5. Bài thứ 5: Chương Di Lặc Bồ Tát | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

5. Bài thứ 5: Chương Di Lặc Bồ Tát

Bài thứ 5

CHƯƠNG DI LẶC BỒ TÁT


1. NGÀI DI LẶC BỒ TÁT HỎI PHẬT

Khi đó Ngài Di Lặc Bồ tát ở trong đại chúng đứng dậy, đi quanh bên hữu của Phật ba vòng và chấp tay kính cẩn, đỉnh lễ dưới chân Phật, rồi quỳ thẳng bạch rằng:

- Bạch đức Ðại bi Thế tôn, Ngài đã vì các vị Bồ tát và Ðại chúng, mở kho báu bí mật của Như Lai (Viên Giác cảnh giới) và làm cho Ðại chúng hiện tại cùng chúng sinh đời sau, được con mắt đạo sáng suốt không lo sợ, phân biệt được việc tà chính, hiểu sâu lý luân hồi, đối với cảnh Ðại Niết bàn (Niết bàn Ðại thừa) sinh lòng tin chắc chắn, không còn khởi các vọng chấp, trở lại cảnh giới luân hồi nữa.

Bạch đức Thế Tôn:

1. Các vị Bồ tát và chúng sinh đời sau, làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi, để vào biển Ðại Tịch diệt của Như Lai?

2. Có mấy loại chúng sinh luân hồi?

3. Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?

4. Khi Bồ tát nhập thế độ sinh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sinh?

Cúi xin đức Thế Tôn, rủ lòng đại bi cứu thế, chỉ dạy cho các vị Bồ tát hiện tại và chúng sinh đời sau, khiến cho chúng sinh, gương lòng được sáng tỏ, mắt trí huệ trong xanh, viên ngộ được “Tri kiến vô thượng” của Như Lai.

Ngài Di Lặc Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, và kính cẩn lạy Phật rồi trở lui.

Lược giải:

Vì trong chương Kim Cương Tạng, Phật dạy: “Trước phải đoạn gốc rễ của luân hồi từ vô thủy”, nên chương này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “... Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi? Và có mấy loại chúng sinh luân hồi?”

Ðại ý đoạn này Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi:

1. Làm sao đoạn được gốc rễ luân hồi để vào biển Ðại Niết bàn của Như Lai?

2. Có mấy loại chúng sinh luân hồi?

3. Có mấy hạng người tu đạo Bồ đề của Phật?

4. Khi Bồ tát nhập thế độ sinh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sinh?

Biển Ðại Tịch diệt: Tức là Niết bàn của Ðại thừa, rộng rãi bao la như biển cả, đã thanh tịnh mà yên lặng nên gọi rằng “Tịch diệt”. Ðủ cả bốn đức là: chân thường, chân lạc, chân ngã và chân tịnh. Cũng là một cái tên khác của Viên Giác hay chân tâm.

Ðức Di Lặc Bồ tát: Tiền thân: Trong vô số kiếp về trước, có Phật ra đời hiệu là Ðại Thông Trí Thắng Như Lai, lúc bấy giờ Ngài (đức Di Lặc) và đức Phật Thích Ca (tiền thân) đồng phát tâm Bồ đề. Ðến khi đức Phật Nhật Nguyệt Ðăng Minh ra đời, thì Ngài mới phát tâm xuất gia nhưng tính hay giải đãi, quen theo lối phong lưu đài các, phóng túng, chẳng chịu thúc liễm tu hành, nên thành Phật trễ sau đức Thích Ca, vào tiểu kiếp thứ mười.

Về sau nhờ đức Phật Thích Ca dạy cho pháp tu Duy thức, Ngài quán thấy “Tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức”.

Vì nhận thấy giàu sang phú quý, danh vọng quyền tước... đều như bóng trong gương, như trăng dưới nước, do thức tâm biến hiện, nên Ngài tảo trừ hết vọng tưởng say mê về hư vọng giả cảnh, trừ tính “biến kế sở chấp” trên “y tha”, ngộ được tính “viên thành thật” nên được Phật Thích Ca thọ ký cho Ngài sau sẽ thành Phật ở thế giới Ta bà này.

Thân hiện tại của đức Di Lặc: Cách đây 2.500 năm (544, trước T.L), khi Phật Thích Ca giáng sinh tại Ấn Ðộ, thì Ngài hiện thân vào nhà của Bà la môn tên là Ba Bà Lợi ở về Nam Thiên Trúc, nhằm ngày mùng một tháng giêng âm lịch. Họ của Ngài là A Dật Ða (không ai hơn), tên Di Lặc (Từ Thị). Tên họ này tiêu biểu lòng từ bi, hỷ xả vô biên của Ngài. Từ bao nhiêu kiếp cho đến ngày thành Phật, Ngài cũng vẫn lấy hiệu là Di Lặc.

Kinh Di Lặc thượng sinh có nói: Ngày rằm tháng 2 (tháng 4 ta) sau khi nói kinh này 12 năm, thì Ngài nhập diệt tại chỗ bản sinh, rồi Ngài sinh lên nội viện cõi trời Ðâu suất để chờ khi thế giới này giảm rồi tăng trở lại, trong khoảng kiếp tăng, loài người hưởng thọ tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng sinh xuống cõi này, rồi sau đến ngồi gốc cây Long Hoa tu thành ngôi chính giác. Ngài thành Phật rồi hóa độ chúng sinh vô lượng đến sáu vạn năm mới nhập diệt.

Hóa thân của đức Di Lặc: Kinh chép “Bồ tát dĩ lợi sinh vi bổn hoài”: Bồ tát lấy việc cứu độ làm lợi ích cho chúng sinh làm bổn phận của mình. Ngài hiện ra nhiều thân để lẫn lộn với từng lớp người đặng hóa độ chúng sinh. Trong các hóa thân của Ngài, các Phật tử ở Tàu cùng ở Việt nam hiểu nhiều và thờ nhiều hơn hết là thân Ngài Bố Đại Hòa thượng. Ngài hiện thân làm một vị Hòa thượng tại đất Minh Châu huyện Phụng Hóa bên Tàu. Ngài thường quảy cái đãy bằng vải đi khắp chợ búa xóm làng, ai cho vật chi Ngài đều bỏ hết vào đãy mang đi. Ngài tụ họp các trẻ con lại, rồi phân phát cho chúng bánh kẹo, giảng dạy Phật pháp, trò chuyện rất vui thú, nên Ngài đi đến đâu thì các em tụ họp đông đảo đến đó.

Ngài thường giảng kinh cho người nghèo, làm nhiều điều mầu nhiệm lạ thường. Lúc bấy giờ thiên hạ không ai hiểu đặng Ngài là người như thế nào cả, chỉ cùng nhau kêu là vị Bố Ðại Hòa thượng (ông Hòa thượng mang đãy bằng vải). Ðến đời Lương niên hiệu Trịnh Minh năm thứ ba, tháng ba, Ngài nhóm chúng lại tại chùa Nhạc Lâm, rồi Ngài ngồi ngay thẳng nói bài kệ:

Di Lặc chân Di Lặc

Hóa thân thiên bách ức

Thời thời thị thời nhơn

Thời nhân giai bất thức

(Di Lặc thật là Di Lặc, biến hóa trăm ngàn ức thân, thường hiện trong đời, mà người đời chẳng ai biết). Nói xong kệ rồi, Ngài an nhiên nhập diệt. Kẻ tăng người tục đều cùng nhau đến lễ bái cúng dường và dựng tượng Ngài thờ tại điện ở phía đông chùa Nhạc Lâm bên Tàu.

Vì căn cứ theo ứng thân này, nên trong các chùa ở Tàu hay Việt Nam thường thờ tượng ngài Bố Ðại Hòa thượng với vẻ mặt hiền từ hân hoan, miệng cười vui vẻ, tượng trưng cho đức hoan hỷ. Người béo bụng to, hay cầm cái đãy. chung quanh có sáu em bé đang leo trèo lên mình Ngài, là tượng trưng cho lục tặc (sáu giặc) khi đã bị Ngài hàng phục. Ðây là hóa thân trong trăm ngàn hóa thân của đức Di Lặc Bồ tát.

Tương lai của đức Di Lặc: Hiện nay đức Di Lặc là một vị Bổ xứ Bồ tát đang ở nội viện cung trời Ðâu suất, đợi đến khi thế giới này hết kiếp giảm thứ 9 rổi, đến kiếp tăng thứ 10, trong lúc nhân loại hưởng thọ được trên tám vạn tuổi, lúc bấy giờ Ngài mới giáng sinh xuống cõi này, trong nhà của một vị Bà la môn tên là Tu Phạm Ma, thân mẫu của Ngài tên Phạm Ma Bạt Ðề. Khi sinh ra Ngài có nhiều tướng tốt, đức hạnh vẹn toàn, thông minh quán chúng. Lớn lên Ngài xuất gia tu hành, đến núi Kê Túc để nhận lãnh y bát của Ðức Phật Thích Ca, do ngài Ma Ha Ca Diếp trao lại, rồi sau Ngài đến ngồi dưới gốc cây Long Hoa dùng Kim Cương trí trừ sạch vi tế vô minh, chứng đạo vô thượng Bồ đề.

Ngài thuyết pháp tại giảng đường Hoa Lâm dưới cây Long Hoa. Hội thứ nhất độ được chín mươi sáu ức người thành A La Hán, hội thứ hai độ chín mươi bốn ức người thành A La Hán, hội thứ ba độ chín mươi hai ức người thành A La Hán. Thế nên gọi là “Long Hoa tam bội”. Ngài thuyết pháp đến sáu vạn năm, hóa độ vô số chúng sinh.

2. PHẬT KHEN NGÀI DI LẶC BỒ TÁT

Khi ấy đức Thế Tôn khen ngài Di Lặc Bồ tát và dạy rằng:

- Này Thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sinh đời sau, thưa hỏi Như Lai những nghĩa lý cao siêu huyền diệu, khiến cho các vị Bồ tát đều được con mắt trí huệ thanh khiết và tất cả chúng sinh đời sau đoạn tuyệt được sinh tử luân hồi, tâm ngộ Thật tướng(1) và chứng được Vô sinh nhẫn(2). Các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông chỉ dạy.

Khi ấy ngài Di Lặc Bồ tát và Ðại chúng đều vui mừng kính cẩn, vâng nghe lời Phật khai thị.

Lược giải:

Ðoạn này Phật khen ngài Di Lặc Bồ tát: Nhờ lời ông hỏi, để Phật chỉ giáo, nên khiến các vị Bồ tát hiện tại, mắt trí huệ được sáng tỏ và chúng sinh đời sau cũng nhờ câu hỏi này mà vĩnh viễn ra khỏi luân hồi.

3. PHẬT DẠY: ÁI VÀ DỤC LÀ GỐC RỄ CỦA SINH TỬ LUÂN HỒI

- Này Thiện nam! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến giờ, đều do món “ân ái và tham dục” cho nên mới bị sinh tử luân hồi. Tất cả chúng sinh trong thế giới tóm lại có bốn loài:

1. Loài sinh trứng

2. Loài sinh con

3. Loài sinh chỗ ẩm ướt

4. Loài hóa sinh

Các loại chúng sinh này, đều do “dâm dục” mà tạo thành tính mạng của nó (nhất thế chúng sinh giai dĩ dâm dục nhi chính tính mạng).

Bởi thế, nên các ông phải biết: gốc rễ của sinh tử luân hồi là “Ái” và “Dục” vậy. Vì có “dục” cho nên mới sinh ra ái luyến, do “luyến ái” nên mới sinh tử tử sinh, nối luôn không dứt.

Lược giải:

Ðoạn này Phật chỉ ngay gốc rể của sinh tử luân hồi là “ân ái và tham dục”. Chính như thân mạng của các chúng sinh đây, cũng đều do dâm dục tạo thành.

Bởi thân mạng đã do ái dục sinh, nên thân mạng còn thì ái dục còn, ái dục còn thì thân mạng còn.

Trong kinh Phật danh chép: “Có ái dục thì sinh, ái dục hết thì diệt; cho biết gốc rễ của sinh tử là tham ái (hữu ái tắc sinh, ái tận tắc diệt, cố tri sinh tử, tham ái vi bổn).

Trong kinh Niết bàn cũng nói: “Nhân ái sinh ưu, nâơn ưu sinh bố, nhược ly tham ái, hà ưu hà bố”. Nghĩa là: Vì tham ái nên mới sinh lo, nhân lo mới sinh sợ, nếu nguời lìa được ái dục rồi, thì có lo gì và sợ gì?

Bốn loài:

1. Noãn sinh: loài sinh trứng, như loài chim, cá v.v…

2. Thai sinh: loài sinh con, như loài người và thú v.v...

3. Thấp sinh: loài sinh chỗ ẩm ướt, như lăng quăng, vi trùng v.v...

4. Hóa sinh: như loài nhộng hóa làm bướm, hoặc như loài Địa ngục, Ngạ quỷ và chư Thiên v.v...

***

- Này Thiện nam! Nhân ái luyến nên sinh ra “dục”, do dục nên mới có thân mạng. Bởi thế, nên truy tầm đến cội gốc của nó, thì chúng sinh ái luyến thân mạng tức là ái luyến “Dục”. Ái luyến dục là “nhân”, mà ái luyến thân mạng là “quả”.

Lược giải:

Ngài Tôn Mật nói: “Do cảnh dục trần bên ngoài nó trêu ghẹo, làm cho tâm sinh ái luyến; do tâm ái luyến, cho nên mới sinh ra tham dục. Vì tham dục nên tạo nghiệp, do tạo nghiệp nên mới thọ quả. Khi thọ quả khổ rồi trở lại tạo nghiệp nữa. Vì thế nên sinh tử không cùng”.

4. PHẬT TRẢ LỜI CÂU HỎI: “CÓ MẤY LOẠI CHÚNG SINH LUÂN HỒI?”

- Này Thiện nam! Cảnh hồng trần có lắm điều xuôi ngược, nếu người khi gặp nghịch cảnh, sinh tâm giận ghét, tạo ra các nghiệp dữ, thì đọa vào Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh.

Nếu người biết nhàm cảnh dục, ưa tạo nghiệp lành, chán chê ác nghiệp, thì lại sinh về cõi người và cõi trời Dục giới.

Còn những người nhàm chê cảnh trần lao, ô nhiễm ở cõi Dục, tham ái cảnh Tứ thiền và Bát định của hai cõi trên, như thế cũng còn tư dưỡng gốc tham ái, cho nên sinh về hai cõi hữu vi là “trời Sắc giới” và “Vô sắc giới”.

Các loại chúng sinh trên đây, đều còn trong vòng sinh tử luân hồi, vì còn các tham ái, nên chẳng thành Thánh đạo. Thế nên, chúng sinh nào muốn thoát ly sinh tử luân hồi, thì trước phải đoạn trừ các tham dục và tâm ái luyến.

Lược giải:

Ðoạn trên là ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy loại chúng sinh luân hồi?”. Ðến đoạn này Phật trả lời có ba loại chúng sinh luân hồi:

1. Ác nghiệp: Như Ðịa ngục, Ngạ quỷ và Súc sinh (nghiệp ác bực thượng thì đọa vào Địa ngục, nghiệp ác bậc trung thì đọa làm Ngạ quỷ, nghiệp ác bậc hạ thì đọa làm Súc sinh).

2. Thiện nghiệp: Ðây là nói về hữu lậu thiện. Như: Thiên, Nhân và Thần A Tu La (Nghiệp lành bậc thượng thì sinh lên 6 cõi Trời về Dục giới, nghiệp lành bậc trung thì sinh về cõi Người, nghiệp lành bậc hạ thì sinh làm thần A Tu La).

3. Bất động nghiệp: (Thiền định) Như cõi Trời Tứ Thiền và Tứ Không. Do tu thiền định mà được sinh về bốn cõi Thiền ở Sắc giới (1. Ly, sinh hỷ lạc địa; 2. Ðịnh, sinh hỷ lạc địa; 3. Ly hỷ, diệu lạc địa; 4. Xả niệm, thanh tịnh địa). Và bốn cõi Không, ở cõi Trời Vô sắc (1. Không vô biên xứ thiên; 2. Thức vô biên xứ thiên; 3. Vô sở hữu xứ thiên; 4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên).

Ba loại chúng sinh này (ác nghiệp, thiện nghiệp và bất động nghiệp) tuy có cao thấy, sang hèn khác nhau, nhưng cũng đều còn ái và dục, chẳng qua thô hay tế đó thôi. Ái dục còn tức là phiền não hữu lậu còn; vì phiền não hữu lậu còn, nên phải còn sinh tử luân hồi.

Tóm lại, vì chúng sinh trong ba cõi (Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới) còn ái nhiễm, nên đều còn luân hồi cả.

Kết thúc đoạn này, Phật dạy một câu:

“... Thế nên chúng sinh, muốn ra khỏi sinh tử luân hồi, thì trước hết phải đoạn trừ ân ái và tham dục” (Thị cố chúng sinh, dục thoát sinh tử, miễn chư luân hồi, tiên đoạn tham dục, cập trừ ái khát).

Phật dạy Pháp tu ra khỏi sinh tử luân hồi, vỏn vẹn chỉ có một câu thôi:

“Phải đoạn ân ái và tham dục”

Rất giản dị và rõ ràng vô cùng. Thật là “khuôn vàng thước ngọc”, đáng làm quy củ cho muôn đời! Hành giả chỉ thật hành đúng như lời Phật dạy đây, đó là Tu, Tu là đó rồi.

Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy rằng:

“...Dâm Tâm bất trừ,

Trần bất khả xuất...”

Nghĩa là: Tâm nghĩ ngợi đến việc dâm dục, nếu không dứt trừ, thì cảnh hồng trần này không biết bao giờ ra khỏi.

5. BỒ TÁT HIỆN THÂN, KHÔNG PHẢI DO ÁI DỤC MÀ DO LÒNG ĐẠI BI VÀ NGUYỆN LỰC

- Này Thiện nam! Các vị Bồ tát hóa hiện thân hình ở trong thế gian, không phải vì ái dục nhiễm ô như chúng sinh, mà gốc do lòng Từ bi và đại nguyện cứu thế, nên đã hiện ra thân tham dục để vào sinh tử hóa độ chúng sinh, khiến cho chúng sinh xả bỏ các ái dục.

Lược giải:

Vì sợ có người hiểu lầm: Bồ tát cũng có phụ mẫu, thê tử, v.v... tất nhiên phải có ái dục, nhiễm ô và cũng thật sinh tử như chúng sinh, nên đoạn này Phật giải thích: Bồ tát do lòng từ bi và đại nguyện cứu thế, nên hiện ra thân tham dục, để vào sinh tử, đặng hóa độ chúng sinh, chứ không phải thật có tham dục và sinh tử.

6. PHẬT DẠY: CÓ NĂM CHỦNG TÍNH

- Này Thiện nam! Nếu tất cả chúng sinh đời sau, bỏ được các tham dục, trừ tâm thương ghét, dứt hẳn sinh tử luân hồi, nơi tâm được thanh tịnh, cầu nhập cảnh giới Viên Giác của Như Lai thì sẽ được ngộ nhập.

- Này Thiện nam! Tất cả chúng sinh gốc từ vô minh tham dục, nên sinh ra năm món tính sai khác. Năm món tính này là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu mà phân định.

Thế nào là hai chướng?

1. Lý chướng: làm chướng ngại chính tri kiến

2. Sự chướng: làm tiếp nối các sinh tử. Nếu đối với hai món chướng này má hoàn toàn chưa đoạn thì gọi là chúng sinh.

Lược giải:

Ðoạn trên ngài Di Lặc Bồ tát hỏi: “Có mấy hạng người tu theo đạo Bồ đề của Phật?”. Ðến đoạn này Phật trả lời có năm hạng. Song năm hạng này là căn cứ theo việc đoạn trừ hai chướng có cạn và sâu của hành giả mà phân định.

Lý chướng: Chướng về Lý, cũng tên là “Sở tri chướng”, do chấp Pháp mà sinh. Vì chấp pháp nên làm cho chướng ngại “Chơn như lý tính” không hiện bày; vì thế, nên nói “Lý chương là chướng ngại chính tri kiến của Phật”.

Sự chướng: Chướng về Sự, cũng gọi là “Phiền não chướng”, do chấp Ngã sinh. Do các phiền não nên tạo ra các nghiệp vì tạo nghiệp nên mới thọ luân hồi. Vì thế Phật nói: “Sự chướng làm tiếp nối sinh tử luân hồi”.

Bởi chấp ngã nên khởi ra các phiền não làm chướng ngại Bồ đề. Bởi chấp ngã nên sinh ra Sở tri chướng, làm chướng Niết bàn tịch tịnh của Phật. Vì những người chưa phát tâm tu hành, đối với hai món chướng này chưa đoạn được món nào, cho nên chỉ kêu là “Chúng sinh” mà không liệt vào trong năm chủng tính.

***

- Này Thiện nam! Thế nào là năm chủng tính?

1. Thanh văn chủng tính

2. Duyên giác chủng tính

3. Bồ tát chủng tính

4. Bất định chủng tính

5. Ngoại đạo chủng tính

1. Thanh văn và

2. Duyên giác chủng tính

Nếu chúng sinh nào đoạn tuyệt tham dục, trừ được sự chướng (ngã chấp) nhưng lý chướng (pháp chấp) chưa đoạn, thì chỉ chứng đặng quả Thanh văn và Duyên giác, chớ chưa được an trụ cảnh giới Bồ tát.

Lược giải:

Ðoạn này nói về chủng tính Thanh văn và Duyên giác, chung gọi là “Nhị thừa chủng tính”.

Ðành rằng hai quả vị này đồng bỏ hẳn lòng tham dục, đồng phá được ngã chấp, trừ sự chướng, đồng đoạn được sinh tử và cũng đồng chưa trừ được lý chướng (pháp chấp) nhưng pháp tu của hai bên khác nhau.

- Một bên tu pháp Tứ đế đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Thanh văn chủng tính”.

- Một bên tu pháp Thập nhị nhân duyên đoạn được sự chướng (ngã chấp) thì gọi là “Duyên giác chủng tính”.

Ngài Tôn Mật giải rằng: “Biết được khổ sinh tử, dứt trừ tâm leo chuyền, thì gọi là trừ “Sự chướng”, thật ra chưa có thể trừ được ba món Tế” (ba món Tế, xem trong quyển Ðại thừa Khởi tín luận).

***

3. Bồ tát Chủng tính

- Này Thiện nam! Nếu các chúng sinh đời sau, muốn vào biển Ðại Viên Giác của Như Lai, thì trước phải phát nguyện, siêng năng đoạn trừ hai món chướng. Ðến khi hai món chướng đã nép phục, thì ngộ vào cảnh giới Bồ tát.

Nếu như khi hai món chướng (ngã chấp, pháp chấp) đã hoàn toàn diệt, thì vào được cảnh giới Viên Giác mầu nhiệm của Như Lai, viên mãn quả Bồ đề và Đại Niết bàn.

Lược giải:

Ðoạn này nói về Bồ tát chủng tính. Có chia làm hai thời kỳ:

1. Thời kỳ hai chướng mới nép phục.

2. Thời kỳ đoạn tuyệt hai chướng.

Hành giả từ khi còn địa vị phàm phu, đang bị hai chướng (Phiền não chướng và Sở tri chướng) hoành hành, rồi trải qua giai đoạn giằng co, cho đến lúc hai chướng bị nép phục, như thế mới vừa lên địa vị Bồ tát. Khi lên địa vị Bồ tát, tiếp tục đoạn chướng, đến lúc đoạn tuyệt được Phiền não chướng (ngã chấp) thì đặng Bồ đề (Trí đức), đoạn tuyệt được Sở tri chướng (pháp chấp) thì đặng Đại Niết bàn (Đoạn đức). Hai chướng bị đoạn vĩnh viễn rồi, thì đặng vào quả “Phật”.

Tại sao lập Bồ tát tính mà không lập Như Lai tính? Vì Bồ tát tu hành đến lúc hoàn toàn rốt ráo, thì chứng quả vị Phật, nên không lập thêm Như Lai tính.

***

4. Bất định chủng tính

- Này Thiện nam! Có loại chúng sinh có thể chứng được Viên Giác. Song, nếu chúng gặp Thiện tri thức là Thanh văn hóa độ, thì chúng thành Tiểu thừa; còn gặp Thiện tri thức là Bồ tát hóa độ thì chúng thành Ðại thừa. Nếu gặp Như Lai dạy tu đạo Vô thượng Bồ đề, thì chúng thành Phật thừa.

Lược giải:

Ðoạn này nói về “Bất định chủng tính”. Nghĩa là chúng sinh này căn tính không nhất định Ðại thừa hay Tiểu thừa. Nếu gặp Thiện tri thức thuộc về Ðại thừa giáo hóa, thì chúng thành Ðại thừa; còn gặp Thiện tri thức thuộc về Tiểu thừa giáo hóa thì chúng thành Tiểu thừa.

***

5. Ngoại đạo chủng tính

- Này Thiện nam! Có những chúng sinh đi tầm Thiện tri thức chỉ dạy đường lối tu  hành, nhưng lại gặp ngoại đạo tà sư dạy bảo, nên chúng nó sinh ra tà kiến, hiểu ngộ không chân chính, thế gọi là “Ngoại đạo chủng tính”. Ðây không phải lỗi tại chúng sinh đó, mà lỗi tại tà sư.

Tóm lại, chúng sinh tu Bồ đề, có năm món chủng tính sai khác, như ta vừa kể xong.

Lược giải:

Ðoạn này nói về “Ngoại đạo chủng tính”. Tuy chúng sinh này vẫn có tâm tu  hành, nhưng không gặp “Thiện tri thức” giáo hóa, lại gặp tà sư chỉ dạy, nên thành ngoại đạo.

Vì sự hiểu biết của chúng tà ngụy, không phải chính đạo, nên gọi là “ngoại đạo”. Ngoại đạo chủng tính, ở kinh khác gọi là “Xiển đề chủng tính”, nghĩa là “đoạn giống Phật”. Vì trong bốn chủng tính trên, tuy có Ðại thừa và Tiểu thừa khác nhau, nhưng cũng đều “Chánh ngộ”, duy có Ngoại đạo chủng tính, sinh các tà kiến, đoạn diệt chính kiến, trái ngược với chính nhơn thành Phật cho nên gọi là “chúng Xiển đề” (đoạn giống Phật).

7. BỒ TÁT NHẬP THẾ ĐỘ SINH THỊ HIỆN CÁC HÌNH TƯỚNG VÀ CÁC CẢNH THUẬN, NGHỊCH

- Này Thiện nam! Các vị Bồ tát đều y bổn nguyện độ sinh của mình từ vô thỉ và do lòng Ðại bi thanh tịnh(3) thúc đẩy nên nhập thế độ sinh. Bồ tát dùng phương tiện thị hiện ra nhiều hình tướng, khi thì hiện cảnh thuận, khi thì hiện cảnh nghịch, có lúc lại lân la ở chung với chúng sinh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng sinh (Ðồng sự nhiếp) để tiện bề hóa độ, khiến cho chúng sinh được thành Phật.

Lược giải:

Ðoạn trên Ngài Di Lặc Bồ tát hỏi Phật: “Khi Bồ tát nhập thế độ sinh, phải dùng những phương tiện gì để giáo hóa chúng sinh?”.

Ðại ý đoạn này Phật trả lời: Bồ tát do bản nguyện độ sinh từ vô thủy (Bồ tát dĩ lợi sinh vi bổn hoài), và lòng Ðại bi thanh tịnh thúc giục, nên mới nhập thế độ sinh; không đồng như chúng sinh do ái dục làm nhiễm ô và bị nghiệp lực lôi cuốn mà nhập thế.

Bồ tát dùng phương tiện, thị hiện ra nhiều hình tướng để độ sinh. Như ngài Quan Âm hiện 32 ứng thân, đức Di Lặc Bồ tát hiện thân Bố Đại Hòa thượng, hoặc có vị hiện thân Kim Cang, hiện thân Tiêu Diện, Thập Ðiện Minh vương, Ngưu đầu, Mã diện, v.v... có lúc hiện “Từ”, có lúc hiện “Oai” nên có câu:

“Kim Cương lộ mục sở dĩ hàng phục tứ ma

Bồ tát đê mi do thị ai từ ư lục đạo”

Nghĩa là: Thần Kim Cương trợn mắt là để hàng phục bốn ma. Bồ tát xủ mày là vì thương chúng sinh trong 6 đạo. Bồ tát khi thì hiện cảnh thuận: Giảng dạy Pháp lành khuyên người tu học v.v... có lúc lại hiện cảnh nghịch như: hiện chảo dầu sôi, để độ ông Nan Ðà Tôn giả, hoặc dùng gông xiềng đánh đập v.v... để cho người biết thức tỉnh hồi tâm. Cổ nhân nói: “Người không gặp tai nạn, thì chẳng biết hồi tâm hướng thiện”. (Nhơn vô vạn họa, bất hồi đầu). Hay như ngài Thiện Tài Ðồng Tử đi tham học với Bà Tu Mật Nữ v.v…

Bồ tát có khi thị hiện lân la ở chung cùng với chúng sinh và đồng làm các nghề nghiệp như chúng sinh (như ngài Lục Tổ khi ở chung với bọn thợ săn v.v... để lần hồi dẫn dắt chúng sinh trở về chính đạo).

Tóm lại, các Bồ tát nhập thế độ sinh, đều do tâm Đại bi làm chủ động, lấy Ðại nguyện làm căn bản, dùng phương tiện có nhiều môn, tuy không nhất định, nhưng đại khái không ngoài Thuận và Nghịch. Hoặc dùng lời giảng dạy (khẩu giáo hóa) hoặc hiện thân hóa độ (thân giáo hóa), hoặc dùng đồng sự nhiếp, chung quy một mục đích là khiến cho chúng sinh được giải thoát và thành Phật.

8. CHỈ NGUYỆN THÀNH PHẬT, KHÔNG Ở NHỊ THỪA VÀ CHỚ GẶP NGOẠI ĐẠO

- Này Thiện nam! Nếu chúng sinh đời sau, phát Đại nguyện thanh tịnh của Bồ tát, khởi tâm tăng tấn cầu nhập Viên Giác, thì phải phát nguyện như vầy:

Con nguyện ngày nay, được gặp Thiện tri thức dạy con tu hành để nhập Viên Giác của Phật, chớ gặp tà sư ngoại đạo và Nhị thừa.

Con y theo bản nguyện tu hành, lần hồi dứt trừ các chướng. Khi các chướng hết, nguyện viên mãn, thì con sẽ được vào thành lớn Viên Giác, trang nghiêm tốt đẹp và lên cung điện thanh tịnh giải thoát của Như Lai.

Lược giải:

Đại ý đoạn này Phật dạy các chúng sinh đời sau, muốn cầu Viên Giác, thì phải phát lời thệ nguyện: “Con nguyện chớ gặp tà sư ngoại đạo và Tiểu thừa chỉ lo tu ích kỷ tiêu cực không chịu hoằng pháp lợi sinh. Con nguyện gặp Thiện tri thức Ðại thừa, tu lợi tha tích cực, dạy bảo con tu hành được thành quả Phật”.

Ngài Như Sơn nói: “Lý, tuy đốn ngộ, nhưng về phần sự tướng thì phải lần lần diệt trừ” (Lý tuy đốn ngộ, sự nải tiệm trừ).

Khi các chướng hết rồi, thì đi, đứng, nằm, ngồi trong tất cả thời và tất cả chỗ, đều được giải thoát. Ðó là cung điện giải thoát thanh tịnh và thành Viên Giác trang nghiêm của Như Lai.

9. PHẬT NÓI BÀI KỆ, TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN

Khi đó Ðức Thế Tôn, muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:

Di Lặc! Ông nên biết:

Tất cả các chúng sinh

Ðều do tham dục vậy,

Nên đoạ vào sinh tử,

Chẳng đặng đại giải thoát.

Nếu người đoạn thương ghét,

Cùng với tham, sân, si

Không cần tu gì khác,

Cũng đều được thành Phật.

Cầu nguyện gặp Minh sư,

Khai ngộ được chân chính.

Y theo nguyện Bồ tát,

Trừ tuyệt hai món chướng,

Ðược vào Đại Niết bàn,

Các Bồ tát mười phương,

Ðều bởi lòng Ðại bi,

Phát nguyện vào sinh tử,

Tùy loại độ chúng sinh.

Người tu hành hiện tại

Và chúng sinh đời sau,

Phải đoạn trừ ái hoặc,

Mới đặng vào Viên Giác.

Lược giải:

Bài kệ này Phật gọi ngài Di Lặc Bồ tát mà dạy, đại ý như vầy: Tất cả chúng sinh vì tham dục, nên bị sinh tử luân hồi, không được giải thoát. Nếu người đoạn tuyệt được Tham, Sân, Si v.v... thì được thành quả Phật. Thế nên người tu hành phải cầu Minh sư khai ngộ, rồi y theo hạnh nguyện của Bồ tát mà đoạn trừ hai chướng và cầu chứng quả Niết bàn của Phật.

Các vị Bồ tát ở mười phương đều do lòng Ðại bi thanh tịnh làm chủ động và chí nguyện lợi tha thúc đẩy, nên không nỡ yên ở chỗ thanh tịnh tu giải thoát một mình, thích thú nơi cảnh tịch tịnh lo phần ích kỷ như hàng Tiểu thừa; mà Bồ tát thệ nguyện nhập thế độ sinh, lẫn lộn với trần lao để tùy duyên hóa độ. Không sợ ô nhiễm, chẳng kể gian lao, không từ khó nhọc.

Như ngài Ðịa Tạng Bồ tát nguyện rằng:

“Chúng sinh độ tận phương chứng Bồ đề

Ðịa ngục vị không thệ bất thành Phật”

Tổ A-Nan cũng thệ rằng:

“... Ngũ trược ác thế thệ tiên nhập

Như nhất chúng sinh vị thành Phật

Chung bất ư thử thủ Nê hoàn...”


Chú thích:

(1) Thật tướng:  Tướng chân thật, không hư vọng, không bị thời gian thay đổi, không gian chuyển dời, suốt xưa thấu nay, nó vẫn thường như; cũng một biệt danh của “Viên Giác”.

(2) Vô sinh nhẫn: Chữ “Nhẫn” là an nhẫn, an trụ hay là chứng. Chữ “Vô sinh” là không sinh. Nghĩa là: an trụ chỗ Ngã và Pháp không còn sinh khởi, tức là an trụ “chân tâm”.

(3) Ðại bi thanh tịnh: Bồ tát do lòng từ bi rộng lớn thương xót chúng sinh mà hiện thân hóa đạo, không phải vì danh và lợi v.v… cho nên nói là “Thanh tịnh”.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6407850
Số người trực tuyến: