Nhân Minh Luận
NHÂN MINH LUẬN
BÀI HỌC THUỘC LÒNG
(Quí vị muốn học Nhân minh luận được dễ hiểu, trước phải học thuộc lòng những danh từ sau đây)
Nhân minh nhập chính lý luận, nội dung có ba phần (tam chi): Tôn, Nhân, Dụ.
Tự “Tôn” có chín lỗi:
Tự “Nhân” có 4 lỗi, phân làm 3 phần:
Tự Dụ có 10 lỗi, phân làm 2 phần:
NHÂN MINH LUẬN CƯƠNG YẾU
NHÂN MINH LUẬN TỪ ĐÂU MÀ CÓ?
Trước thời Phật Thích Ca giáng sinh (chưa rõ xác thật là bao nhiêu năm), ở Ấn Độ có nhiều phái ngoại đạo, tranh chấp nhau bằng lý thuyết. Ông Túc Mục Tiên nhân là một trong các vị Tổ của các phái, lập ra pháp luận lý này, để bác các đạo. Phương pháp này được tín dụng và đắc lực trong thời kỳ ấy.
Đến khi Phật ra đời, thấy Nhân minh là một môn luận lý có qui tắc, vừa đúng lý và vừa hợp thời, được công chúng thừa nhận, nên Phật cũng dùng lối lý luận này để bác các ngoại đạo tà giáo đem về chính lý.
Sau khi Phật nhập diệt, độ khoảng 600 năm, có Ngài Mã Minh và Long Thọ, hai vị Bồ Tát ra đời ở Ấn độ, sưu tập lại, phân làm năm phần: Tôn, Nhân, Dụ, Hiệp, Kết.
Về sau Ngài Trần Na Bồ Tát, cải cách lại, thành lập Nhân minh luận có 3 phần: Tôn, Nhân, Dị và viết ra bộ “Nhân minh nhập chính lý luận”. Từ ngài Trần Na về trước, người ta gọi là: “Cổ Nhân minh”; từ Ngài Trần Na về sau là: “Tân Nhân minh”.
Đến đời Đường, Ngài Huyền Trang Pháp sư (người Trung hoa) sang Ấn Độ học Phật pháp, rất tinh thông về môn học này. Ngài đã nhiều lần lên luận đàm, dùng lối lý luận Nhân minh này mà biện luận, làm cho cả Ấn Độ 18 nước đều kính phục.
Sau khi trở về nước, Ngài dịch lại và truyền bá trong nước Trung Hoa.
Vì sự đòi hỏi của tín đồ, nên tôi (Sa môn Thích Thiện Hoa) phỏng dịch và chú giải bằng chữ Việt.
SAO GỌI LÀ “NHÂN MINH NHẬP CHÍNH LÝ LUẬN?”
Nhân minh luận là một luận lý tối cổ ở Á đông, vừa đúng lý, vững chắc và vừa có quy tắc.
Điều cố yếu là phải rành rõ “nguyên nhân” hay “lý do vì sao”, thì lối luận lý mới chân chính và đúng đắn, nên gọi là “Nhân minh nhập chính lý luận”.
Vì nhờ “Nhân” mới rõ được Tôn, nhờ “Nhân” mới lập được Dụ. Bởi “Nhân” rất trọng yếu như vậy, nên gọi là “Nhân minh”, mà không gọi là “Tôn minh hay Dụ minh. Nhân minh là một trong ngũ minh.
NỘI DUNG CỦA NHÂN MINH
Nội dung của Nhân minh luận chia làm 3 phần: Tôn, Nhân, Dụ. Theo Cổ Nhân minh có thêm 2 phần: Hiệp và Kết là 5 phần:
A.TÔN
Phàm nói ra một câu gì, hày trình bày một lập thuyết gì, cái lập thuyết ấy gọi là Tôn. Như nói: “Tôi ăn cơm”.
Tôn có nhiều tên, như:
1. Tiền trần (danh từ trước) cũng gọi: Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt.
2. Hậu trần (danh từ sau) cũng gọi: Pháp, Sai biệt, Năng biệt.
Thí dụ như nói: "Tôi ăn cơm".
- Tôi Tiền trần (danh từ trước), Hữu pháp, Tự tướng, Sở biệt.
- Ăn cơm Hậu trần (danh từ sau), Pháp, Sai biệt, Năng biệt.
TÔN CÓ TÔN Y VÀ TÔN THỂ
I. Tôn y gồm có 2 phần:
1. Tiền trần: Hữu pháp, Sở biệt và Tự tướng
2. Hậu trần: Pháp, Năng biệt và Sai biệt.
II. Tôn thể. Cổ Nhân minh (từ Ngài Trần Na về trước) lấy Tiền trần làm Tôn y, Hậu trần làm Tôn thể.
Tân Nhân minh (từ Ngài Trần Na về sau) cho Tiền trần và Hậu trần là vật kiện để lập Tôn, nên đều là Tôn y. Hai vật kiện ấy hợp chung lại thì gọi là Tôn thể.
CHÍN LỖI VỀ TỰ TÔN
Phàm lập Tôn phải tránh chín lỗi sau đây, thì cái Tôn ấy mới đúng đắn, mới đủ tư cách để thành lập luận thuyết của mình, hoặc bác thuyết của người khác. Chín lỗi gồm có:
1. Hiện lượng tương vi. Lập cái tôn, trái với cảm giác hiện tiền. Như hiện tiền ai cũng hiểu biết rằng: Mũi ngửi mùi, tai nghe tiếng v.v…Nay lại lập cái Tôn rằng:
Tôn:
1. Tai tôi nghe mùi thơm
2. Mắt tôi thấy tiếng nói v.v …
Vì nói như vậy là trái với sự hiểu biết hiện tại; vừa nói ra, người ta thấy mình nói sai rồi.
Tôn đã sai thì làm sao lập được “Nhân” và “Dụ”.
2. Tỷ lượng tương vi. Lập cái Tôn trái với sự “so sánh phân biệt”. Theo sự so sánh hiểu biết của người: Phàm là người, ai cũng phải chết, như các vị tiền nhân đã chết. Và phàm vật gì có hình phải có hoại, cũng như bao nhiêu vật đã hoại trước. Nay lại lập Tôn rằng:
Tôn:
1. Tôi sống hoài không chết.
2. Cái nhà tôi không bao giờ hư.
Lập Tôn như vậy là trái với sự “so sánh phân biệt” của người, nên có lỗi.
3. Tự giáo tương vi. Lập cái Tôn, trái với giáo lý của mình tôn thờ. Nói rộng ra là trái với chủ nghĩa, đảng phái, gia đình, quốc gia hay một lý thuyết mà mình đương tôn trọng.
Như trong Đạo Phật nói “Chúng sinh có quả báo luân hồi”. Và nói “Có thế giới Cực lạc ở phương Tây v.v…”. Chúng ta là Phật tử lại lập cái Tôn rằng:
Tôn:
1. Chúng sinh không có luân hồi quả báo
2. Không có nước Cực lạc.
Ngoại nhân hỏi lại: “Ông nói như vầy, thì mâu thuẫn với Tôn giáo của ông. Vậy ông nói đúng lý, hay Tôn giáo của ông đúng lý? Nếu Tôn giáo ông dạy đúng lý, thì lời nói ông sai, còn lời nói của ông đúng lý thì Tôn giáo của ông sai. Vậy ông nhìn nhận cái nào đúng?”.
Họ không cần bác mà mình cũng bị thua.
4. Thế gian tương vi. Lập cái Tôn, trái với phong tục, tập quán và sự hiểu biết của thế gian.
Thế gian có 2 hạng người: Có học thức và không học thức. Nếu đối với người có học thức mà chúng ta lập cái Tôn như vầy:
Tôn:
1. Ông Thiên lôi đánh anh Xoài chết
2. Bệnh ho lao không phải do vi trùng gây nên.
Lập cái Tôn như thế, bị lỗi trái với thế gian, với những người có học thức (Khoa học).
Vì khoa học (người có học thức) nói “bệnh ho lao do vi trùng gây nên”, và không công nhận có ông Thiên lôi. Chúng ta nói như thế, sẽ bị họ chê là người không có học thức.
Trái lại, nếu đối với thế gian người vô học, mà chúng ta lập cái Tôn như vầy, cũng bị lỗi thế gian tương vi.
Tôn:
1. Không có ông Thần ban phuớc giáng hoạ.
2. Bệnh ho lao phát sinh do vi trùng. Bởi thế người thế gian vô học, họ tin có ông Thần ban phước giáng họa và họ không biết vi trùng. Mặc dù chúng ta nói phải, nhưng thiếu những lời lẽ khôn khéo ngăn đón, nên họ không công nhận. Bởi họ không công nhận, nên lời nói sau của mình không giá trị, vì thế nên mới bị lỗi “Thế gian tương vi”.
5. Tự ngữ tương vi. Lập cái Tôn mà lời nói sau của mình tự mâu thuẫn với lời nói trước của mình. Như lập:
Tôn:
1. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy?
2. Ông này mù mà cái chi cũng thấy hết.
Đã không biết giá là bao nhiêu, tại sao biết rẻ? Đã là mù thì tại sao cái chi cũng thấy. Lời nói của mình tự mâu thuẫn với lời nói của mình. Chính mình cũng thấy sai, thì ai công nhận là phải.
6. Năng biệt bất cực thành. Lập cái Tôn mà “danh từ sau” bên đối phương không công nhận.
Như đối với Phật học hay Khoa học mà lập cái Tôn như vầy:
Tôn:
1. Thế giới này (danh từ trước) do Thần Tạo vật (danh từ sau) sinh.
2. Anh Ồi (danh từ trước) bị Thiên lôi (danh từ sau) đánh.
Phật học và Khoa học đồng nhận Thế giới và anh Ồi; nhưng không bao giờ nhận có “Thần Tạo vật” và “Thiên lôi”. Bởi đối phương không công nhận nên bị lỗi “bất thành”.
7. Sở biệt bất cực thành. Lập cái Tôn mà “danh từ trước” bên đối phương không công nhận. Như đối với Phật học và khoa học, lập như vầy:
Tôn:
1. Thần Tạo vật (danh từ trước) sinh ra loài người.
2. Thái cực (danh từ trước) sinh ra vạn vật.
Loài người và vạn vật là hai danh từ sau, thì cả Phật học và khoa học đều nhận có: còn Thần Tạo vật và Thái cực là hai danh từ trước, thì Phật học cũng như khọc học đều không công nhận, nên bị lỗi “bất thành”.
8. Câu bất cực thành. Lập cái Tôn mà “danh từ trước” và “danh từ sau”, bên đối phương đều không nhìn nhận. Như đối với khoa học mà lập như vầy:
Tôn:
1. Cốc thần, Thái cực tức là Chân như.
2. Thần Tạo vật chính là Thái cực.
Bên Khoa học không nhìn nhận danh từ trước là “Cốc thần, Thái cực hay Thần Tạo vật” và cũng không nhìn nhận danh từ sau là “Chân như hay Thái cực”. Phàm lập luận mà bên đối phương không hiểu, hoặc hiểu mà không nhìn nhận, thì không thể lý luận được nữa. Nên bị lỗi “bất thành”.
Tóm lại, ba lỗi bất thành này (Năng biệt, Sở biệt và Câu bất thành) bên đối phương không hiểu, hoặc hiểu mà không công nhận. Bởi hai nguyên nhân:
1. Lập không đúng.
2. Lập đúng mà thiếu lời khôn khéo giản biệt, nên bị lỗi ấy.
3. Tương phù cực thành. Lập cái Tôn mà trùng ý kiến với bên đối phương. Như lập:
Tôn:
1. Cơm ăn no bụng.
2. Nước uống đã khát.
Phàm cãi nhau là vì hai bên ý kiến không đồng. Nếu bên khách đã nhìn nhận như mình, mà mình còn lập thêm cái tôn ra nữa thì vô ích, nên bị lỗi “tương phù” (trùng điệp).
Trong 9 lỗi về Tôn, tứ 1 đến 5 là thuộc về lỗi “tương vi”; từ 6 đến 8 là thuộc vể lỗi “Bất thành”. Lỗi thứ 9 vì lập trùng điệp, nên không có hiệu quả. 9 lỗi về tự Tôn, giải thích đã rồi, bây giờ sẽ nói 14 lỗi về tự Nhân.
PHỤ BÀI HỌC ÔN (ÔN LẠI 9 LỖI VỀ TỰ TÔN)
Quý vị nên xét kỹ, những câu sau này, đối với 9 lỗi trong tự Tôn, thuộc về lỗi gì?
1. Mẹ tôi không có chồng.
2. Không có Trời Đất Quỷ Thần.
3. Không Nhân quả, Luân hồi.
4. Không Thiên đường và Địa ngục.
5. Trời sinh muôn loại.
6. Trời không luân hồi.
7. Minh sơ sinh Thần ngã.
8. Vò vò bắt sâu làm con của nó.
9. Tai nghe mùi thơm.
10. Tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi.
11. Tôi trường sinh bất tử.
12. Vật này bao nhiêu mà rẻ vậy.
13. Ông mù này, cái chi cũng thấy.
14. Ngựa đua dưới nước, tàu chạy trên bờ.
B. NHÂN
Nhân là nguyên nhân hay lý do. Phàm một sự vật hay câu nói gì, cũng đều có nguyên nhân hay lý do cả.
Như nói:
– Tôn : Tôi muốn ăn cơm.
– Nhân: Vì tôi đói bụng vậy (lý do).
Phàm cái “Nhân” nào đủ cả ba tính chất sau đây, mới đúng đắn. Trái lại, nếu thiếu một, thiếu hai, hoặc thiếu ba, thì cái Nhân ấy có lỗi. 14 lỗi về Nhân sau này, cũng bởi thiếu một, hai hoặc ba tính chất sau đây. Vậy quý vị nên nhớ kỹ ba tính chất của Nhân.
1. Biến thị Tôn pháp tính. Nghĩa là: Cái Nhân phải bao trùm cả Tôn (tính chất thứ nhất). Như lập:
– Tôn: Tôi muốn ăn cơm.
– Nhân: Vì tôi đói bụng vậy.
Cái Nhân “Vì tôi đói bụng” này, nó trùm được danh từ trước của Tôn là “Tôi muốn”; và cũng trùm được danh từ sau của Tôn là “Ăn cơm”.
Nghĩa là: Vì tôi đói bụng, nên “tôi muốn”; và vì tôi đói bụng, nên “tôi ăn cơm”.
2. Đồng phẩm định hữu tính. Nghĩa là cái Nhân quyết định phải hoàn toàn hoặc ít nhất là phải có một phần liên quan với Đồng dụ. Nó phải là đồng một tính chất như Đồng dụ (tính chất thứ hai của Nhân).
– Tôn: Tôi muốn ăn cơm
Như lập:
– Nhân: Vì đói bụng vậy
– Đồng dụ: Như anh A (đói bụng và muốn ăn cơm)
“Như anh A” là đồng dụ. Nghĩa là anh A cũng “vì đói bụng” (Nhân) nên “muốn ăn cơm” (Tôn).
Cái Nhân “vì đói bụng” này, hoàn toàn liên quan với Tôn và Đồng dụ (thí dụ thuận).
3. Dị phẩm biến vô tính. Cái “Nhân” này đối với Dị dụ (thí dụ về bề trái) phải hoàn toàn không liên quan; nghĩa là tính chất của Nhân, phải hoàn toàn không có trong Dị dụ mới được (tính chất thứ ba của Nhân).
– Tôn: Tôi muốn ăn cơm
Như lập:
– Nhân: Vì đói bụng vậy lập
– Đồng dụ: Như anh A (đói bụng, muốn ăn)
– Dị dụ: Như anh B (no bụng không muốn ăn)
Cái Nhân “vì đói bụng” này, đối với Dị dụ hoàn toàn không có liên quan; nghĩa là: anh B (Dị dụ) đã no bụng (trái với Nhân: đói bụng), nên không muốn ăn (trái với Tôn: muốn ăn).
14 LỖI VỀ NHÂN
Phàm lập cái “Nhân”, phải tránh 14 lỗi sau này, thì cái “Nhân” ấy mới hoàn toàn đúng đắn, chia làm 3 loại:
I. BỐN LỖI BẤT THÀNH
1. Lưỡng câu bất thành. Lập cái Nhân mà cả chủ và khách đều không nhìn nhận.
Như lập:
– Tôn: con rắn Hổ mây chạy mau.
– Nhân: Vì nó có chân vậy (nguyên nhân)
Cả chủ và khách đều không nhìn nhận “rắn hổ có chân”. Nay lại lập cái Nhân “vì có chân”, nên cái Nhân này chẳng thành.
2. Tuỳ nhất bất thành. Phàm lập cái Nhân, phải chủ và khách hai bên đều công nhận, ít nhất là một bên khách phải có công nhận, thì cái nhân ấy mới thành. Nay cái Nhân này bên khách không công nhận nên bị lỗi “Tuỳ nhất bất thành”. Như đối với nhà Khoa học mà lập như vầy:
Như lập:
– Tôn: Vò vò không sinh con (trứng)
– Nhân: Vì nó bắt sâu làm con vậy.
Theo Khoa học nói con Vò vò đẻ trứng trong tổ, rồi bắt sâu nhét vào làm mồi, để cho con nó khi nở ra có mồi ăn. Nay lập cái Nhân “bắt sâu làm con” thì bên khách (Khoa học) không công nhận, nên bị lỗi.
3. Dự dự bất thành. Cái Nhân dụ dự chẳng nhất định, nên không thành. Như ở xa thấy mù mù, không rõ đó là sương mù hay khói mù, lại lập như vầy:
Như lập:
– Tôn: Chỗ kia có lửa
– Nhân: Vì có mù (mây mù).
Nếu vì “khói mù” thì cái Tôn này có lửa (đúng); còn nếu vì “mây mù” thì cái Tôn này không lửa (không đúng).
Cái Nhân này người ta có thể lập ngược lại như vậy:
Như lập:
– Tôn: Chỗ kia không lữa
– Nhân: Vì có mù (mây mù).
Bởi cái Nhân này có thể lập được cả hai Tôn, vừa “có lửa” và vừa “không có lửa”, dụ dự không nhất định, nên bị lỗi “bất thành”.
4. Sở y bất thành. Chỗ y cứ của mình, bên khách không công nhận. Như tín đồ Nhất thần giáo đối với Khoa học hoặc Phật giáo mà lập như vầy:
Như lập:
– Tôn: Thần sinh ra mọi vật
– Nhân: Vì trong kinh của Đạo tôi nói vậy.
Phải là tín đồ của Tôn giáo họ, mới nhìn nhận kinh của Đạo họ là đúng. Còn đối với khoa học hay Phật giáo, không nhìn nhận kinh sách của họ, mà y cứ nơi kinh sách đó để lập luận với người ngoài Đạo mình, nên bị lỗi “sở y bất thành”.
Một tỷ dụ thứ hai: Theo trong Nhân minh có lập cái lượng như vầy:
Như lập:
– Tôn: Hư không có thật.
– Nhân: Vì muôn vật đều y hư không vậy.
Phái “vô không luận”, họ chẳng công nhận “thật có hư không”. Nếu với phái này, mà lập cái Nhân như vậy thì bị lỗi “sở y bất thành”.
Bốn lỗi “bất thành” đã nói rồi, bây giờ sẽ nói đến sáu lỗi “bất định”
II. SÁU LỖI BẤT ĐỊNH
1. Cộng bất định
– Cái Nhân này liên quan cả Đồng dụ và Dị dụ, nên bị lỗi “không nhất định”
– Tôn: Anh A đau
Như lập:
– Nhân: Vì ăn xoài sống
– Đồng dụ: Như anh B (ăn xoài sống và đau)
– Dị dụ: Như anh D (ăn xoài sống, không đau)
Nếu nói anh A “vì ăn xoài sống” mà đau như anh B, thì tại sao anh D cũng “ăn xoài sống” mà lại không đau? Bởi thế nên người ta có thể lập cái Tôn ngược lại rằng:
– Tôn: Anh D không đau
– Nhân: vì ăn xoài sống
Như lập:
– Đồng dụ: Như anh D (ăn xoài sống và không đau)
– Dị dụ: Như anh A (ăn xoài sống, đau)
Người ta có thể nói rằng: Vậy thì “vì ăn xoài sống” mà bị đau như anh A, hay “vì ăn xoài sống” mà không đau như anh D?
Bởi lập cái Nhân bất định như vậy nên có lỗi.
2. Bất cộng bất định. Cái nhân này không có liên quan với Đồng dụ.
– Tôn: Tiếng là thường còn
– Nhân: vì tai nghe vậy
Như lập:
– Đồng dụ: Như hư không (tai không nghe)
– Dị dụ: Như cỏ cây (tai không nghe).
Cái Nhân “vì tai nghe” này, đối với “Đồng dụ” và “Dị dụ” đều không có liên quan chút nào cả, nên cũng bị lỗi “bất định”. Bởi cái nhân này người ta có thể lập ngược lại như vầy:
– Tôn: Tiếng là vô thường
Như lập :
– Nhân : Vì tai nghe vậy
– Đồng dụ: Như cỏ cây (vô thường)
– Dị dụ: Như hư không (thường còn)
Vậy, “vì tai nghe” mà tiếng nói thường còn như hư không? Hay “vì tai nghe” mà tiếng nói vô thường như cỏ cây? Bởi thế nên cái Nhân này bị lỗi “bất định”.
3. Đồng phẩm nhất phần chuyển, Dị phẩm biến chuyển bất định
– Tôn: Chỗ kia có khói,
Như lập:
– Nhân: Vì có lửa vậy
– Đồng dụ:
+ Như lửa rượu cồn (có lửa, không khói)
+ Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói)
– Dị dụ: Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói).
Nếu cái Nhân “vì có lửa”, dụ như lửa ở nhà bếp, thì Tôn này có “khói”; còn “vì có lửa”, dụ như lửa rượu, thì cái Tôn này “không khói”. Vì cái Nhân này, đối với Tôn “có khói” hay “không khói” đều không nhất định, nên cái Nhân này có lỗi bất định. Bởi người ta có thể lập ngược lại như vầy:
– Tôn: Chỗ kia không khói
Như lập:
– Nhân : Vì có lửa vậy
– Đồng dụ: Như lửa cồn (có lửa, không khói)
– Dị dụ: Như lửa ở nhà bếp (có lửa, có khói)
4. Dị phẩm nhất phần chuyển, Đồng phẩm biến chuyển bất định
Cái Nhân này đối với Dị dụ có dính líu một phần, còn đối với Đồng dụ thì phải hoàn toàn dính líu, nên cái Nhân này cũng bị lỗi “bất định”.
– Tôn: Con khỉ leo cây giỏi
Như lập:
– Nhân: Vì có hai tay.
– Đồng dụ: Như con vượn
– Dị dụ:
+ Như con bò (không tay, không biết leo)
+ Như con rắn (không tay, leo cây giỏi).
Phàm Đồng dụ thì phải hoàn toàn liên quan cả Tôn và Nhân; còn Dị dụ thì hoàn toàn không dính líu gì đến Tôn và Nhân, như thế mới đúng.
Nay cái Nhân này, đối với Dị dụ bị dính líu hết mốt phần. Bởi thế cái tính chất thứ ba của nhân là “Dị phẩm biến vô tính”, nên bị lỗi; vì khách có thể hỏi lại rằng: “Vì không tay, nên leo cây giỏi như con rắn”; hay vì không tay, nên “chẳng biết lao cây như con bò?”. Bởi thế nên cái Nhân này bị lỗi “bất định”.
5. Câu phẩm nhất phần chuyển bất định
Cái Nhân này, đối với Đồng dụ và Dị dụ đều chỉ có dính líu một phần, nên cũng bị lỗi “bất định”.
– Tôn: Tiếng vô thường
Như lập:
– Nhân: Vì mắt không trông thấy
– Đồng dụ: Như tính giận, buồn v.v… (mắt không thấy và vô thường)
Tôn
– Như ruộng, nhà v.v…(mắt thấy và cũng vô thường)
– Dị dụ:
+ Như Hư không (vô thường, mắt không thấy)
+ Như Giác tính (thường, mắt không thấy)
Thí dụ thứ hai:
– Tôn: Người ta ai cũng phải chết
– Nhân: Vì vật hữu tình vậy
Như lập:
– Đồng dụ:
+ Như cầm thú (hữu hình dụ có chết)
+ Như nước biển (hữu hình, không chết)
– Dị dụ:
+ Như hư không (vô hình không chết)
+ Như tượng gỗ (hữu hình không chết)
Nếu cái Nhân “vì hữu hình” này, mà dụ như cần thú, thì cái Tôn này “có chết”, còn cái Nhân “vì hữu hình” mà thí dụ như nước, thì cái Tôn này “không chết”.
Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhân, nên phải dùng những vật “không chết” (trái với Tôn) và “vô hình” (trái với Nhân) để làm thí dụ. Nay cái Dị dụ này chỉ trái với Nhân được phân nữa. Vì ngoại nhân có thể hỏi lại rằng: vậy “hư không, không chết” vì vô hình vậy? Hay “tượng gỗ không chết” vì hữu hình vậy? Bởi hữu hình (tượng gỗ) vô hình (hư không) đều không chết, nên cái Nhân này bị lỗi “bất định”.
6. Tương vi quyết định bất định
Chủ và khách lập lượng trái nhau; song cả hai đều không có lỗi, và đều quyết định thành lập được. Nhưng không bên nào phá được bên nào.
– Tôn: Sóng thường còn
Khách lập:
– Nhân: Vì sóng tức là nước
– Đồng dụ: Như điện.
– Tôn: Sóng là vô thường
Chủ phá:
– Nhân: Vì chuyển động dược
– Đồng dụ: Như gió.
Hai cái lượng này rất mâu thuẫn nhau, song đều quyết định thành lập được. Bên khách vẫn công nhận “sóng có chuyển động”, bên chủ cũng nhận “sóng tức là nước”. Nhưng không bên nào phá được bên nào, nên Nhân này bị lỗi “bất định”. Đây cũng là vì thiếu lời lẽ khôn khéo, để làm cho người ta phục mình. Thưở xưa có người nói: “Ai lập trước thì hơn”.
Phải lập như vầy:
– Tôn: Sóng không thường còn
– Nhân: Vì nó là nước bị gió động
– Đồng dụ: Cũng như gió.
6 lỗi “Bất định” đã giải thích rồi, bây giờ sẽ nói đến 4 lỗi tương vi.
III. BỐN LỖI TƯƠNG VI
1. Pháp tự tướng tương vi
– Cái Nhân trái (mâu thuẫn) với tự tướng (lời nói trắng) của danh từ sau.
– Tôn: Gió thường còn
Như lập:
– Nhân: Vì có động vậy
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: Như sóng.
Đã có động thì làm sao lại thường còn; nên cái Nhân “có động” này, rất trái với tiếng “thường còn” là lời nói trắng về danh từ sau của Tôn.
2. Pháp sai biệt tương vi Nhân.
– Cái Nhân trái (mâu thuẫn) với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau.
– Tôn: Loài người quyết định có người tạo ra (ý hứa là một vị thần).
Như lập:
– Nhân: Vì có trí khôn và mắt, tai v.v…
– Đồng dụ: Như con do cha mẹ sinh ra
Trong cái Tôn này, về chữ “quyết định có người tạo ra” là do người lập Tôn, ẩn ý của họ muốn nói: Người tạo ấy là một vị Thần. Và ẩn ý của họ cho vị Thần ấy có ba đức tính sau này: 1. Toàn trí toàn năng, 2. Thường còn, 3. Độc tôn. Nhưng cái Nhân này nó lại trái ngược (mâu thuẩn) với ẩn ý của họ:
1. Nếu vị thần ấy tạo ra loài người có trí khôn và mắt tai v.v…như cha mẹ sinh con; vậy cha mẹ “không toàn trí toàn năng”, vì sinh ra có những đứa con ngỗ nghịch với cha mẹ, thì vị thần ấy cũng “không toàn trí toàn năng” vì tạo ra loài người mà có những kẻ oán trách lại vị Thần ấy, và giữa loài người, không biết bao nhiêu những điều bất bình đẳng.
2. Cha mẹ sinh ra con, đến khi già phải chết “không phải thường còn”; vậy vị Thần ấy đã sinh ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải chết, “không thường còn”.
3. Cha mẹ sinh ra con, tất nhiên phải có Ông, Bà sinh lại cha mẹ, nên cha mẹ không phải “độc tôn”. Vậy thì vị Thần ấy đã tạo ra loài người, thì vị thần ấy cũng phải có một vị Thần lớn hơn sinh ra, nên vị thần ấy cũng không “độc tôn”.
Bởi thế nên cái Nhân này bị lỗi mâu thuẫn với ý hứa (ẩn ý) của danh từ sau là “người tạo ra”.
3. Hữu pháp tự tưởng tương vi Nhân. Cái Nhân mâu thuẫn với lời nói trắng (tự tướng) về danh từ trước của Tôn.
– Tôn: Phải có một ông Vô hình tạo ra Vũ trụ
Như lập:
– Nhân: Vì Vũ trụ có trật tự vậy.
– Đồng dụ: Như ông Kiến trúc sư làm nhà.
Cái Nhân “Vì vũ trụ có trật tự” này, rất trái ngược với danh từ trước của Tôn là “Ông Vô hình”. Đã Vô hình thì làm sao tạo ra Vũ trụ là vật hữu hình và có trật tự được? Phải vật hữu hình mới tạo ra vật hữu hình. Như ông kiến trúc sư, vì hữu hình mới tạo ra cái nhà hữu hình được.
4. Hữu pháp sai biệt tương vi nhân. Cái Nhân trái ngược với ý hứa (ẩn ý) về danh từ trước của Tôn.
– Tôn: Phải có một đấng sinh ra vũ trụ
Như lập:
– Nhân: Vì vũ trụ có thứ tự vậy.
– Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà.
Người lập lượng này, nếu nói trắng ra “Có một ông Thần”, thì sợ bên đối phương không công nhận, mà phải bị lỗi “Sở biệt bất thành”, nên họ chỉ nói một cách hồn hàm là “Có một Đấng”. Song ẩn ý của họ muốn nói “Đấng ấy là một vị Thần”; và họ cho vị Thần này có 3 đức tính: 1. Thường còn, 2. Cao cả, 3. Sinh vạn vật.
Nhưng Đấng ấy đã sinh ra được vạn vật, thì Đấng ấy tất nhiên cũng phải bị người khác lớn hơn sinh ra và chết; không phải cao cả và thường còn. Cũng như ông thợ làm nhà.
Vì cái Nhân này, trái ngược với ần ý của danh từ trước, nên bị lỗi “tương vi”. Ngoại nhân có thể lập lượng bác lại rằng:
– Tôn: Đấng ấy phải bị người khác sinh ra và phải chết.
Như lập:
– Nhân: Vì Đấng ấy sinh ra vũ trụ vậy.
– Đồng dụ: Như ông thợ làm nhà.
14 lỗi về Tự Nhân, chúng tôi đã giải thích rồi, sau đây sẽ nói 10 lỗi về Tự dụ.
PHỤ BÀI ÔN HỌC (ÔN LẠI 14 LỖI VỀ TỰ NHÂN)
Quí vị nên xét kỹ các lượng sau này, rồi chỉ ra: lỗi của Tôn, lỗi của Nhân, và nói rõ tại sao.
Lượng thứ I:
– Tôn: Nhân loại quyết định có người tạo
– Nhân: Vì có trí khôn và đủ cả mắt, tai v.v…
– Đồng dụ: Như con, phài có cha mẹ sinh ra.
Lượng thứ II:
– Tôn: Gió thường còn
– Nhân: Vì có động vậy
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: Như sóng
Lượng thứ III:
– Tôn: Phải có một Đấng sinh ra vũ trụ
– Nhân: Vì vũ trụ có trật tự vậy
– Đồng dụ: Như ông Kiến trúc sư làm nhà
Lượng thứ IV:
– Tôn: Phải có một ông vô hình tạo ra vũ trụ
– Nhân : Vì vũ trụ có trật tự vậy
– Đồng dụ: Như ông thọ làm nhà.
***
C. DỤ
Phàm lấy một vật gì mà bên đối phương đã biết và đã công nhận, để so sánh chúng minh với một vật khá mà bên đối phương kia chưa biết, hoặc chưa công nhận thì gọi là “Dụ”.
Thí dụ khi lập cái “Tôn thường còn”, thì phải lấy tất cả những vật “thường còn” làm Đồng dụ; trái lại, phải lấy tất cả những vật “vô thường” làm Dị dụ.
Về Tự dụ có 10, chia làm 2 loại:
I. TỰ ĐỔNG DỤ CÓ 5
1. Năng lập pháp bất thành. Phàm cái Nhân là để thành lập cái Tôn, nên cái Nhân là “Năng lập pháp” còn cái Tôn là “Sở lập pháp”. Cái Dụ này trái ngược Nhân, nên bị lỗi “bất thành”.
Như lập:
– Tôn: Con ngựa chạy hay
– Nhân: Vì có bốn vó
– Đồng dụ: Như con rắn hổ ngựa
Cái Dụ này hiệp với Tôn (chạy hay), trái với Nhân (thiếu chân)
2. Sở lập pháp bất thành. Nhân là Năng lập mà Tôn là Sở lập (bị lập). Cái dụ này trái ngược với Tôn, nên cũng bị lỗi “bất thành”.
Như lập:
– Tôn: Người ta không bay được.
– Nhân: Vì thiếu hai cánh
– Đồng dụ: Như mây (không cánh, bay được)
Cái Dụ này hiệp với Nhân (thiếu cánh) và trái với Tôn (không bay).
3. Câu bất thành
– Cái Dụ này trái ngược với Tôn và Nhân. Bởi lấy Dị dụ làm Đồng dụ, nên bị lỗi “bất thành”.
Như lập:
– Tôn: Tiếng thường còn
– Nhân: Vì tai nghe vậy
– Đồng dụ Như bàn, ghế.
Bàn, ghế “vô thường” nên trái với Tôn, và “tai không nghe được”, nên trái với Nhân.
4. Vô hiệp. Cái Dụ này không có lời phối hiệp để kết thúc lại cho dễ hiểu.
Như lập:
– Tôn: Người ta phải chết
– Nhân: Vì có sinh vậy
– Đồng dụ Như chim v.v…
Đáng lẽ phải nói lời phối hiệp để kết thúc lại như vầy: “Người ta có sinh (Nhân) phải có chết (Tôn). Phàm vật gì có sinh (Nhân) phải có chết (Tôn), như chim v.v…” thời người ta mới dễ hiểu. Cái này chỉ nói tắt rằng “như chim”; làm cho người ta không hiểu: Như chim có hai cánh, hay là như chim có mỏ? Nên bị lỗi “vô hiệp”.
5. Đảo hiệp. Lời thí dụ, kết thúc phối hiệp lại trái ngược. Phàm kết thúc phối hiệp thì phải nói cái Nhân trước rồi nói cái Tôn sau.
Như lập:
– Tôn: Người ta phải chết
– Nhân: Vì có sinh vậy
– Đồng dụ: Phàm vật gì có sinh (Nhân) thì phải có chết (Tôn) như chim v.v …
Nay kết thúc lại trái ngược, nghĩa là: Phối hiệp Tôn trước rồi Nhân sau.
Như lập:
– Tôn: Người ta phải chết
– Nhân: Vì có sinh vậy
– Đồng dụ: Phàm có chết (Tôn) phải có sinh (Nhân) như chim v.v …
Bởi vì nói “có sinh phải có chết” thì ai cũng thấy; còn nói “có chết phải có sinh”, người ta khó nhận.
II. TỰ DỊ DỤ CÓ 5
Phàm Dị dụ là dụ bề trái của Tôn và Nhân, nên phải hoàn toàn trái ngược với Tôn và Nhân.
1. Sở lập pháp bất khiển. Cái Dị dụ này không trái với Tôn.
Như lập:
– Tôn: Tiếng nói thường còn
– Nhân: Vì vô hình vậy
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: như vi trần (vi trần hữu hình và thường còn)
Vi trần có hình chất mà lại thường còn. Nếu lấy vi trần làm Dị dụ, thì chỉ trái với Nhân (vô hình) mà không trái với Tôn (thường) nên bị lỗi.
2. Năng lập pháp bất khiển. Cái Dị dụ này không trái với Nhân.
Như lập:
– Tôn: Tiếng nói thường còn
– Nhân: Vì vô hình vậy
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: như điện chớp (vô hình, không thường).
Lấy điện chớp làm Dị dụ, thì chỉ trái với “Tôn thường còn”, mà không trái với “Nhân vô hình”, nên bị lỗi.
3. Câu bất khiển. Cái Dị dụ không trái với Tôn và Nhân. Lỗi này vì lấy Đồng dụ làm Dị dụ.
Như lập:
– Tôn: Người phải chết
– Nhân: Vì có sinh vậy
– Đồng dụ: Như cỏ cây
– Dị dụ: như loài vật
Phàm Dị dụ là phải trái với Tôn và Nhân. Nay dùng cái Dị dụ này không trái với Tôn và Nhân nên bị lỗi.
4. Bất ly. Dị dụ không có lời kết thúc để ly biệt Tôn và Nhân
Như lập:
– Tôn: Tiếng nói thường còn
– Nhân: Vì không hình chất
– Đồng dụ: Những gì vô hình đều thường còn, như hư không
– Dị dụ: như bàn ghế
Về Dị dụ, đáng lẽ cũng phải có lời phối hiệp kết thúc để ly biệt Tôn và Nhân như vậy:
“Phàm những gì vô thường, thì đều có hình chất, như bàn ghế”. Nay chỉ nói tắt rằng: “Như bàn ghế” Làm cho người ta không hiểu: Như bàn ghế có bốn chân? Hay như bàn ghế có mặt? Phải lưu ý: Về Đồng dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là “Vô hiệp”; còn bên Dị dụ, nếu thiếu lời phối hiệp để kết thúc, thì gọi là “bất ly”.
5. Đảo ly. Lời kết thúc của Dị dụ, để ly biệt Tôn và Nhân, lại phối hiệp một cách trái ngược.
Như lập:
– Tôn: Tiếng thường còn
– Nhân: Vì vô chất ngại
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: những gì có chất ngại (Nhân) đều vô thường (Tôn) như bình, bàn v.v…
Phàm lời phối hiệp để kết thúc của Dị dụ là phải nói Tôn trước rồi Nhân sau, mới thuận.
Như nói: “Những gì vô thường (Tôn) thì đều có chất ngại (Nhân) như bình, bàn v.v… “Nay phối hiệp ngược lại Nhân trước Tôn sau, nên bị lỗi “Đảo ly”. Lưu ý: Về Đồng dụ, khi kết thúc, phải nói Nhân trước rồi nói Tôn sau. Nếu trái lại thì bị lỗi “Đảo hiệp”. Về Dị dụ, khi kết thúc, phải nói Tôn trước rồi nói Nhân sau. Nếu trái lại thì bị lỗi “Đảo ly”. 10 lỗi về Tự Dụ đã giải thích rồi.
PHỤ BÀI HỌC ÔN
Quý vị nên xét kỹ các lượng sau này: Tôn thuộc về lỗi gì? Nhân thuộc về lỗi gì? Và Dụ thuộc về lỗi gì?
Lượng thứ I:
– Tôn: Người ta phài chết
– Nhân: Vì có sinh vậy
– Đồng dụ: Phàm có chết phải có sinh, như chim
– Dị dụ: Phàm không sinh thì không chết, như hư không
Lượng thứ II:
– Tôn: Tiếng nói thường còn
– Nhân: Vì vô hình vậy
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: Như vi trần
Lượng thứ III:
– Tôn: Tiếng nói thường còn
– Nhân : Vì tai nghe vậy
– Đồng dụ: Như hư không
– Dị dụ: Như điện chớp
Lượng thứ IV:
– Tôn: Người ta phải chết
– Nhân: Vì có sinh vậy
– Đồng dụ: Như cỏ cây
– Dị dụ: Như loài vật. Hoặc lập nhiều lượng khác
LỢI ÍCH HỌC NHÂN MINH LUẬN
Trong các Kinh điển Đại thừa, phần nhiều Phật dạy các đệ tử phải biết Ngũ minh (1. Nội minh, 2. Nhân minh, v.v…) thời việc hoá đạo mới được nhiều lợi ích. Trong Ngũ minh, Nhân minh là một.
Nhờ biết Nhân minh nên lời nói ít lỗi, luận lý vững vàng, có thể thuyết phục được các tà thuyết đem về chính đạo.
Nhờ biết Nhân minh, mới học nổi được các bộ luận trong Phật giáo. Vì trong các bộ luận ấy phần nhiều dùng Nhân minh để lập Chính lý và phá các tà thuyết.
Tóm lại, Nhân minh là một môn Luận lý học, vừa lợi ích cho mình và lợi ích cho người.
(Sa môn THÍCH THIỆN HOA
Sửa lại và viết xong mùa thu năm Mậu Tuất (1958)
Chùa Phật Quang - Trà Ôn)
- 4100
Viết bình luận