần sang Trung Hoa thỉnh kinh đem về để tại kinh viện Đại Hưng.

Triều đại này có thể nói là triều đại mà Phật Giáo được thịnh đạt nhất. Các vị Thiền sư lúc bấy giờ như Ngài Vạn Hạnh, Đa Bảo, Sùng Phạm Thiền sư đều là những bậc danh tăng mà nhà vua rầt tín trọng. Cho nên sự truyền giáo của các Ngài rất dễ dàng có hiệu quả. Những vị danh tăng này đều ở hai phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi và Vô Ngôn Thông cả.

b) Vạn Hạnh Thiền sư

Ngài họ Nguyễn, không rõ tên húy là gì, người làng Cổ Pháp. Gia đình Ngài đời đời thờ Phật, Ngài thông minh xuất chúng từ thuở nhỏ, học hết tam giáo và tinh thông về giáo lý nhà Phật. Năm 20 tuổi Ngài xuất gia, theo học với Ngài Thiền Ông đạo giả, tức là vị thư hai được truyền tâm phap của phái Tỳ -Ni- Đa-Lưu -Chi. Ngài chuyên tập pháp "Tổng trì tam ma địa". Người đời thường xem câu nói của Ngài như những câu sấm. Trong thời vua Đại Hành còn sống, Ngài được vời vào triều hỏi việc quan.

Năm Thuận Thiên thứ IX (1018) Ngài không đau ốm gì mà tịch. Thi hài Ngài được triều đình và các đệ tử của Ngài hỏa táng và thờ ở trong tháp. Trước khi tịch Ngài có làm bài kệ như sau:

Nguyên văn:

Thân như điện ảnh hữu tòan vô.

Vạn một xuân vinh thu tựu khô.

Nhậm vận thịnh suy vô bổ úy.

Thịnh suy nhưlộ thảo đầu phô.

Dịch nghĩa:

Thân như bông chớp chiều tà.

Cỏ xuân tươi tốt, thu qua rụng rời.

Sá chi suy thịnh việc đời.

Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

2. Dưới đời Lý Thái Tông (1028-1054)

a. Tình hình Phật Giáo dưới đời vua này

Lý Thái Tông nối ngôi Thái Tổ, lấy niên hiệu Thiên Thành. Ngài cũng là người rất sùng mộ đạo Phật. Sau khi đánh dẹp giặc chiêm ở đất Hoàng Châu (nghệ An) về, Thái Tôn sắc lập 95 ngôi chùa cử lễ khánh thành, hạ chiếu miễn thuế cho dân trong nước một năm. Đến năm 1034, Thái Tôn đổi niên hiệu là Thông Thụy, lúc bấy giờ nước Việt Nam được nhà Tống ban Đại tạng kinh và tự sai sứ thỉnh qua nước ta. Hành động ấy gây một ảnh hưởng khả quan cho Phật Giáo nước nhà, và một vinh dự cho triều đình nhà Lý lúc bấy giờ.

Từ lúc nhận lãnh Đại tạng kinh của nhà Tống, vua Thái Tôn thường đến nghe kinh và hỏi đạo với Ngài Thiền Lão Thiền sư và tự xưng là đệ tử. Về sau vua được Ngài Thiền Lão truyền tâm pháp là người thứ bảy trong đời truyền thống của phái Vô Ngôn Thông.

Dưới đời này có nhiều vị cao tăng rất có công trong sự truyền bá chính pháp, như ngài Huệ Linh Thiền sư, Định Lương trưởng lão, Thiền Lão Thiền sư v.v..

b. Huệ Linh Thiền sư

Ngài họ Lâm, tên tục là Khu, quê ở Đông Phù Liệt, nguyên là con cháu Lâm Phú ở Trà Sơn (Hà Đông bây giờ). Ngài có tướng mạo khôi ngô, ăn nói lưu loát, từ nhỏ đã nổi tiếng văn hay chữ tốt. Những khi học Nho còn thừa thời giờ, ngài lại nghiên cứu kinh Phật. Gần 70 tuổi Ngài theo học đạo với Ngài Đinh Huệ Thiền sư . Từ đó sự tu học của Ngài càng ngày càng tiến. Khi được sư phụ truyền tâm pháp cho, Ngài mới đi hành hóa khắp chốn Tùng Lâm, rồi đến núi Bồ Đề. Mỗi lần Ngài ngồi nhập định ít nhất cũng năm bảy ngày. Người đời bấy giờ thường gọi Ngài là ông "Phật sống". Nhà vua cho người đi thỉnh Ngài nhiều phen, Ngài mới chịu về triều. Sau khi đàm đạo, vua rất kính phục và phong Ngài làm chức Nội cung phụ tăng và truyền sắc ở chùa Vạn Tuệ gần thành Thăng Long. Một hôm trong đại nội có thiết việc chay đãi các tăng sĩ, vua hỏi:

- Đối với tâm nguyện của Phật, các học giả thường cãi nhau. Trẫm muốn các bậc thượng đức ở đây, bày tỏ chỗ sở đắc, để Trẫm được biết sự học vấn của các Ngài như thế nào?

Huệ Linh Thiền sư liền ứng khẩu bài kệ sau đây:

Nguyên văn:

Pháp bổn như vô Pháp

Phi hữu diệc phi không

Nhược nhân tri thử pháp

Chúng sinh giữ Phật đồng

Tịch tịch Lăng Già nguyệt

Không không độ hải châu

Tri không không giác hữu

Tam muội nhậm thông châu.

Dịch nghĩa:

Pháp vốn như không pháp

Chẳng có cũng chẳng không

Nếu hiểu được pháp ấy

Chúng sinh Phật vẫn đồng

Trăng Lăng Già phẳng lặng

Thuyền Bát Nhã chân không

Biết không rồi biết có

Tam muội mặc dung thông.

Nghe bài kệ, vua rất lấy làm mến phục. Thời ấy các vị vương công trong triều và sĩ thứ nhiều người đến hỏi đạo lý và đều tôn Ngài là thầy.

Sang đời Thánh Tôn, Ngài được phong làm Tạ Nhai Tăng đô thống đến năm Gia Khánh thứ năm (1063) Ngài tịch. Ngài có soạn mấy cuốn: "Pháp sự trai nghi, đạo tràng khánh tân văn" nhưng đều thất truyền.

c. Thiền Lão Thiền sư

Ngài trụ trì tại chùa Trùng Minh huyện Tiên Du, đệ tử của Đa Báo Thiền sư. Sau khi học đã đắc đạo, Ngài về ngôi chùa vùng Từ Sơn, danh tiếng lừng lẩy, học trò đông đến nghìn người. Chỗ ở của Ngài thành Đại Tổng Lâm.

Trong khoảng niên hiệu Thông Thụy (1034-1038) vua Lý Thái Tông nhân một hôm đến thăm và hỏi Ngài:

- Hòa Thượng tới ở chùa này bao lâu?

Vị Thiền sư đọc hai câu rằng:

Nguyên văn:

Đản tri kim nhật nguyệt

Thùy thức cựu xuân thu

Dịch nghĩa:

Sống ngày nay biết ngày nay

Còn xuân thu trước, ai hay làm gì?

Vua lại hỏi:

- Ngày thường Hòa Thượng thường làm việc gì?

Ngài lại đọc:

Nguyên văn:

Túy trúc huỳnh hoa phi ngoại cảnh

Bạch vân Minh nguyệt lộ toàn chân

Dịch nghĩa:

Trúc biếc hoa vàng đâu cảnh khác

Trăng trong, mây bạc hiện toàn chân.

Sau khi về cung, vua định sai sứ rước Ngài vào triều để thỉnh làm cố vấn. Sứ giả đến nơi thì Ngài đã tịch rồi.

3. Dưới đời Lý Thánh Tông (1054-1075)

a) Tình hình Phật Giáo trong đời này

Thánh Tông lên ngôi, đổi quốc hiệu là Đại Việt và lấy niên hiệu là Long Thụy Thái Bình. Ngài là một ông vua rất sùng mộ Đạo Phật. Năm Long Thụy thứ năm (1059), Ngài xuống sắc lệnh dựng chùa xây tháp và đúc quả chuông trọng lượng 12.000 cân đồng, tại làng Bảo Thiên thuộc tỉnh Hà Nội. Quả chuông ấy hiện nay vẫn còn.

Trong thời đại này, phái Thảo Đường xuất hiện ở Việt Nam, do Ngài Thảo Đường, đệ tử Ngài Tuyết Đậu Minh Giáp bên Tầu truyền sang. Vua Lý Thánh Tôn thọ giáo với Ngài, sau được truyền trong pháp làm đệ tử đầu tiên của Ngài Thảo Đường. Phái Thảo Đường tức là phái Thiền Tông là phái thứ ba ở nước ta vậy.

Lý Thánh Tông là một tăng sĩ được quyền truyền tâm pháp thì chắc chắn Đạo Phật lúc bấy giờ rất được phát đạt và có ảnh hưởng lớn lao trong dân chúng lắm.

b) Phái Thảo Đường

Năm 1069 vua Lý Thánh Tông đi đánh Chiêm Thành, bắt được vua Chiêm Thành là Chế Củ và nhiều dân, quân về làm tù binh. Những tù binh này, vua ban cho các quan trong triều làm hầu hạ. Trong số các quan trong triều, có một vị Tăng Lục. Một hôm, vị Tăng ấy đi vắng, về bỗng thấy "Ngữ lục" của mình bị một tù nhân sửa chữa lại cả. Vị Tăng Lục thất kinh, đem về tâu với vua. Vua cho đòi tên tù nhân ấy hỏi, thì y ứng đối rất thông suốt, luận về kinh Phật rất sáng đáng. Hỏi ra mới biết đó là một vị Thiền sư người Trung Hoa, theo thầy qua Chiêm Thành, rồi bị bắt làm tù binh. Vị Thiền sư ấy tức là Ngài Thảo Đường.

3. Dưới đời Lý Nhân Tông (1072-1127)

a) Tình hình Phật Giáo trong thời kỳ này

Lý Nhân Tông, mặc dù khi lên ngôi tuổi còn nhỏ mà rất thông minh, anh dũng. Ngài rất hâm mộ Phật Giáo, cho nên ngoài công việc triều chính ra, Ngài còn để tâm lo truyền bá Phật pháp. Ngài có đặt một vị quan cao cấp trong nom hết thảy các chùa trong nước. Ngài lại phong cho Khô Đầu Thiền sư làm quốc sư để cố vấn việc quốc chính, nhưng Ngài KhuongViệt, dưới đời Đinh và Tiền Lê.

Song song với công việc chấn hưng Phật pháp của vua, bà Hoàng Hậu cũng là một tín nữ đắc lực, đã xuất của riêng ra lập hơn trăm ngôi chùa trong nước.

Trong đời này, lại có nhiều bậc Thiền sư lỗi lạc, trước thuật những sách vở làm vẻ vang cho lịch sử Phật Giáo nước nhà như Ngài Viên Chiếu Thiền sư, Ngộ Ấn Thiền sư ...

b. Viên Chiếu Thiền sư

Ngài họ Mai, tên húy là Trực, quê ở huyện Long Đàm, con anh bà Linh Cảm Thái Hậu (Vợ vua Thái Tôn). Ngài thông minh từ thủa nhỏ. Mặc dù con nhà quyền quý, Ngài từ giã gia đình, vào chùa Tiêu Sơn, xin làm đệ tử Ngài Định Hương Thiền sư, nghiên cứu thiền học. Ngài rất am hiểu pháp "Tam quán" trong kinh Viên Giác, tu đến đắc đạo và được sư phụ truyền tâm ấn.

Sau Ngài về Thăng Long, dựng một ngôi chùa ở mé tả kinh thành và trụ trì tại đó. Người bốn phương nghe tiếng xin theo học rất đông.

Ngài có soạn quyển:"Dược sư thập nhị văn", trong ấy bàn giải về 12 điều đại nguyện trong kinh dược sư. Vua Lý Nhân Tông có đưa bản sách ấy cho các sứ thần sang Tầu dâng vua Triết Tôn nhà Tống. Vua Tống giao sách ấy cho các vị Thượng tọa ở chùa Tướng Quốc xem và có chỗ nào đáng sữa thì sữa lại. Các đại sư Tầu xem rồi tâu với vua Tống rằng: "Đây là đấng hóa thân đại sĩ ra đời ở phương Nam, giảng giải kinh nghĩa rất tinh vi, bọn phàm tăng chúng tôi đâu dám thêm bớt một chữ nào nữa!".

Vua Tống sắc cho sao lại một bản, còn bản chính thì trả lại cho vua tăng sĩ với nhiều khen tặng. Ngài Viên Chiếu tịch năm Quãng Hựu thứ sáu (1090) thọ 92 tuổi.

Sau đây là bài thơ của Ngài còn truyền lại:

Nguyên văn:

Giốc hưởng tùy phong xuyên trúc đáo

Sơn nham đáo nguyệt quá tường lai

Vũ trích nham hoa thần nữ lệ

Phong xao đính trúc Bá Nha cầm.

Dịch nghĩa:

Theo gió tiếng còi luồng bại trúc

Kèm trăng trái núi quá đầu tường

Hoa núi mưa xa thần nữ khóc

Tre xanh gió thổi Bá Nha đàn.

5. Dưới đời Lý Thần Tông (1128-1138)

Lý Nhân Tông không có con, lập con của hoàng đệ là Súng Hiền Hầu lên làm Thái Tử, sau lên ngôi tức là Thần Tông. Năm Thiên Chương Bảo Tự thứ tư (1136) vua mắc bệnh nặng, nhờ có Minh Không Thiền sư chữa khỏi, nên vua phong cho Thiền sư làm quốc sư và sắc lập chùa Linh Cảm.

Trong đời này củng có nhiều vị danh tăng như Minh Không Thiền Sư, Thông Biện Thiền sư, Bảo Giám Thiền sư và đặc biệt có một sư ni, con gái một vị hoàng thân, tức là bà Diệu Nhân. Vị sư ni này thọ giới với Chân Không Thiền sư, và là vị ni đầu tiên trong phái Tỳ-Ni-Đa-Lưu-Chi. Ngoài ra, trong thời này cũng có nhiều vị cao tăng trong phái Vô Ngôn Thông, Thảo Đường mở đạo tràng dạy đệ tử hoặc đi hành hóa, dùng pháp thuật cứu giúp kẽ bệnh tật rất nhiều.

6. Dưới đời các vị vua cuối đời nhà Lý

Lý Anh Tông (1138-1175), Lý Cao Tông (1176-1210), Lý Huệ Tông (1211-1225).

a) Lý Anh Tông và thời đại này

Thần Tông mất, thái tử Thiên Tộ lên làm vua lấy đế hiệu là Anh Tôgn. Anh Tông là đệ tử của Thiền sư (phái Thảo-Đường) và được truyền tâm pháp, tức là vị đệ tử thứ tư nối truyền thống của phái Thảo Đường.

Những vị Thiền sư có tiếng trong đời này là: Trí Thuyền, Am Trí, Bảo Giám, Viên Thông Thiền sư. Ngài Viên Thông Thiền sư được phong làm Quốc sư vào năm 1143, tịch năm 1151, thọ 72 tuổi. Ngài có trước tác những bộ sách hiện còn lưu lại:

- Chư Phật tích dư sự (30 chương).

- Hồng chung văn bi ký Tăng già tạp lục (50 chương).

- 1000 bài thơ

b) Lý Cao Tông và thời đại này

Anh Tông mất, Thái tử Long Cán nối ngôi, hiệu là Cao Tông. Cao Tông lên ngôi mới ba tuổi, công việc trong triều giao trong tay quan phụ chính Hồ Hiến Hành. Cao Tông lớn lên thụ giáo với Ngài Trương Tam Tạng Thiền sư trong phái Thảo Đường.

Trong đời này, tuy vua chúa, các bà cung phi và triều đình (như Thái úy Tô HiếnThành, Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa) đều sùng mộ Đạo Phật, nhưng sự phát triển không có gì đặc sắc đáng kể. Vận nước đang xuống, và Phật Giáo củng xuôi theo đà.

c) Lý Huệ Tông với thời đại này

Thái tử Sam nối ngôi Cao Tông, tức là Huệ Tông. Nhà Lý đến giai đoạn này đã suy lắm. Trong triều thì nổi loạn, vua không có thực quyền, ngoài dân gian cũng không được yên ổn. Do đó, Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng theo.

Năm 1224, Huệ Tông chán ngán đời làm vua, truyền ngôi cho con gái mới 7 tuổi là công chúa Phật Kim, tức Lý Chiêu Hòa, rồi xuất gia ở chùa Chân Giáo, tự xưng là Huệ Quang Đại sư.

Lý Chiêu Hoàng truyền ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Nhà Lý chấm dứt từ đấy!.

7. Nhận xét chung về Phật Giáo đời nhà Lý

Nếu ở Trung Hoa, đời Đường là đời Phật Giáo thịnh hành nhất, thì ở Việt Nam đời Lý là đời Phật Giáo được thịnh hành nhất.

Trong hơn hai trăm năm, Đạo Phật giữ địa vị độc tôn về mọi phương diện: Đạo đức, văn học, chính trị, ngoại giao. Tám đời vua nhà Lý đều sùng một Đạo Phật và có nhiều vị đã xuất gia đắc đạo. Các vị Tăng trong đời vua ấy là những cao Tăng, Đại đức, thông thái và giữ nhiều địa vị quan trọng trong triều đình. Không những thế, các Ngài còn là những là thi sĩ lỗi lạc, những nhà ngoại giao tài tình và những nhà mô phạm uyên bác. Các Ngài đã tận tụy đem cái sơ học, sở đắc của mình nhập thế cứu đời, gây uy tín rất lớn cho Đạo Phật. Chính các Ngài đã gián tiếp cải chính một cách hùng hồn bằng những hành động của mình rằng: Đạo Phật không phải là yếm thế, nhu nhược mà chính là tích cực, dũng mãnh cứu đời và đã góp công rất lớn trong công cuộc dựng nước và an dân. Đọc lịch sử Phật Giáo nước nhà đến đọan này, chúng tăng sĩ thật vô cùng phấn khởi và càng thêm tin tưởng vào sứ mệnh cứu đời của Phật Giáo.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6335102
Số người trực tuyến: