13. Bài thứ mười ba | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

13. Bài thứ mười ba

Bài Thứ Mười Ba

CHƯƠNG THỨ BA

PHẦN GIẢI THÍCH

B. PHÂN BIỆT HÀNH TƯỚNG PHÁT TÂM ĐẾN ĐẠO

BA MÓN PHÁT TÂM


 

CHÁNH VĂN

Chữ “Đạo”nói ở đây là chỉ cho đạo quả của chư Phật đã chứng ngộ và cũng là cái chỗ của tất cả các vị Bồ Tát phát tâm tu hành để hướng về.

Sự phát tâm, lược có 3 món: 1. Tín hoàn toàn (Tín thành tựu) mà phát tâm, 2. Hiểu và tu (giải, hạnh) mà phát tâm, 3. Chứng nhập chân như mà phát tâm.

Lược giải

Luận này có năm chương, trong chương thứ ba, có ba phần: phần đầu giải thích về pháp Đại thừa; phần thứ hai, Ngài Mã Minh đả thông những chấp sai lầm. Sau khi được rữa sạch các chấp sai lầm rồi, hành giả mới phát tâm tu về pháp Đại thừa. Vì thế nên tiếp đến phần thứ ba, Ngài Mã Minh phân biệt hành tướng phát tâm tu về đạo quả Đại thừa.

Đạo quả Đại thừa là nơi chư Phật đã chứng, mà cũng là chỗ các vị Bồ Tát đang hướng về đó.

Sự phát tâm tu về đạo quả Đại thừa, lược chia có ba hạng, từ cạn đến sâu:

1. Mãn địa vị Thập tín (Tín hoàn toàn) phát tâm;

2. Địa vị Tam hiền (Giải: Hiểu, Hành: tu) phát tâm;

3. Địa vị Thập thánh đã chứng nhập chân như phát tâm.

Chữ “Phát tâm” có hai nghĩa: 1. Lập chí cao rộng, 2. Phát triển tâm tính, hay phát minh tâm tính.

CHÁNH VĂN

I. Tín hoàn toàn (thành tựu) mà phát tâm

Hỏi: Phải là người thế nào và nhờ tu hạnh gì để thành tựu vị Thập tín, mới phát tâm được?

Đáp: Những chúng sinh bất định (không nhất định chánh hay tà), nhờ sức căn lành huân tập đời trước, làm cho họ tin nhân quả, nên nhàm khổ sinh tử, phát tâm tu thập thiện, để cầu đạo vô thượng Bồ Tát.nhờ được đích thân hầu hạ, cúng dường chư Phật và tu hành trải qua muôn kiếp, nên họ mới đặng thành tựu tím tâm. Do nhân duyên đó nên được gặp Phật, Bồ Tát dạy mà họ phát tâm; hoặc vì lòng Đại bi, mà họ tự phát tâm; hoặc vì thấy chánh pháp sắp diệt mà muốn duy trì nên họ tự phát tâm.

Những người như thế, được vào hàng chính định, trọn không thối chuyển. Vì họ đã hiệp với “Chính nhân Phật tính”, nên họ được gọi là “dòng giống của Như Lai”.

Lược giải

Đoạn này nói về Tín thành tựu phát tâm. Từ Sơ tín cho đến Thập tín thì tín tâm mới hoàn toàn viên mãn nên gọi là “Tín thành tựu”. Do tín tâm vững chắc, lập chí nguyện cầu quả Phật vô thượng và phát minh tâm tính, nên gọi là “Tín thành tựu phát tâm”.

Hỏi: Hạng người nào, tu hạnh gì, mới đặng hoàn toàn viên mãn vị Thập tín, và làm sao phát tâm?

Đáp: Những người bất định chính tà, hay căn trí chưa nghiêng ngả bên nào (Đại thừa hay Tiểu thừa) nếu gặp Tiểu thừa giáo hoá thì họ thành Thanh văn, Duyên giác, nếu gặp Đại thừa giáo hoá thì họ thành Bồ Tát hay Phật. Những người ấy, do nhiều đời có trồng căn lành và bên trong nhờ tính Phật của họ thúc giục, bên ngoài nhờ chính pháp huân vào, làm cho họ tin đạo lý nhân quả, rồi nhàm cảnh trần gian là bể khổ sinh tử, nên phát tâm tu hành cầu đạo giải thoát Niết bàn.

Phát tâm tu hành, phụng sự chính pháp, hầu hạ Thiện hữu tri thức và cúng dường chư Phật, làm những việc như thế, trải qua một vạn kiếp, hành giả mới viên mãn địa vị Thập tín.

Khi tín tâm đã viên mãn thành tựu rồi, hoặc găp Phật hay Bồ Tát dạy họ phát tâm hoặc do lòng Đại bi thúc giục làm cho họ phát tâm, hoặc thấy chính pháp suy đồi, muốn duy trì chính pháp nên họ phát tâm.

Những người được viên mãn vị Thập tín và phát tâm như thế, là đã hiệp với “Chính nhân Phật tính” vào hành “Chính định”, không còn bất định hay thối chuyển nữa, nên họ cũng được gọi là “dòng giống của Như Lai”.

CHÁNH VĂN

Có những chúng sinh, từ hồi nào đến giờ, căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy cũng gặp Phật cúng dường, song chỉ cầu phước báo cõi nhân thiên, hoặc tu theo Nhị thừa, hoặc họ có cầu pháp Đại thừa, nhưng căn tính chẳng quyết định, tấn thối không chừng; hoặc họ cúng dường chư Phật, mà chưa đầy một vạn kiếp. Những hạng người này cũng gặp nhân duyên lành để phát tâm (như thấy sắc tướng của chư Phật mà phát tâm, hoặc nhân cúng dường chư tăng mà phát tâm, hoặc nhân gặp hàng Nhị thừa dạy bảo mà họ phát tâm, hoặc học với thầy bạn mà họ phát tâm). Nhưng các loại phát tâm này, đều chẳng nhất định, nếu gặp hoàn cảnh xấu ngược, thì họ thối tâm, hoặc đoạ vào Nhị thừa.

Lược giải

Đoạn trên nói những người tín tâm đã thành tựu, và phát tâm như vậy, thì được vào hàng chánh định, quyết không thối chuyển, vì họ tu đã được một vạn kiếp.

Đoạn này nói, những người phát tâm sau đây, vì tu chưa đầy một vạn kiếp, tín tâm chưa thành tựu, hoặc còn thối chuyển, nên chưa được vào hàng Chính định. Họ cũng gặp duyên lành để phát tâm, hoặc thấy tướng hảo của Phật mà phát tâm, hoặc nhân cúng dường chư Tăng mà phát tâm, hoặc gặp Nhị thừa giáo hoá phát tâm v.v…Nhưng vì căn lành mỏng ít, phiền não sâu dày, tuy gặp phật phát tu hành, song chỉ cầu phước báo thiên nhân, hoặc tu theo Nhị thừa, và nếu gặp Đại thừa thì tâm họ cũng không quyết định, nên khi bị nghịch cảnh, họ thối tâm hoặc tu theo Tiểu thừa tiêu cực.

I. BA MÓN TÂM TRONG VỊ THẬP TÍN

CHÁNH VĂN

Tóm lại, khi tín tâm đã thành tựu thì phát ba món tâm như sau:

1. Trực tâm, nghĩa là tâm trực niệm chân như

2. Thâm tâm, nghĩa là tâm ưa làm các việc lành

3. Đại bi tâm, nghĩa là tâm muốn cứu khổ các chúng sinh.

Lược giải

Hành giả tu hành phải trải qua một vạn kiếp mới được thành tựu tín tâm. Lúc bấy giờ hành giả phát ra vô số tâm, nhưng tóm lại có ba thứ:

1. Trực tâm, quán thẳng Chân như pháp tính

2. Thâm tâm, nguyện làm các việc lành

3. Đại bi tâm, thệ độ tất cả chúng sinh.

Quán chân như là căn bản của hai hạnh: Tự lợi và lợi tha. Vì quán trong bản thể chân như có đủ vô lượng công đức, nên cho hành giả ưa tu các pháp lành, để hiệp với tính chân như của mình. Hành giả tu hành, khi nào thâm nhập đến chỗ không còn thấy tướng tu nữa, gọi đó là “Thâm tâm”.

Vì quán mình và tất cả chúng sinh đồng bản thể chân như, nên chúng sinh đau khổ tức là mình đau khổ, chúng sinh còn trần luân thì mình chưa được giải thoát an vui nơi cảnh Niết bàn. Vì thế mà hành giả phát tâm Đại bi cứu khổ tất cả chúng sinh.

CHÁNH VĂN

Hỏi: Chân như đã là một thể, tại sao không bảo hành giả trực niệm chân như, mà lại còn tạm dùng các phương tiện, tu các pháp lành?

Đáp: Thí như ngọc Ma ni thể chất tuy sáng suốt trong sạch, nhưng còn bị lẫn lộn trong khoáng nhơ bẩn. Nếu người chỉ nghĩ đến tính chất trong suốt của ngọc, mà không dùng các phương tiện giũa mài v.v…thì quyết định không thể đặng chất ngọc Ma ni thuần tịnh.

Cũng thế, chúng sinh tuy sẵn có chất chân như thanh tịnh, song còn bị vô lượng phiền não làm nhiễm ô. Nếu hành giả chỉ niệm chân như, mà không dùng phương tiện tu các pháp lành, thì cũng không thể đặng chất chân như thuần tịnh.

Vì các phiền não nhiễm ô vô lượng, nên hành giả phải tu vô lượng hạnh lành để đối trị. Nếu hành giả tu các pháp lành, thì tự nhiên thuận về với tính chân như của mình.

Lược giải

Đoạn này giải đáp sự thắc mắc của độc giả.

Hỏi: Chúng sinh đã saün có chất chân như thanh tịnh, tại sao người tu hành không niệm thẳng chân như, mà lại còn dùng vô số phương tiện để dẹp trừ phiền não nhiễm ô và tu các pháp lành làm gì?

Đáp: Chúng sinh tuy saün các chất chân như thanh tịnh, song còn bị vô lượng phiền não làm nhiễm ô; cũng như ngọc Ma ni, tuy chất nó sáng suốt trong sạch, nhưng còn bị lẫn lộn trong khoán nhơ bẩn. Nếu hành giả trực chỉ quán chân như, mà không dùng các phương tiện để trừ phiền não và tu các pháp lành, thì chất chân như thuần tịnh không bao giờ thật hiện được. Cũng như người chỉ nghĩ đến chất ngọc trong suốt, mà không dùng đến các phương tiện như lọc khoáng, giũa mài v.v…thì quyết định cũng không bao giờ thành ngọc mỹ quan được (ngọc bất trác, bất thành khí).

Chúng sinh có vô lượng bệnh phiền não, nên Phật cũng có vô lượng thuốc phương tiện để trị. Nếu muốn hết các bệnh phiền não, trở thành người lành mạnh (Bồ Đề, Niết bàn), tất nhiên hành giả phải uống thuốc phương tiện của Phật. Người diệt trừ phiền não tu các pháp lành là đi ngược dòng trần lao, thuận theo tính chân như. Bởi thế nên hành giả phải phát minh ba tâm (Trực tâm, Thâm tâm và Đại bi tâm) và thật hành bốn phương tiện sau này.

II. BỐN MÓN PHƯƠNG TIỆN

CHÁNH VĂN

Các phương tiện lược có bốn món:

1. Phương tiện căn bản: Quán tất cả các pháp, tính vốn vô sinh (không) xa lìa các vọng chấp, và nhờ thế mà không mắc vòng sinh tử; quán các pháp do nhân duyên hoà hiệp, nên nghiệp quả chẳng mất (có) để khởi tâm đại bi, tu các hạnh lành, cảm hoá chúng sinh, và nhờ thế nên không trụ Niết bàn.

Tóm lại, vì tuỳ thuận theo tính vô trụ của chân như, nên không dính mắc sinh tử và không an trụ Niết bàn.

Lược giải

Trong bốn phương tiện tu hành để nhập chân như, thì món phương tiện này là căn bản.

Chúng sinh, vọng chấp các pháp thật có, nên tạo ra các nghiệp; rồi bị nghiệp lực kéo dẫn, phải chịu sinh tử luân hồi. Nay hành giả quán “các pháp hư giả, không thật”, nên không vọng chấp và không tạo nghiệp; vì nghiệp không tạo, nên không bị sinh tử luân hồi.

Song, nếu hành giả chỉ một bề quán “Không” như thế, sợ e mắc vào bệnh “chấp không”, rồi chẳng cần tu hành và hoá độ chúng sinh; như hành Thanh văn chấp không, ưa vắng lặng (trầm không thú tịch) thích thú cảnh vui Niết bàn của Tiểu thừa.

Bởi thế, hành giả phải quán “do nhân duyên hoà hiệp, nên các pháp chẳng phải không và nghiệp quả chẳng mất”, để khởi tâm Đại bi, tu các hạnh lành giáo hoá chúng sinh. Nhờ quán như thế, nên hành giả không còn “chấp không” và say mê cảnh Niết bàn của Tiểu thừa nữa.

Vì không vướng mắc sinh tử, nên về phần tư lợi hành giả được thành tựu. Và vì không vướng mắc Niết bàn của Tiểu thừa, nên hành giả độ thoát tất cả chúng sinh, hoàn thành hạnh lợi tha.

Không mắc sinh tử, không trụ Niết bàn là thuận theo đức tính vô trụ của chân tâm; như thế gọi là “Trực tâm”. Trực tâm là phương tiện căn bản của các hạnh, tự giác và giác tha. Khế kinh chép: “Tâm thắng (không mắc hai bên) là Đạo tàng” (trực tâm thị Đạo tàng).

CHÁNH VĂN

2. Phương tiện ngăn ngừa các việc ác: Biết xấu hổ, ăn năn, chừa lỗi, ngăn ngừa tất cả điều ác không cho phát sinh và tăng trưởng. Hành giả phải làm như thế để tuỳ thuận theo đức tính thanh tịnh của chân như.

Lược giải

Đoạn này nói về phương tiện thứ hai là “không làm việc ác”. Người biết xấu xa hổ thẹn thì không làm các điều tội lỗi; biết ăn năn hối hận những tôi đã làm, thì tội lỗi ấy không tăng trưởng nữa. Bởi thế nên “hổ thẹn” là yếu tố ngăn chận việc ác phát sinh; còn “ăn năn hối hận” là yếu tố làm cho tội lỗi đã sinh, không tăng trưởng nữa.

Đoạn văn trước nói 3 tâm:

1. Trực tâm,

2. Thâm tâm,

3. Đại bi tâm. Đoạn này nói phương tiện thứ hai, thuộc về Thâm tâm, tức là ưa làm các việc lành. Lành có hai thứ: 1. Bỏ dữ (chỉ thiện) gọi là lành; 2. Làm lành (tác thiện) cũng gọi là lành.

Món phương tiện thứ hai này thuộc về loại “lành bỏ dữ”; món phương tiện thứ ba sau này, thuộc về loại “lành làm lành”. Hai loại lành này đều thuộc về Thâm tâm cả.

Tóm lại, vì tuỳ thuận theo đức tính thanh tịnh của Tâm chân như, nên hành giả phải xa lìa các tội lỗi.

CHÁNH VĂN

3. Phương tiện làm cho phát sinh hoặc nuôi lớn căn lành: Siêng năng lễ bái và cúng dường Tam bảo, tuỳ hỉ việc lành, tán thán công đức và thủynh Phật trụ thế chuyển pháp luân. Do tâm kính mến Tam bảo rất thuần hậu, làm cho đức tin được thêm lớn nên hành giả mới dốc chí cầu đạo vô thượng. Lại nhờ sức gia hộ của Tam bảo, nên các nghiệp chướng được tiêu trừ và căn lành không thối chuyển. Vì tuỳ thuận theo đức tính “vô chướng ngại” của chân như, nên hành giả phải xa lìa các si mê chướng ngại.

Lược giải

Phương tiện thứ ba này là “làm các việc lành”, tức là loại “lành tác thiện” (làm lành). Loại lành này cũng nương nơi thâm tâm mà khởi. Hành giả làm cho phát sinh những việc làm chưa sinh, và nuôi lớn những việc làm đang có. Siêng năng tu hành và cúng dường Tam bảo v.v…là trồng căn lành; còn kính mến Tam bảo v.v… là nuôi lớn đức tin. Hành giả lại nhờ thần lực của Tam bảo gia hộ, nên tiêu trừ được các nghiệp chướng và làm cho đức tin được vững chắc.

Lễ bái thì xa lìa được cái bệnh ngã mạn, tán thán thì xa lìa được cái bệnh huỷ báng, tuỳ hỷ thì xa lìa được cái bệnh tật đố v.v…

Tóm lại, vì tuỳ thuận theo đức tính sáng suốt vô ngại của Tâm chân như, nên hành giả phải xa lìa các si mê chướng ngại.

CHÁNH VĂN

4. Phương tiện đại nguyện và bình đẳng: Hành giả vì tùy thuận tính không đoạn tuyệt của chân như và bình đẳng không hai, chẳng phân bỉ thử, rốt ráo vắng lặng, rộng lớn phổ biến của chân như. Nên hành giả phát đại nguyện, cùng tận đời vị lai, hoá độ tất cả chúng sinh, đều được rốt ráo chứng vô dư Niết bàn, không còn sót một chúng sinh nào.

Lược giải

Phương tiện thứ tư là “cứu khổ các chúng sinh”. Món phương tiện này do tâm đại bi phát sinh.

Hành giả tuỳ thuận theo các đức tính: bất tuyệt, rộng lớn, bình đẳng, cứu cánh tịch diệt của Tâm chân như, nên lập lời thệ nguyện rộng lớn, hoá độ hết thảy chúng sinh, đều được cứu cánh Niết bàn, không hạn định thời gian và không bao giờ dừng nghỉ.

Tóm lại, Bồ Tát tuỳ thuận theo các đức tính tốt của tâm chân như mà tu các hạnh lành, dẹp trừ các cấu nhiễm, để trở về Tâm chân như.

III. TÁM TƯỚNG THÀNH ĐẠO

CHÁNH VĂN

Bồ Tát nhờ phát tâm này, nên được thấy Pháp thân một phần nào. Do thấy được Pháp thân nên Bồ Tát tuỳ theo nguyện lực của mình, mà hiện ra tám tướng sau đây, để làm lợi ích cho chúng sinh:

1. Từ cung trời Đâu suất giáng sinh

2. Nhập thai

3. Ở trong thai

4. Sinh ra

5. Xuất gia

6. Thành Đạo

7. Thuyết pháp

8. Nhập Niết bàn

Song các vị Bồ Tát này, chưa chứng Pháp thân, vì còn các nghiệp hữu lậu từ quá khứ vô lượng kiếp đến nay, chưa có thể đoạn trừ được. Vị Bồ Tát do sức đại nguyện tự tại mà thọ sinh; tuy không phải bị nghiệp lực kéo dẫn, song vẫn còn khổ vi tế. Trong Khế kinh, Phật nói: “Có vị Bồ Tát thối tâm bị đọa vào ác thú”. Nói như vậy, là để cho những vị sơ tâm (chưa phải chính thức Bồ Tát) còn giải đãi trên đường tu hành, lo sợ, mà phát tâm dũng mãnh tiến tu, chứ không phải thật thối doạ.

Lại nữa, các vị Bồ Tát này, từ khi phát tâm về sau, mặc dù nghe nói phải trải qua vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp (vô số kiếp), siêng năng tu hành khổ hạnh, mới chứng được Niết bàn; nhưng cũng không nhu nhược và lo sợ đoạ vào Nhị thừa, vì họ đã hiểu chắc và tin rằng: Tất cả các pháp từ hồi nào đến giờ, tính nó vốn là Niết bàn.

Lược giải

Bồ Tát khi đã viên mãn Thập tín, phát ba món tâm trên rồi (Trực tâm, Thâm tâm và Đại bi tâm) thì vào Thập trụ, thấy được Pháp thân thanh tịnh, nên có thể thị hiện tám tướng cao cả, để làm lợi ích cho các chúng sinh, mà tâm không nhu nhược và sợ thối đọa; bởi vì các vị Bồ Tát này đã biết các pháp từ xưa đến nay vốn là Niết bàn.

Các vị Bồ Tát Thập trụ này, vì các nghiệp hữu lậu chưa hết, nên sinh ở đâu, cũng còn khổ vi tế về “phần đoạn sinh tử”. Nhưng sự thọ sinh cùa các Ngài là do đại nguyện để hoá độ chúng sinh, chứ không phải bị nghiệp lực kéo dẫn mà thọ sinh.

Lại nữa, các vị Bồ Tát này không bao giờ đọa vào ác thú, thối thất Bồ Đề. Nhưng trong kinh Bản nghiệp Phật nói: “các vị Bồ Tát từ Thất trụ về trước còn thối đoạ, nếu từ một kiếp đến mười kiếp không gặp Thiện hữu tri thức”. Phật nói như vậy là để khủng bố các vị Sơ tâm Bồ Tát còn giãi đãi trong sự tu hành.

 


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6303396
Số người trực tuyến: