3. Bài thứ 3: Chương Phổ Nhãn
23/06/2016 - 13:56
Lượt xem: 289
Bài thứ 3
CHƯƠNG PHỔ NHÃN
CHƯƠNG PHỔ NHÃN
1. NGÀI PHỔ NHÃN HỎI PHẬT
Khi ấy ngài Phổ Nhãn Bồ tát, ở trong đại chúng đứng dậy đi quanh bên hữu của Phật ba vòng, rồi chắp tay đỉnh lễ và quỳ thẳng bạch rằng:
- Bạch đức Đại bi Thế Tôn, xin Ngài vì các vị Bồ tát ở trong hội này và tất cả chúng sinh đời sau, giảng dạy thứ lớp tu hành của Bồ tát.
Bạch Thế Tôn, như chúng sinh kia, khi nghe Phật nói Pháp “ly huyễn tam muội” này, tâm sinh mê muội, vì không biết làm sao để hạ thủ công phu. Vậy, nếu không có phương tiện chân chính và suy nghĩ chân chính, thì không thể ngộ nhập được Viên Giác.
Xin Ngài mở lòng từ bi, vì những người chưa ngộ như chúng con hiện tại và các chúng sinh đời sau, tạm lập ra các phương tiện: Phải tu hành thế nào? Phải suy nghĩ (tư duy) làm sao? Phải an trụ và giữ gìn (trụ trì) thế nào mới được ngộ nhập Viên Giác?
Ngài Phổ Nhãn Bồ tát thưa thỉnh như vậy ba lần, kính cẩn lễ Phật rồi trở lui.
Lược giải:
Ðoạn trước ngài Phổ Hiền Bồ tát hỏi Phật, ý hỏi rất u thâm. Phật xứng theo lý Viên đốn mà trả lời rằng: “Giác ngộ, không có từng tự; biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện”.
Ngài Phổ Nhãn Bồ tát, vì thấy Phật nói Pháp môn “Viên đốn” như thế, nghĩ rằng: duy có những người trình độ cao thượng mới có thể làm được; trái lại những kẻ căn cơ thấp kém, nếu không có tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành thì làm sao ngộ nhập được. Vì vậy, nên qua chương này, Ngài Phổ Nhãn Bồ tát cầu Phật tạm lập phương tiện và chỉ dạy thứ lớp tu hành, để cho chúng sinh có thể hạ thủ công phu, nhập được Viên Giác.
Tóm lại các câu hỏi của Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật, gồm trong hai phần:
1. Hỏi về “Tư Tuệ” tức là câu hỏi “Phải suy nghĩ thế nào cho chân chính?”
2. Hỏi về “Tu Tuệ” tức là câu hỏi “Phải an trụ và giữ gìn thế nào? Tạm lập phương tiện tu hành và thứ lớp tu làm sao, mới ngộ nhập được Viên Giác”?
2. PHẬT KHEN NGÀI PHỔ NHÃN
Khi đó đức Thế Tôn khen ngài Phổ Nhãn Bồ tát và dạy rằng:
- Này Thiện nam, quý lắm! Ông vì các vị Bồ tát hiện tại và chúng sinh đời sau, cầu thỉnh Như Lai tạm lập phương tiện tu hành và chỉ dạy thứ lớp tu làm sao, phải suy nghĩ làm sao cho chân chính (tư Tuệ), phải an trụ và giữ gìn thế nào (tu Tuệ). Vậy các ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông khai thị.
Khi đó ngài Phổ Nhãn Bồ tát và đại chúng đều hoan hỷ, kính cẩn và chăm chú nghe lời Phật chỉ giáo.
Lược giải:
Ðoạn này Phật khen ngài Phổ Nhãn vì đại chúng cầu Phật tạm lập phương tiện tu hành để nhập Viên Giác. Trong câu hỏi gồm có hai phần:
1. Hỏi về Tư tuệ,
2. Hỏi về tu tuệ.
3. PHẬT DẠY PHƯƠNG PHÁP TU
- Này Thiện nam, những hàng sơ học Bồ tát và các chúng sinh đời sau, muốn ngộ nhập tâm Viên Giác thanh tịnh của Như Lai, thì cần phải chính niệm (1), và xa lìa các vọng huyễn. Vậy trước hết phải:
1. Y theo pháp “chỉ” của Như Lai (Ðại thừa định).
2. Giữ gìn giới cấm kiên cố.
3. Sắp xếp đồ chúng cho yên ổn (sắp xếp hoàn cảnh xung quanh cho thuận tiện).
4. Ở chỗ thanh vắng.
5. Phải suy nghĩ như sau.
Lược giải:
Tổ sư đã dạy: “Thật tế lý địa bất thọ nhất trần, Phật sự môn trung bất xả nhất pháp”. Nghĩa là: Về chỗ lý tính tuyệt đối thì không thọ một mảy may gì; nhưng về sự tướng tu hành thì không bỏ một việc lành nào cả.
Ðành rằng, về cảnh giới Viên Giác, chúng ta nói không trúng, suy nghĩ cũng chẳng nhằm; “giác ngộ” không có tiệm thứ, “rời huyễn” chẳng cần phương tiện; nhưng khi hạ thủ công phu (bắt tay vào việc tu hành) thì không thể bỏ qua các sự tướng tu trì.
Ðại ý đoạn này Phật dạy khi hạ thủ công phu, trước phải dùng: 1. Giới, 2. Ðịnh (chỉ), 3. Tuệ (tức là câu “thường suy nghĩ như vầy” ở đoạn sau), 4. Sắp xếp các ngoại duyên cho được yên ổn.
Trong chương Phổ Hiền, Phật dạy: “Biết huyễn là lìa được huyễn, không cần phương tiện chẳng có tiệm thứ”. Ðồng với trong kinh Lăng Nghiêm Phật dạy: “bất tùy phân biệt” (không theo trần cảnh khởi vọng niệm phân biệt).
Ðoạn kinh này, Phật dạy phải dùng: “Giới, Ðịnh, Tuệ, và sắp xếp các ngoại duyên cho được thuận tiện”. Cũng như trong Ðại cương Lăng Nghiêm về bài thứ 12, Phật dạy tu “Giới, Ðịnh, Tuệ” và “ba món tiệm thứ”.
4. PHẬT DẠY QUÁN THÂN NÀY NHƯ HUYỄN
- Phải thường nhớ nghĩ như vầy: Cái thân của ta nay đây, là do bốn chất: đất, nước, gió, lửa hòa hiệp. Như da, thịt, gân, xương, răng, tóc, móng tay, tủy, não, v.v… là thuộc về chất đất; nước mắt, nước mũi, mồ hôi, mỡ, máu, mủ đờm, dãi, tiểu tiện, v.v…là thuộc về nước; nhiệt độ trong người là thuộc về lửa; phổi hô hấp, tim đập, mạch nhảy, các chuyển động trong người là thuộc về gió.
Ðến khi bốn chất này rã rời, không còn hòa hợp nữa, thì cái thân hư dối này (cái ta) ở chỗ nào?
Lược giải:
Người đời, ai cũng chấp thân này là ta, rồi thương yêu quý trọng nó, cho nên suốt đời lao tâm nhọc trí, vật lộn với vật chất một cách vất vả, cũng vì lo cho ta ăn, mặc và ở v.v… Lo cho ta rồi lo cho bà con quyến thuộc của ta, lo cả cho đồng bào chủng loại của ta.
Nếu ta được là người mất, đồng bào ta được thì đồng bào người phải bị mất. Vì vậy mà thế giới chiến tranh, nhân loại tương tàn tương sát. Chúng sinh tạo không biết bao nhiêu điều tội lỗi, rồi vĩnh kiếp luân hồi.
Bởi thế nên đoạn này Phật dạy, khi hạ thủ công phu là quán thân như huyễn (vô ngã). Khi đã thấy xác thật thân này là hư huyễn rồi, thì không còn tham lam luyến ái, vì nó mà tạo ra các tội lỗi, để rồi thọ quả báo sinh tử luân hồi.
Muốn cho độc giả thưởng thức được lý thú ở đoạn này, nên tôi dẫn một đoạn trong bài thơ “Nguyện cầu” của một thi sĩ sau đây:
Ta còn để lại gì không?
Kìa non nước chảy, nọ sông cát bồi!
Lang thang từ độ luân hồi,
U minh nẻo trước, xa khơi dặm về.
Trông ra bến thảm bờ mê,
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương.
Ta van cát bụi trên đường,
Dù nhơ dù sạch, đừng vương gót này.
5. PHẬT DẠY QUÁN TÂM NHƯ HUYỄN
- Này Thiện nam! Ông đã biết thân này rốt ráo không thật có, chẳng qua do các duyên hòa hiệp làm ra thân tướng giả tạm, đồng với loại huyễn hóa.
Do bốn duyên là đất, nước, gió, lửa hoà hợp, nên vọng có sáu căn là mắt, tai , mũi, lưỡi, thân và ý. Nhân bốn duyên và sáu căn, trong ngoài hợp lại thành cái thân giả tạm, rồi vọng khởi ra các vọng tưởng phân biệt. Các vọng tưởng phân biệt tích tụ trong thân này in như có cái hình tướng “năng duyên”, duyên theo bóng dáng của trần cảnh, nên giả gọi đó là “Tâm”.
- Này Thiện nam! Cái tâm hư vọng phân biệt này, nếu không có trần cảnh thì không còn phân biệt được cái gì cả. Lại nữa, khi bốn duyên (tứ đại) rã rời rồi, thì thân giả tạm này cũng không còn. Lúc bấy giờ, cái vọng niệm phân biệt bị tích tụ trong thân thường duyên theo bóng dáng của sáu trần đó, cũng bị phân tán. Rốt cuộc rồi không còn thấy có cái gì mà gọi là “Tâm” cả.
Lược giải:
Về chương Văn Thù, Phổ Hiền, Phật dạy quán “Cảnh như huyễn”, đến chương Phổ Nhãn này, trước Phật dạy quán “Thân như huyễn” rồi sau quán “Tâm như huyễn” là vì lối tu hành phải bắt đầu từ dễ đến khó, từ cạn đến sâu. Trước quán “Cảnh như huyễn” tuy khó, nhưng chưa khó lắm, đến quán “Thân như huyễn” mới là khó hơn. Ði sâu vào một tầng nữa là quán “Tâm như huyễn” lại càng khó hơn nữa.
Ðại ý đoạn này, Phật dạy quán “Tâm như huyễn”, không có thật thể. Người đời thường chấp tâm này (linh hồn) là ta, cái ta này thường còn không biến đổi; nếu ta (linh hồn) là người thì khi chết rồi trở lại làm người; còn ta là thánh thì chết rồi trở lại làm thánh, không có thay đổi; người có tu cũng vậy, không tu cũng vậy. Bởi chấp như thế, nên họ không sợ tội lỗi, chẳng ham phước lành, gây tạo nhiều tội ác rồi nhiều kiếp trầm luân, chịu không biết bao nhiêu khổ sở!
Vì thương kẻ mê lầm này, nên Phật dạy quán “Tâm như huyễn”. Khi hành giả quán thân và tâm (linh hồn) đều như huyễn, không phải thật ngã (ta) một cách xác thật rồi, thì không còn vì nó mà tạo các tội lỗi. Tội lỗi không tạo, vọng niệm chẳng sinh, huyễn thân và huyễn tâm đều dứt hết, thì tính Viên Giác, thanh tịnh không hư huyễn hiện ra, lúc bấy giờ hành giả ra khỏi sinh tử luân hồi.
6. HUYỄN HẾT THÌ CHÂN HIỆN, NHƯ BỤI SẠCH THÌ GƯƠNG SÁNG
- Này Thiện nam! Vì “huyễn thân” của chúng sinh kia diệt, cho nên “huyễn tâm” cũng diệt; do “huyễn tâm” diệt, cho nên cái “huyễn trần” cũng diệt; do “huyễn trần” diệt, nên cái “huyễn diệt” đó cũng diệt luôn. Bởi thâm tâm là tướng trần cấu hư huyễn đã hoàn toàn diệt, nên lúc bấy giờ tính “Viên Giác phi huyễn” hiện ra, thanh tịnh khắp cả mười phương. Thí như lau gương, khi bụi hết thì gương sáng tự hiện bày.
Lược giải:
Ðại ý đoạn này Phật dạy các huyễn tuần tự diệt. Có năm lớp:
1. Huyễn Thân diệt
2. Huyễn Tâm diệt
3. Huyễn Trần (pháp) diệt
4. Huyễn Trí diệt
5. Phi Huyễn (Viên Giác) hiện
Như lau gương sạch bụi thì ánh sáng hiện ra.
7. DÙNG NGỌC MA NI DỤ TÍNH VIÊN GIÁC
- Này Thiện nam! Dụ như ngọc Ma ni trong sáng, tùy mỗi phương chiếu hiện ra năm màu; nhưng người quê mùa không biết, cho năm màu (dụ cho ngũ uẩn) kia là thật có.
Tính Viên Giác thanh tịnh cũng thế, tùy các loại mà ứng hiện ra mỗi thân tâm (ngũ uẩn) không đồng. Những kẻ mê muội lại chấp cho thân tâm đó là thật có, vì thế nên không thể xa lìa được các tướng huyễn hóa hư vọng.
Lược giải:
Luận về “bản tính Viên Giác” thì sáng suốt thanh tịnh không có một mảy trần, tức là nghĩa “Chân không”; nhưng tùy theo nghiệp mà biến hiện, không một loài vật nào chẳng có, tuy có mà không thật có, tức là nghĩa “Diệu hữu”.
Tính Viên Giác không hai, nhưng tùy theo vọng nghiệp của mỗi loại mà biến hiện các vật ngàn sai muôn khác. Người khéo dùng thì nó hiện ra Tứ Thánh (Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật). Kẻ vụng dùng thì nó hiện ra lục phàm (Thiên, Nhân, A tu la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh). Cũng như trong kinh Lăng Nghiêm Phật dùng cây đàn thí dụ: Trong cây đàn không có tiếng hay tiếng dở; tùy người biết sử dụng thì nó phát ra tiếng hay, còn người không biết sử dụng thì nó phát ra tiếng dở. Cũng một cây đàn đó, hay dở chỉ tại người khéo hay vụng mà thôi.
Ðoạn kinh trên nói: “Ngọc Ma ni trong suốt là dụ cho tính “Viên Giác thanh tịnh”; nói “Ngọc Ma ni tùy mỗi phía hiện ra ngũ sắc” là dụ cho tính “Viên Giác tùy mỗi loại hiện thân ngũ uẩn”.
Ðại ý đoạn này nói “Trong ngọc Ma ni trong suốt không có ngũ sắc, nhưng vì tùy mỗi phương, ánh chiếu in như có ngũ sắc. Trẻ con không biết, lầm tưởng ngũ sắc kia là thật có, rồi sinh tâm tham muốn khóc đòi v.v... chứ đâu biết rằng “ngũ sắc” kia không thật. Cũng như trong tính Viên Giác thanh tịnh không có ngũ uẩn, nhưng tùy theo nghiệp chúng sinh vọng thấy in như có năm uẩn. Chúng sinh mê muội không biết hư huyễn, lại chấp cho là thật có, rồi sinh tham mê ái luyến, tạo ra các nghiệp. Vì thế mà bị triền miên trong sinh tử, không bao giờ ra khỏi các vọng huyễn.
8. VÌ CÓ KẺ LÌA HUYỄN VÀ NGƯỜI CHƯA LÌA ĐƯỢC, NÊN PHÂN CÓ THÁNH VÀ PHÀM
- Này Thiện nam! Bởi đối với những kẻ mê muội chấp thân tâm huyễn cấu này là thật có, không thể xa lìa được, nên ta gọi đó là chúng sinh.
Ðối với người đã xa lìa được thân tâm cấu huyễn thì ta gọi đó là Bồ tát. Ðến khi các “huyễn cấu” hết, “pháp đối trị” trừ, “trí đối trị” cũng không, cho đến không còn danh từ để kêu gọi, và lời nói để luận bàn (người không cảnh vắng, các vọng hoàn toàn diệt, thì tạm gọi là Viên Giác hay Phật).
- Này Thiện nam! Các Bồ tát và chúng sinh đời sau, khi diệt hết các ảnh tượng vọng huyễn rồi thì tính “Viên Giác thanh tịnh” hiện ra, khắp cả vô biên hư không, không có ngằn mé và phương hướng.
Lược giải:
Những người mê muội, không biết các pháp đều do tính Viên Giác huyễn hiện, lại chấp cho là thật có, rồi sinh ra ái luyến triền miên, nên Phật gọi là “chúng sinh”. Những người biết được các pháp hư huyễn đều do Viên Giác sinh, đã dùng pháp đối trị và xa lìa, thì Phật gọi đó là “Bồ tát”. Lên một tầng nữa là khi các “cảnh huyễn cấu” hết, “pháp trừ huyễn” không, “trí đối trị” chẳng còn, “danh từ kêu gọi” và “lời nói luận bàn” cũng không, cho đến “người” cũng chẳng còn: cảnh vắng người không. Như bịnh hết, thuốc bỏ, ông thầy thuốc cũng không còn. Các vọng huyễn hoàn toàn diệt hết, thì cảnh giới Viên Giác thanh tịnh viên mãn hiện khắp ở mười phương, lúc bấy giờ tạm gọi là “Phật”.
9. VIÊN GIÁC HIỆN THÌ CÁC PHÁP (CĂN, TRẦN, THỨC) ĐỀU THANH TỊNH
- Này Thiện nam! Vì tính Viên Giác thanh tịnh sáng suốt đã hiện ra nên “tâm” thanh tịnh; do tâm thanh tịnh nên “6 thức” thanh tịnh; do 6 thức thanh tịnh nên “6 căn” thanh tịnh; do 6 căn thanh tịnh nên “6 trần” thanh tịnh; do 6 trần thanh tịnh nên 4 đại, 12 xứ, 18 giới và 25 loài đều thanh tịnh.
Lược giải:
Ðại ý đoạn này nói: Vì tính Viên giác thanh tịnh đã xuất hiện, nên các pháp thuộc về thế gian là Căn, Trần, Thức cũng đều thanh tịnh. Dụ như trong rừng cây y lan (loại cây hồi), một phen gỗ chiên đàn xuất hiện, thì cả rừng đều thơm ngát.
- Sáu thức: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỵ thức, Thiệt thức, Thân thức và Ý thức
- Sáu căn: Nhãn căn, Nhĩ căn, Tỵ căn, Thiệt căn, Thân căn và Ý căn.
- Sáu trần: Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc và Pháp.
- Bốn đại: Ðịa, Thủy, Hỏa và Phong.
- Mười hai xứ: Sáu Căn và Sáu Trần
- Mười tám giới: 6 Căn, 6 Trần và 6 Thức.
- 25 loài: Cõi Dục có 14 loài, là bốn châu (Ðông Thắng thần châu, Nam Thiệm bộ châu, Tây Ngưu hóa châu, Bắc Cu lô châu); bốn ác thú (Tu la, Ðịa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh) và sáu cõi Dục (1. Tứ Thiên vương, 2. Ðao lợi, 3. Dạ ma, 4. Ðâu suất, 5. Hóa lạc, 6. Tha hóa, tự tại). Cõi Sắc có 7 loài, là bốn cõi Thiền (từ Sơ thiền đến Tứ thiền), cõi Phạm vương, cõi Vô tướng và Ngũ tịnh cư. Cõi Vô sắc có bốn: 1. Không Vô biên xứ, 2. Thức vô biên xứ, 3. Vô sở hữu xứ, 4. Phi phi tưởng xứ.
***
- Này Thiện nam! Vì các pháp thế gian thanh tịnh, nên các pháp xuất thế gian như: 10 Lực, 4 món Vô úy, 4 món Vô ngại trí, 18 pháp Bất cộng, 37 phẩm Trợ đạo và 84.000 pháp môn Ðà la ni, tất cả đều thanh tịnh.
Lược giải:
Ðại ý đoạn này nói: Một pháp đã thanh tịnh, nên tất cả các pháp đều thanh tịnh, vì tất cả đều đồng tính Viên Giác. Thí như một cục phèn bỏ vào thau nước, một chỗ trong thì cả thau đều trong.
Ðoạn trên nói các pháp Thế gian thanh tịnh. Ðoạn này nói các pháp Xuất thế gian cũng thanh tịnh.
- Mười Lực: 1. Tri giác xứ phi xứ trí lực. 2. Tri tam thế nghiệp báo trí lực; 3. Tri chư thiền giải thoát tam muội trí lực; 4. Tri chư căn thẳng liệt trí lực; 5. Tri chủng chủng giải trí lực; 6. Tri chủng chủng giới trí lực; 7. Tri nhất thế chi sở đạo trí lực; 8. Tri thiên nhãn vô ngại trí lực; 9. Tri túc mạng vô lậu trí lực; 10. Tri vĩnh đoạn tập khí trí lực.
- Bốn món Vô úy: 1. Nhất thế trí vô sở úy; 2. Lậu tận vô sở úy; 3. Thuyết chướng đạo vô sở úy; 4. Thuyết tận khổ đạo vô sở úy.
- Bốn món Vô ngại trí: 1. Pháp vô ngại trí; 2. Nghĩa vô ngại trí; 3. Từ vô ngại trí; 4. Lạc thuyết vô ngại trí.
- Mười tám pháp Bất cộng: 1. Thân vô thất; 2. Khẩu vô thất; 3. Niệm vô thất; 4. Vô dị tưởng; 5. Vô bất định tâm; 6. Vô bất tri dĩ xả; 7. Dục vô diệt; 8. Tinh tấn vô diệt; 9. Niệm vô diệt; 10. Tuệ vô diệt; 11. Giải thoát vô diệt; 12. Giải thoát tri kiến vô diệt; 13. Nhất thế thân nghiệp tùng trí tuệ hành; 14. Nhất thế khẩu nghiệp tùng trí tuệ hành; 15. Nhất thế ý nghiệp tùng trí tuệ hành; 16. Trí tuệ tri quá khứ thế vô ngại; 17. Trí tuệ tri vị lai thế vô ngại; 18. Trí tuệ tri hiện tại thế vô ngại.
- Ba mươi bảy Phẩm trợ đạo: (xem Phật Học Phổ Thông, khóa III bài Ðạo Ðế nói rõ)
- Ðà La Ni: Tàu dịch là “Tổng trì”. Nghĩa là ở trong mỗi một pháp môn tóm giữ được tất cả Pháp. Do trừ 84.000 phiền não mà được 84.000 pháp Ðà La Ni.
***
- Này Thiện nam! Vì các pháp thế gian và xuất thế gian đều thanh tịnh, nên cá nhân thanh tịnh; do cá nhân đã thanh tịnh nên nhiều cá nhân thanh tịnh, cho đến mười phương chúng sinh đều đặng Viên Giác thanh tịnh.
Lược giải:
Ðoạn này nói chính báo chúng sinh thanh tịnh. Vì đã đồng tính Viên Giác, nên các pháp nói trên đã thanh tịnh, thì thân chúng sinh cũng thanh tịnh. Cũng một ý này, nhưng có kinh lại nói một cách khác: “Còn một chúng sinh nào chưa thành Phật thì ta cũng chưa thành Phật”, vì đồng một bản thể vậy.
***
- Này Thiện nam! Vì một thế giới đã thanh tịnh, nên nhiều thế giới cũng thanh tịnh. Vì nhiều thế giới thanh tịnh nên cùng tận 10 phương hư không (không gian) trùm khắp 3 đời (thời gian), tất cả đều thanh tịnh bình đẳng không động.
Lược giải:
Ðoạn này nói y báo của chúng sinh thanh tịnh. Vì đồng tính Viên Giác, nên chính báo đã thanh tịnh thì y báo cũng thanh tịnh. Cũng như trong nhà tối lâu đời, khi đốt lên một ngọn đèn, ánh sáng được xuất hiện, một chỗ vừa sáng thì tất cả chỗ trong nhà đều sáng.
10. VÌ THẤY HIỆN TƯỢNG (CÁC PHÁP) BÌNH ĐẲNG NÊN BIẾT BẢN THỂ (VIÊN GIÁC) BÌNH ĐẲNG
- Này Thiện nam! Hư không đã bình đẳng không động, nên biết tính Viên Giác bình đẳng không động, vì bốn đại bình đẳng không động, nên biết tính Viên Giác bình đẳng không động. Như thế, cho đến 84.000 pháp môn Ðà La Ni đều bình đẳng không động, nên biết tính Viên Giác bình đẳng không động.
Lược giải:
Từ bản thể là tính Viên Giác, sinh ra các pháp hiện tượng là hư không, bốn đại và thiên hình vạn trạng cho đến 84.000 pháp Ðà La Ni. Hiện tượng đã từ bản thể sinh, mà hiện tượng đã bình đẳng không động, cố nhiên bản thể cũng bình đẳng không động.
11. BẢN THỂ (TÍNH) KHẮP CẢ 10 PHƯƠNG, NÊN HIỆN TƯỢNG KHẮP CẢ 10 PHƯƠNG
- Này Thiện nam! Vì tính Viên Giác thanh tịnh không động, viên mãn cùng khắp tất cả, không có bờ bến, nên biết 6 căn, 6 trần, 4 đại, cho đến pháp môn Ðà La Ni cũng thanh tịnh và viên mãn khắp cả pháp giới.
- Này Thiện nam! Vì tính Viên Giác kia mầu nhiệm viên mãn không hoại, nên bản thể của căn, bản thể của trần, không có một pháp nào hoại diệt và lộn lạo; cho đến pháp môn Ðà La Ni, cũng không có hoại diệt và lộn lạo. Thí như trăm ngàn ngọn đèn, đồng đốt trong một căn nhà, ánh sáng của mỗi ngọn đèn tuy đều chiếu khắp cả nhà, nhưng không có lộn lạo hay lấn diệt lẫn nhau.
Lược giải:
Ðoạn này có hai phần. Phần trên nói: Vì bản thể là tính Viên Giác châu biến, nên hiện tượng là các pháp cũng châu biến. Ðại ý phần này giống đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Lý vô ngại Pháp giới”.
Phần dưới nói: Vì bản thể không hoại diệt nên tất cả các pháp không có một pháp nào hoại diệt. Thí như trăm ngàn ngọn đèn chiếu trong một nhà, không có lộn lạo và hoại diệt nhau. Ý đoạn này giống với đoạn văn trong kinh Hoa Nghiêm nói về “Sự, Sự vô ngại Pháp giới”. Trong kinh Pháp Hoa chép: “Thị pháp trụ pháp vị, thế gian tướng thường trụ” (Pháp nào an trụ địa vị pháp ấy. Thế gian tướng là thường trụ tướng). Và kinh Lăng Nghiêm có chép “Tứ đại châu biến, không có hoại diệt và tạp loạn lẫn nhau”.
12. VÌ CHỨNG ĐƯỢC VIÊN GIÁC NÊN THẤY CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG
- Này Thiện nam! Vì các Bồ tát thành tựu được tính Viên Giác rồi, nên không sợ pháp hữu vi ràng buộc, không cầu pháp vô vi giải thoát, không nhàm chán sinh tử, không ưa thích Niết bàn, không kính người trì giới, không ghét người phạm giới, không tôn trọng kẻ tu lâu, chẳng khinh người mới học. Tại sao thế? Vì tất cả các pháp đều là Viên Giác vậy.
Thí như con mắt xem thấy các cảnh vật hiện tiền, cái “thấy” này trùm khắp tất cả, không thương, ghét. Tại sao thế? Vì cái “thấy” này chỉ có một thể, nên không có thương, ghét vậy.
Lược giải:
Vì tất cả các pháp đã đồng một tính Viên Giác, nên Bồ tát bình đẳng: không thương không ghét, không khinh không trọng, không sợ sinh tử, chẳng cầu Niết bàn. Ðoạn này lý rất cao thâm, chúng ta không nên đem phàm tình mà phán đoán.
Ông Thường Bất Khinh Bồ tát nói: “Tôi không dám khinh các Ngài, các Ngài sẽ thành Phật, vì các Ngài đều có tính Phật” (Khả năng thành Phật). Và trong kinh Tứ thập nhị chương chép: “Cúng dường cho nhiều đức Phật, công đức không bằng cúng dường cho người Vô niệm, Vô trụ, Vô tu, Vô chứng”. Ðại ý các đoạn kinh trên đều nói đến thể tính bình đẳng này.
13. CÓ TU VÀ CÓ CHỨNG, MÀ THẬT RA KHÔNG TU VÀ KHÔNG CHỨNG
- Này Thiện nam! Các Bồ tát hiện tại và chúng sinh đời sau, tuy tu tập Tâm này (Viên Giác) mà được thành tựu (quả Phật) rồi, nhưng thực ra thì không tu và cũng không thành, vì tính Viên Giác vừa tịch diệt vừa phổ chiếu tất cả, đối với Phật hay chúng sinh, không hai không khác.
Lược giải:
Phật đã dạy “Nhất thế chúng sinh giai hữu Phật tính” Nghĩa là: Tất cả chúng sinh đều có tính Phật (Viên Giác). Song chúng sinh vì bị mây vô minh che phủ mặt trăng Viên Giác (Phật) của mình, nên in tuồng có mê; bởi in tuồng có mê nên cũng in tuồng có Tu và Chứng. Ðến khi mây vô minh tan hết, thì mặt trăng Viên Giác hiện ra. Mặt trăng này đâu phải bấy giờ mới có, và cũng không phải do dụng công tu hành mới thành, vì nó có từ vô thỉ đến giờ. Bởi thế nên nói “In tuồng có Tu và có Chứng”. Trong kinh Tứ thập nhị chương, cũng với ý này, Phật đã dạy: “Niệm đến chỗ không niệm mới là chân niệm, làm đến chỗ không làm mới là thật làm, nói đến chỗ không nói mới là thật nói, tu đến chỗ không tu mới là chân tu, chứng đến chỗ không chứng mới là thật chứng...”
Tuy biết như vậy, nhưng lúc đầu tiên hạ thủ công phu, phải có Tu có Chứng, rồi mới có thể đạt đến chỗ rốt ráo là Vô tu Vô chứng. Cũng như ông thầy giáo muốn cho cả lớp học được yên lặng, thì phải dùng tiếng động là gõ thước trên bảng. Khi học trò yên lặng, thì tiếng gõ bảng hết, lúc bấy giờ mới đổi lại cảnh yên tịnh được.
Cũng vì ngộ lý này, nên người xưa có làm bài thơ rằng:
Bách xích can đầu trực hạ thủy
Nhất ba tài động vạn ba tùy
Dạ tịnh thủy hàn ngư bất thực,
Mãn thuyền không tải nguyệt minh qui.
Ý nghĩa bài thơ này, câu thứ nhất nói: “Nhợ 100 thước trên đầu cần câu, thả thẳng xuống mặt nước”. Câu thứ hai nói: “Một lượn sóng vừa gợn (động) thì liền có muôn ngàn lượn sóng nhấp nhô nổi theo”. Hai câu này ý nói: Khi hạ thủ công phu, lúc đầu tiên thuộc về hữu tướng Tu, còn phải dụng công có Tu có Chứng.
Câu thứ ba nói: “Ðến khuya các tiếng động hết, một bầu tịch mịch thanh vắng mặt nước đông lạnh, bằng phẳng như tờ; cá cũng không ăn mồi”. Ý nói hành giả lúc bấy giờ đã đi sâu vào chỗ “Tâm cảnh như như, ngã pháp đều không” thuộc về Vô tướng tu. Vô công dụng hạnh.
Câu thứ tư nói: “Chỉ có thuyền trống chở ánh sáng mặt trăng về...” Ðại ý câu này nói: “Không tâm tải đạo” (tâm trống không, chứa đạo). Hành giả lúc bấy giờ, tâm thể sáng suốt hiện khắp cả 10 phương (Viên Giác); in tuồng có chứng có đắc ..., mà thật ra không chứng và không đắc.
14. SINH TỬ VÀ NIẾT BÀN ĐỀU NHƯ MỘNG, VÌ CHÚNG SINH VỐN ĐÃ THÀNH PHẬT
Các thế giới của chư Phật, nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tính “Viên Giác” này. Cũng như hoa đốm ở trong hư không, mặc tình lăng xăng khởi lên và lăng xăng diệt mất. Nó không phải “tức” là tính Viên Giác, mà cũng không phải “ly” tính Viên giác; không triền phược và giải thoát. Bởi thế nên biết “Sinh tử và Niết bàn” cũng đều như giấc mộng hôm qua, vì chúng sinh vốn đã thành Phật từ xưa đến giờ.
Lược giải:
Ðại ý đoạn này nói: tính Viên Giác thanh tịnh vắng lặng như hư không nên mặc tình cho các pháp lăng xăng khởi diệt như hoa đốm.
Niết bàn là đối với sinh tử mà có, trong tính Viên Giác, sinh tử đã không, cho nên Niết bàn cũng như mộng.
Ðứng về phương diện lý tính mà luận, thì tất cả chúng sinh đều sẵn có tính Phật (Viên Giác) nên nói: “Chúng sinh đã thành Phật từ xưa đến nay”. Song chúng sinh vì bị mây vô minh che mờ, nên mặt trăng Phật (Viên Giác) của mình chẳng hiện. Ðến khi được gió Bát Nhã thổi tan mây vô minh rồi, thì trăng Viên Giác (Phật) của mình tự hiện.
Cũng vì ngộ lý này, nên cổ nhân có làm bài thơ rằng:
Tòng hạ vấn đồng tử...
Ngôn: Sư thê được khứ,
Chỉ tại thử sơn trung,
Vân thâm bất kiến xứ.
Dịch nghĩa: Dưới cây tòng, hỏi đồng tử... Ðồng tử thưa rằng: “Thầy đi hái thuốc, chỉ ở trong núi này thôi, nhưng vì mây đen nên chẳng thấy được”.
Trong bài thơ này, tác giả mượn người khách hỏi đồng tử để nói về lý đạo.
Ðại ý: Chúng sinh đi tìm Ðạo. Thật ra Ðạo (Phật) không đâu xa, chỉ ở trước mắt. Nhưng vì chúng sinh bị mây vô minh che mờ, nên chẳng thấy được Ðạo (Phật).
Trong kinh có câu: “Tâm, Phật, chúng sinh, tam vô sai biệt”: Tâm, Phật và chúng sinh, cả ba không sai khác. Hay là câu: “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác”: Phật pháp tại thế gian, giác ngộ không rời thế gian; cũng là chỉ cho ý này. Bởi chúng sinh và Phật đồng một thể tính Viên Giác, nên Phật với chúng sinh không hai, triền phược và giải thoát không khác, sinh tử với Niết bàn như mộng.
15. CÁC PHÁP BÌNH ĐẲNG
- Này Thiện nam! Phải biết sinh tử và Niết bàn đều như giấc mộng hôm qua, cho nên không có sinh diệt và cũng không có khứ lai. Ở nơi quả vị sở chứng, không có “được’ và “mất” hay “thủ” và “xả”. Ở nơi người năng chứng cũng không có “tạo tác” và “đình chỉ” hay “sinh” (nhậm) và “diệt”.
Trong tính Viên Giác, tất cả các pháp đều bình đẳng, không có hoại diệt. Rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng.
Lược giải:
Trong kinh nói:“Chư pháp tùng bổn lai, thường tự tịch diệt tướng”. Nghĩa là: Các pháp từ xưa đến nay, tướng nó thường vắng lặng. Bởi đồng tính Viên Giác, nên tất cả các pháp bình đẳng, không sinh diệt, không khứ lai, không đắc thất, không thủ xả, không làm, không thôi, không sinh, không diệt, rốt ráo không có người năng chứng và quả sở chứng, vì tất cả đều là tính Viên Giác vậy.
16. TÓM LẠI
- Này Thiện nam! Các vị Bồ tát kia phải y lời ta dạy trên mà suy nghĩ như vậy, dùng phương tiện như vậy, y theo lớp lang và tuần tự tu hành như vậy, an trụ như vậy, phải cầu pháp như vậy và khai ngộ như vậy, mới khỏi mê muội.
Lược giải:
Nguyên trước Ngài Phổ Nhãn hỏi Phật: “Phải suy nghĩ làm sao? Lập phương tiện thế nào? Và thứ lớp tu hành ra sao? v.v...
Phật đã giải thích rành rẽ rồi, nên đoạn này Phật dạy: “Phải suy nghĩ như vậy, dùng phương tiện như vậy v.v... thì mới khỏi mê muội và ngộ nhập được tính Viên Giác”
17. PHẬT NÓI BÀI KỆ TÓM LẠI CÁC NGHĨA TRÊN
Khi ấy đức Thế Tôn muốn tóm lại các nghĩa trên, nên nói bài kệ rằng:
Phổ Nhãn! Ông phải biết:
Thân, Tâm của chúng sinh,
Tất cả đều như huyễn,
Thân này thuộc bốn đại,
Thân này trả sáu trần;
Bốn đại tan rã rồi,
Cái gì gọi là “TA”?
Tuần tự tu như vậy,
Tất cả đều thanh tịnh.
Viên Giác khắp Pháp giới,
Không làm, thôi, sinh, diệt
Không năng chứng, sở chứng,
Tất cả thế giới Phật
Như hoa đốm hư không.
Ba đời đều bình đẳng,
Rốt ráo không qua lại.
Bồ tát mới phát tâm,
Và chúng sinh đời sau,
Muốn cầu nhập Phật đạo,
Phải như thế tu hành.
Lược giải:
Ðại ý bài kệ này là tóm lại các nghĩa trên.
Phật dạy quán sát Thân này và Tâm này đều như huyễn, không có thật “Ngã”. Cứ như thế mà tu hành thì lần lần sẽ được thanh tịnh. Lúc bấy giờ tính Viên Giác hiện ra khắp cả Pháp giới, không còn “làm” hay “thôi”, “sinh” hay “diệt”, và cũng không có “năng chứng” và “sở chứng”. Các thế giới nhiều như số cát sông Hằng, đều ở trong tính Viên Giác, mặc tình nó sinh diệt như hoa đốm giữa hư không. Ba đời đều bình đẳng, rốt ráo không qua lại. Các Bồ tát và chúng sinh đời sau, phải như thế tu hành, mới vào được Đạo Phật.
Chú thích:
(1) Chữ “Chính niệm” là niệm chân chính. Trong Viên Giác lược sớ giải: Rời các vọng huyễn, dứt hết các vọng niệm thế mới là: “chính niệm”
- 289
Viết bình luận