1. Bài thứ nhất | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

1. Bài thứ nhất

Bài Thứ Nhất


NGUYÊN NHÂN TẠO LUẬN NÀY

Trong khoảng 600 năm, sau khi Phật nhập diệt, tại Ấn độ, phần thì phái Tiểu thừa nổi lên tranh chấp, không tin lý Đại thừa, phần thì ngoại đạo lập các tà thuyết phá hoại chính pháp; tình trạng Phật giáo rất đen tối.

Ngài Mã Minh Bồ Tát, trông thấy tình trạng ấy rất đau lòng, nên tạo ra luận này, để xô tà đỡ chánh: trừ những nghi ngờ của Tiểu thừa, phá các tà thuyết của ngoại đạo, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa.

GIẢI THÍCH TÊN LUẬN ĐẠI THỪA KHỞI TÍN

Luận. Luận là luận bàn lẽ tà chánh, quyết đoán điều nghi ngờ và lựa chọn những việc phải quấy.

Đại thừa. Chữ “Đại” là lớn, chữ “Thừa” là cởi. Đọc chữ “Thặng” nghĩa là cái xe. Theo đây phải đọc là “Thặng” mới đúng, song vì theo thói quen nên đọc là “Thừa”.

Đại thừa có 5 nghĩa:

1. Vì đối với Tiểu nên gọi là Đại.

2. Quả Phật rộng lớn, thừa này sẽ đi đến quả Phật, nên gọi là Đại Thừa.

3. Chư Phật là bậc Đại nhân, song chẳng rời thừa này, nên gọi là Đại Thừa.

4. Các Bồ Tát là bậc Đại sĩ, đều y theo thừa này mà tu tập, nên gọi là Đại Thừa.

5. Vì thừa này rất rộng lớn, cứu độ chúng sinh đông nhiều nên gọi là Đại Thừa.

LUẬN NÀY LẤY GÌ LÀM ĐẠI THỪA?

Luận này lấy tâm chúng sinh làm Đại thừa. Bởi tâm chúng sinh: Thể nó lớn, Tướng nó to, Dụng nó đại, bao trùm tất cả các pháp thế gian, và xuất thế gian, nên gọi là Đại Thừa.

Trọng tâm của luận này là nói: Thể, Tướng và Dụng của tâm chúng sinh. Vì tâm này là “Tổng tướng” (Tướng chung) của tất cả thánh phàm, mê ngộ, nhân quả …cho nên trong luận này cũng gọi là “Đại Tổng tướng pháp môn thể”.

Tâm này có nghĩa “vận tải”: Các Đức Phật đều nương tâm này mà chứng Bồ Đề, Niết bàn. Bồ Tát nương tâm này mà rộng tu muôn hạnh: trên cầu quả Phật, dưới hoá độ chúng sinh. Chúng sinh cũng do tâm này mà trôi lặn trong dòng sinh tử luân hồi. Vì thế nên gọi tâm này là Đại thừa.

Do ngộ lý này, nên cổ nhân có làm bài kệ:

Dịch âm:

Tam điểm như tinh tượng

Hoành câu tợ nguyệt tà

Phi mao tùng thử đắc

Tổ Phật giả do tha.


Dịch nghĩa:

Ba chấm như ngôi sao

Uốn cong tợ trăng tà

Chúng sinh từ đâu có

Chư Phật cũng do đây.

Khởi tín: Luận này làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa, nên gọi là “Đại thừa khởi tín”. Đáng lẽ phải nói: “Khởi Đại thừa tín”; nghĩa là khởi lòng tin Đại thừa; song vì chúng sinh sau khi thấu rõ Đại thừa rồi, mới phát khởi lòng khởi tin, nên gọi “Đại thừa khởi tín”.

NỘI DUNG CỦA LUẬN NÀY

Ngài Mã Minh Bồ Tát căn cứ theo kinh Lăng Già, kinh Tư Ích và các kinh Đại thừa mà tạo ra luận này. Nội dung của luận này là Phát minh lý Duy tâm hay Duy thức đem về nhất tâm, vạch rõ nguồn gốc mê ngộ, chỉ bày đường tắt tu hành, tóm các nghĩa lý sâu rộng của Phật nói, làm cho người phát khởi lòng tin Đại thừa.

NGÀI MÃ MINH BỔ TÁT

LÝ LỊCH VÀ TÊN

Ngài Mã Minh Bồ Tát, người xứ Ba la nại, phía tây Thiên Trúc (Ấn Độ). Ngài là Tổ thứ 12 ở Thiên Trúc, nối ngôi của Tổ thứ 11 là Phú Na Dạ Xa Tôn giả.

Vì có 3 nguyên nhân, nên gọi Ngài là Mã Minh:

1. Khi Ngài vừa sinh ra, thì các con ngựa trong xứ ấy đều buồn mà kêu to lên.

2. Ngài đàn rất hay, mỗi khi Ngài đàn thì những con ngựa được nghe tiếng đàn đều buồn mà kêu lên.

3. Khi thuyết pháp, các con ngựa nghe đến tiếng Ngài, đều rơi nước mắt kêu to lên và không ăn. Mặt dù người ta thử bỏ đói chúng vài ba ngày, rồi đến lúc Ngài thuyết pháp mới bỏ cỏ cho ăn, nhưng chúng cũng không ăn. Bởi thế nên gọi là Mã Minh (ngựa kêu).

NGUYÊN NHÂN NGÀI NGỘ ĐẠO

Khi gặp Tổ Phú Na Dạ Xa Tôn giả,

Ngài hỏi: Làm sao biết Phật?

Tổ đáp: Không biết là biết Phật.

Ngài hỏi: Không biết làm sao biết là Phật?

Tổ đáp: Không biết làm sao biết không phải là Phật.

Ngài nói: Nghĩa của Tổ là nghĩa cưa.

Tổ nói: Nghĩa của ông là nghĩa cây.

Tổ hỏi tiếp: Thế nào, ông nói nghĩa của tôi là nghĩa cưa?

Ngài đáp: Vì Tổ nói qua nói lại như cưa vậy.

Ngài hỏi tiếp: Thế nào Tổ nói nghĩa của tôi là nghĩa cây.

Tổ đáp: Vì cây bị cưa vậy. Thế nghĩa của ông bị tôi phá rồi. Ngài nghe rồi liền ngộ đạo.

Trong kinh Ma ha ma da, Phật có huyền ký (ghi trước) rằng: “Sau khi Như Lai diệt độ 600 năm, các ngoại đạo tà thuyết thạnh hành, huỷ diệt Phật pháp. Lúc bấy giờ có vị Bồ Tát ra đời tên là Mã Minh, nói pháp rất hay, phá trừ tà thuyết, hàng phục ngoại đạo”.

Bởi thế nên biết Ngài Mã Minh, cũng là một vị Bồ Tát tái lai. Chúng ta nên học luận này, phải lấy làm hy hữu, gia tâm nghiên cứu, chớ nên xem thường.

NGÀI CHÂN ĐẾ

Luận này có hai nhà dịch: Ngài Chân dế và Ngài Thật xoa Nan đà. Bản dịch này là của Ngài Chân đế. Nguyên tiếng Phạn gọi là “Ba La Mạc Đà”; Tàu dịch là “Chân đế”. Ngài ở nước Ưu thiền ni, phía Tây Ấn Độ.

Ngài qua Tàu nhằm đời vua Nguyên Đế nhà Lương, niên hiệu Thừa Thánh, năm thứ ba (Mậu thìn). Ngài ở chùa Kiến Hưng, đất Hoàng Châu, dịch bộ Luận này.

***

LỜI CẦU NGUYỆN

CHÁNH VĂN

Kính lạy Phật, Pháp và Tăng, vì muốn cho chúng sinh bỏ chấp tà, trừ các nghi ngờ, khởi lòng tin Đại thừa, để cho giống Phật chẳng mất, nên con tạo ra luận Đại thừa Khởi tín này.

Lược giải

Các vị Bồ Tát khi làm việc gì, trước nhất là để tâm quy kính Tam bảo; cũng như con hướng về cha, trò hướng về thầy, dân chúng hướng về vị lĩnh tụ của nước; và nguyện cầu Tam bảo gia hộ cho việc làm của mình hợp với chánh pháp và kết quả viên mãn.

Đoạn này là Ngài Mã Minh Bồ Tát trước khi tạo luận, nói bài kệ quy kính Tam bảo và nguyện cầu Tam bảo gia hộ.

***

CHƯƠNG THỨ NHẤT

PHẦN NHÂN DUYÊN


CHÁNH VĂN

Vì tám nhân duyên sau đây nên tạo ra luận này:

1. Vì muốn cho chúng sinh xa lìa các khổ, đặng vui rốt ráo nên tạo luận này, không phải vì danh lợi ở thế gian, hay cầu người cung kính.

2. Vì muốn cho chúng sinh hiểu biết chân chánh, khỏi sự lầm lạc, nên tạo luận này để giải thích nghĩa căn bản của Như Lai.

3. Muốn cho những chúng sinh căn lành đã thuần thục (mãn Thập tín), lòng tin chẳng thối lui và có thể lĩnh thọ pháp Đại thừa, nên tạo luận này.

4. Muốn cho những chúng sinh căn lành mỏng ít (chưa mãn Thập tín) tu tập tín tâm.

5. Vì bảo hộ đạo tâm của những chúng sinh ác nghiệp sâu dày, nên chỉ bày phương tiện, để chúng tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa các phiền não si, mạn …và ra khỏi lưới tà.

6. Vì muốn đối trị tâm niệm sai lầm của phàm phu và Nhị thừa, nên chỉ bày cho họ tu tập Chỉ Quán.

7. Vì những chúng sinh căn tính kém cỏi, nên chỉ bày phương tiện chuyên tâm niệm Phật, sinh về cõi Phật, để cho tín tâm quyết định không thối chuyển.

8. Chỉ bày lợi ích để khuyên người tu hành.

Tóm lại, vì tám nhân duyên trên, nên tạo ra luận này.

Lược giải

Luận này chia ra làm 5 phần, đây là phần thứ nhất, Ngài Mã Minh Bồ Tát vì tám nhân duyên sau đây nên tạo ra luận này:

Nhân duyên thứ nhất: Chư Phật và Bồ Tát khi làm việc gì, đều do lòng từ bi, muốn cho chúng sinh khỏi khổ được vui. Tất cả chúng sinh vì mê bản tâm của mình mà thọ các khổ sinh tử, không được vui Niết bàn. Trong luận này, Ngài Mã Minh Bồ Tát chỉ rõ bản tâm, để cho chúng sinh tự tin mình có bản tâm thanh tịnh (pháp Đại thừa) là cái khả năng để thành Phật. Khi chúng sinh đã ngộ được bản tâm của mình rồi, thì sẽ hết khổ sinh tử, được vui Niết bàn. Vì thế nên tạo ra luận này.

Nhân duyên thứ hai: Các đức Như Lai đều y nơi “nhất tâm” tu hành mà được thành đạo chứng quả. Luận này nói về “nhất tâm” là nghĩa căn bản của Như Lai, để cho chúng sinh hiểu biết đường lối tu hành một cách chân chánh, khỏi bị lạc vào tà kiến (chấp tà).

Nhân duyên thứ ba: Luận chủ muốn cho hàng Thập tín Bồ Tát đối với pháp Đại thừa, lòng tin chắc chắn, không bị thối lui, để tiến đến bậc Thập trụ.

Nhân duyên thứ tư: Vì những vị Bồ Tát chưa viên mãn Thập tín, muốn cho họ tu tập tín tâm được viên mãn.

Nhân duyên thứ năm: Vì những chúng sinh nghiệp chướng nặng nề, bị lưới tà làm chướng ngại, nên tạo ra luận này để chỉ bày phương tiện tu hành, như tụng kinh, sám hối …hầu diệt trừ các nghiệp chướng.

Nhân duyên thứ sáu: Vì đối trị tâm lầm lỗi của phàm phu và Nhị thừa, nên Luận chủ tạo luận này, dạy tu “Chỉ” để trừ bệnh “Vọng tưởng tán loạn” của phàm phu; và dạy tu “Quán” để đối trị bệnh “Trầm không thú tịch” (tham luyến cảnh thiên không Niết bàn) của Nhị thừa.

(Quán nhân duyên sinh, thấy các pháp chẳng không: Thánh, Phàm đủ cả. Bởi có phàm phu nên phải tu đức đại bi để cứu đời; vì có Thánh, nên phải phát trí huệ, để cầu quả Phật).

Nhân duyên thứ bảy: Vì những người lo sợ đời này tu hành nếu không chứng quả, thì trở lại đời sau bị nghịch duyên làm thối chuyển đạo tâm, hoặc không nhớ lại kiếp trước để tu hành, nên tạo luận này dạy phương tiện niệm Phật, để họ cầu sinh về cõi Phật, thường được nghe Phật thuyết pháp và Bồ Tát khuyên tu, làm cho hành giả tín tâm chẳng thối chuyển.

Nhân duyên thứ tám: Vì những chúng sinh giải đãi, nên Luận chủ nói sự lợi ích tu hành, để khuyên người tiến tu.

CHÁNH VĂN

Hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh đã nói nhiều, cần gì phải lập trở lại?

Đáp: Khi Phật còn trụ thế, vì ba nghiệp của Ngài đều thù thắng, nên một tiếng của Phật nói ra (nhất âm diễn xướng) tuỳ theo căn cơ của mỗi loài đều được hiểu cả, không cần phải tạo luận. Song sau khi Phật diệt độ, các chúng sinh trình độ không đồng đều, nhân duyên lĩnh thọ giáo pháp cũng như sự lĩnh hội của mỗi người có khác nhau: có chúng sinh chỉ tự lực học hỏi rất nhiều kinh điển mới hiểu ngộ; có chúng sinh cũng dùng tự lực học ít mà hiểu ngộ nhiều; có chúng sinh không thể tự lực mà phải nhờ xem các bộ đại luận, mới hiểu ngộ; có chúng sinh vì thấy các bộ đại luận rất phiền phức, nên muốn tóm lại văn ít mà thâu nhiều nghĩa. Vì thế nên Luận chủ tạo ra luận này, để tóm tắt giáo pháp quảng đại thậm thâm và nghĩa lý vô biên của Đức Như Lai.

Lược giải

Đoạn này, Luận chủ lập lời vấn đáp, để giải đáp nghi vấn của độc giả.

Đại ý lời hỏi: Pháp Đại thừa, trong các kinh luận đã nói nhiều, nay cần gì phải tạo luận nói lập trở lại?

Đại ý lời đáp: Khi Phật còn tại thế do phước huệ song toàn, ba nghiệp (thân, khẩu, ý) thù thắng; và trình độ của chúng sinh thụ giáo cũng được ưu hạng, nên một lời của Phật nói ra (viên âm), tất cả các loài tuỳ theo trình độ của mình, đều hiểu được cả. Bởi thế nên không cần phải tạo luận. Song sau khi Phật nhập diệt, người thay thế Phật truyền giáo không được như Ngài, phần thì chúng sinh trình độ không đồng, nhân duyên ngộ đạo của mỗi người có khác: Có người nhờ xem kinh mà ngộ đạo, có người nhờ xem luận mà ngộ đạo, có người ưa nghiên cứu những bộ đại luận, có người chỉ muốn học những quyển luận, văn ít mà bao hàm rất nhiều ý nghĩa. Vì muốn tóm tắt các nghĩa lý sâu rộng vô biên của Phật, nên Ngài Mã Minh Bồ Tát tạo ra luận này.

***

CHƯƠNG THỨ HAI

PHẦN ĐỊNH DANH NGHĨA


CHÁNH VĂN

Chương này có hai phần:

A. PHÁP ĐẠI THỪA (Thể Đại thừa) tức là tâm chúng sinh. Tâm này tóm thâu hết thảy các pháp thế gian, xuất thế gian và nói lên được nghĩa Đại thừa.

Tại sao vậy? Vì tâm này có hai tướng:

1. Tướng Chân như tức là cái Thể của Đại thừa.

2. Tướng nhân duyên sinh diệt tức là Thể, Tướng, Dụng của Đại thừa.

B. NGHĨA ĐẠI THỪA: “Đại” là lớn, lớn cà 3 phương diện:

1. Thể lớn: Chân như bình đẳng, bất tăng bất giảm. Bản thể của tất cả pháp.

2. Tướng lớn: Như Lai tạng chứa đầy vô lượng tính công đức.

3. Dụng lớn: Vì nó sinh tất cả nhân quả lành của thế gian và xuất thế gian.

“Thừa” là chiếc xe, tất cả chư Phật đều đi xe này (pháp Đại thừa); tất cả các vị Bồ Tát cũng đều đi xe này mà đến chỗ Phật.

Lược giải

Đoạn này nói về phần lập nghĩa, tức là xác định cái danh nghĩa Đại thừa. Phần lập nghĩa này chia làm hai: Pháp Đại thừa và Ngĩa Đại thừa.

I. Pháp đại thừa: là tâm chúng sinh.

Tâm này có hai tướng:

1. Tướng Chân như tức là chỉ riêng về phần thể tính chân tâm thanh tịnh; dụ như “tính trong sạch” của nước.

2. Tướng nhơ duyên sinh diệt tức là chỉ chung cho Thể, Tướng và Dụng của chân vọng hòa hợp; dụ như tính “trong sạch” và “tướng nhơ đục” lẫn lộn của nước.

II. Nghĩa đại thừa: Đại thừa nghĩa là gì?

“Đại” là lớn; “Thừa” (thặng) là chiếc xe: chiếc xe lớn.

Tâm chúng sinh, Thể, Tướng và Dụng đền lớn. Thể thì bao trùm tất cả pháp, Tướng thì chứa đựng hằng sa công đức, còn Dụng thì xuất sinh tất cả pháp thế gian và xuất thế gian.

Khế kinh chép: “Vô bất tùng thử pháp giới lưu, mạc bất hoàn qui thử pháp giới, (không có một pháp nào chẳng từ tâm này mà lưu xuất, và cũng không có một pháp nào chẳng trở về tâm này).

Tâm này bao trùm tất cả các pháp thế gian và xuất thế gian. Các Đức Phật đều nương tâm này mà được thành đạo. Các vị Bôtát cũng nương tam này để đến chỗ Phật. Chúng sinh cũng do tâm này mà luân hồi trong 6 đường. Tâm này cũng như chiếc xe lớn chở tất cả người và vật. Bởi thế nên gọi tâm này là pháp Đại thừa.

Tại sao không nói: “Tâm phật” là pháp Đại thừa mà chỉ nói “Tâm chúng sinh”, là pháp đại thừa? Vì có hai lý:

1. Nếu nói “Tâm Phật” thì chỉ tóm thâu được pháp thanh tịnh vô lậu mà thôi; còn nói “Tâm chúng sinh”, lại tóm thâu được cả pháp hữu lậu, vô lậu, thế gian và xuất thế gian.

2. Nói Tâm chúng sinh là đứng về phần “nhân” mà nói; vì chưa phải nhiễm hay tịnh, nên mới có thể tuỳ nhiễm duyên khởi ra nhi6ẽm pháp, tuỳ tịnh duyên khởi ra tịnh pháp.

GIẢI DANH TỪ

Tướng chân như: Chữ “Chân” là chân thật không hư dối; chữ “Như” là bình đẳng như như, không sinh diệt, nghĩa là tướng chân thật bình đẳng như như không sinh diệt; tức là “Thật tướng” hay “Chân tâm” hay “Viên giác” đây ;à cái “Thể của Đại thừa”. Đoạn này gọi “Tướng chân như” tức là ở đoạn văn sau gọi “Môn chân như”.

Tướng nhân duyên sinh diệt: Vì nhân duyên sinh diệt, nên đủ cà các tướng: nhiễm, tịnh, thánh, phàm v.v…Đoạn này gọi “Tướng nhân duyên sinh diệt” tức là ở đoạn văn sau gọi “Môn sinh diệt”.

Như Lai tạng, có 3 nghĩa:

1. Tính Như Lai (tính Phật) bị các phiền não phú tàng (che đậy), tức là chỉ cho chân như còn bị triền phược; như vàng còn ở trong khoáng.

2. Tính Như Lai bao trùm tất cả pháp (nghĩa năng tàng)

3. Tính Như Lai là chỗ xuất sinh ra vô lương công đức (nghĩa sở tàng).

Tính công đức: Công đức sẵn có trong Như Lai tàng. Công đức này không phải do tu tập mà được; song phải nhờ sự tu tập làm trợ duyên nó mới hiện. Chúng sinh vì thiếu sự tu tập làm trợ duyên, nên tính công đức này không phát hiện.

Nhân quả lành: Tại sao luận này chỉ nói “nhân quả lành” mà không nói đến “nhân quả ác”?

Vì có ba nghĩa:

1. Nhân quả ác là thứ nhiễm ô hư vọng; vì tâm này chỉ bao trùm vô lượng hằng sa công đức, nên không hiệp với thứ nhiễm ô hư vọng. Dụ như nước có cả chất trong và đục; song “chất đục” không hợp với tính nước, mà “chất trong” mới hiệp với nước; vì khi lóng bỏ bùn rối thì chỉ còn chất nứơc trong. Cũng thế, pháp nhiễm ô không hiệp với tâm này, mà duy có nhân quả lành mới hiệp với tâm này.

2. Ngài Mã Minh chỉ nói về “Nhân quả lành”, là vì để chúng sinh thấy tâm mình sinh ra các nhân quả lành, nên sinh tâm hâm mộ sự tu hành, mong cầu quả Phật.

3. Ngài Mã Minh Bồ Tát đã lên Thánh vị, nên trong A lại da thức của Ngài chỉ toàn nhân quả lành. Vì Ngài chỉ thấy thuần thiện, nên Ngài chỉ nói “nhân quả lành” mà không nói đến “nhân quả ác”.

Nhân quả lành thế gian: Nhân quả thuộc về hữu lậu thiện, còn quanh quẩn trong ba cõi thế gian là Dục giới, Sắc giới và Vô sắc giới.

Nhân quả lành xuất thế gian: Nhân quả thuộc về vô lậu thanh tịnh, ra ngoài tam giới.


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6327952
Số người trực tuyến: