1. Bài thứ nhất
Bài thứ nhất
A. DUYÊN KHỞI
Người đến đô thành lạ, nếu chẳng có bản đồ, thì không sao khỏi lầm đường lạc nẻo. Người đi trong biển khơi diệu vợi, sóng dồi gió dập, lênh đênh giữa biển, nếu không có kim chỉ nam, thì không dễ gì vượt qua mấy vạn trùng dương, trở về xứ sở. Người đi đánh giặc, nếu không đọc binh thơ đồ trận, không hiểu chiến thuật chiến lược, thì không sao thắng được giặc, đem trở lại trật tự an ninh cho nước nhà, và giữ gìn non sông cẩm tú. Kẻ làm thợ nếu chẳng có mực thước, thì không sao làm thành những món đồ có giá trị.
Người tu hành cũng thế: nếu không hiểu lối thẳng, khúc quanh, chỗ đèo ải gay go, nơi hầm hố nguy hiểm trong đường lối tu hành, lớp lang chứng đạo, thì không sao khỏi lạc vào nẻo tà, sa nơi ác đạo.
Kinh Lăng Nghiêm là một bộ kinh quý báu vô cùng, chỉ đường lối tu hành một cách rành mạch, nào là: Giáo, lý, hạnh, quả đều rõ ràng. Người tu phải trải qua bao nhiêu địa vị, trong khi tu gặp những điều nguy hiểm như thế nào, và phải làm sao mới tránh khỏi những điều nguy hiểm ấy, thì trong kinh Lăng Nghiêm này Phật dạy hết sức rành rẽ.
Nói đến kinh Lăng Nghiêm, hàng Phật tử ai lại chẳng nghe tiếng là một bộ kinh Đại Thặng, vừa hay nhất, mà cũng vừa quý nhất. Người tu hành hiểu được kinh Lăng Nghiêm, chẳng khác nào người bộ hành có bản đồ, kẻ thủy thủ có kim chỉ nam, người thợ có dây mực, kẻ chiến sĩ có binh thư đồ trận.
Vì kinh Lăng Nghiêm quý giá như thế, nên thưở xưa các vị vua Ấn Độ cho là một quốc bảo, giữ gìn nghiêm nhặt không cho truyền bá ra ngoài. Trong lúc ấy, bên Tàu, có ngài Thiên Thai Trí Giả đại sư, được nghe kinh Lăng Nghiêm quý báu như vậy, nên mỗi ngày hai lần sớm chiều xây mặt về phía Tây (Ấn Độ) quì lạy cầu khẩn cho kinh Lăng Nghiêm được sớm truyền bá qua Tàu, để lợi ích quần sinh.
Cách 100 năm sau, có ngài Bát Thích Mật Đế, người ở Ấn Độ, đã nhiều lần tìm cách đem kinh Lăng Nghiêm đến truyền bá tại Trung Hoa, nhưng không kết quả, vì luật nước nghiêm cấm, kiểm soát rất chặt chẽ.
Đến lần cuối cùng, Ngài viết kinh trong miếng lụa mỏng, rồi cuốn lại, xẻ bắp thịt vế nhét vào, băng lại làm như người có ghẻ, mới đem được ra khỏi nước. Chúng ta cũng nên nhớ tưởng lại cái công “vị pháp vong xu” của ngài Bát Thích Mật Đế. Thử nghĩ: một cây cỏ cắt vào da còn đau; một mụt ghẻ con còn biết nhức, huống chi xẻ một đường dài nơi bắp thịt, nhét cho được một cuốn lụa nhỏ (nhỏ nhất cũng bằng ngón tay cái, và dài hơn một tấc) trải qua bao nhiêu ngày, từ Ấn Độ sang đến Trung Hoa. Nếu không may bị tiết lộ, thì phải tử hình. Như thế, chúng ta đủ thấy sự quí báu của kinh Lăng Nghiêm biết là dường nào! Tâm vì đạo quên mình của Bồ tát Bát Thích Mật Đế đáng cho chúng ta trọn đời bái phục.
Khi ngài Bát Thích Mật Đế đem kinh Lăng Nghiêm này qua Tàu, đến đất Nam Thuyên, gặp quan Thừa tướng tên Phòng Dung, là bậc bác học uyên thâm, lại có lòng mộ Phật nên ngài trình bày với Thừa tướng, giá trị của kinh Lăng Nghiêm mà ngài đã hy sinh mang đến.
Quan Thừa tướng Phòng Dung nghe rồi hết sức mừng rỡ, cho là đặng một vật báu chưa từng có. Nhưng khi đem cuốn lụa ra thì bị máu mủ bám vào lâu ngày, nên mất cả chữ nghĩa.
Một người có công lớn trong việc này, là bà phu nhân của Thừa tướng Phòng Dung. Bà đem cuốn lụa ấy nấu với một chất thuốc hóa học, những máu mủ đều theo nước mà tan đi, chỉ lưu lại các nét mực, nên còn thấy để phiên dịch.
Quan Thừa tướng thỉnh ngài Bát Thích Mật Đế dịch chữ Phạn ra chữ Tàu. Ngài Di Già Thích Ca dịch từ ngữ, còn quan Thừa tướng nhuận sắc. Nên Kinh Lăng Nghiêm chẳng những nghĩa lý rất hay, mà văn chương cũng là tuyệt diệu.
Từ xưa các học giả không những trong đạo Phật, mà cả đạo Nho, các đại gia văn chương một phen xem đến kinh Lăng Nghiêm đều kính phục và vô cùng khen ngợi cái nghĩa lý cao siêu, và văn chương tuyệt diệu của kinh.
B. CHÁNH ĐỀ
I. Nói Kinh Lăng Nghiêm
Theo lệ thường, mỗi năm đến ngày rằm tháng bảy, là ngày mãn hạ, chư tăng cùng nhau tự tứ, để rửa sạch những hành vi lỗi lầm và những tư tưởng không tốt, cho giới thể được thanh tịnh. Vì trong ba tháng kiết hạ an cư, chư tăng đều thúc liễm thân tâm, trau dồi giới hạnh, tích công lũy đức, nên đến ngày mãn hạ, các hàng Phật tử cư sĩ đều đua nhau sắm đủ các món trai diên, thỉnh chư tăng đến cúng dường, để gieo trồng cội phúc.
Hôm ấy, nhằm ngày húy nhật của Tiên Hoàng, nên vua Ba Tư Nặc sắm đủ các món trân tu mỹ vị rất linh đình, rồi chính vua thân hành đến rước Phật và chư tăng về cúng dường.
Cũng hôm ấy, các hàng trưởng giả cư sĩ đều sắm đủ thức cơm chay, cung thỉnh chư tăng đến ứng cúng. Phật bảo ngài Văn Thù chia ban, để đi đến từng nhà thọ cúng.
Trong lúc ấy ông A Nan, vì đã chịu người thỉnh riêng, nên trở về chẳng kịp để dự vào hàng chúng Tăng thọ cúng.
Ông bèn mang bình bát đi vào thành, oai nghi tề chỉnh, bộ điệu chậm rãi, qua từng nhà một để khất thực. Với tâm bình đẳng, ông muốn làm phước điền cho tất cả mọi người, không phân biệt bậc quý phái cùng hạng bình dân. Ông chỉ mong gặp những người chưa biết làm phước, hôm nay phát tâm cúng dường, để họ được ươm trồng hạt giống lành, đặng ngày sau hưởng quả.
Vì lòng từ bi bình đẳng không lựa chọn, ông tuần tự trải qua các xóm làng. Không may ông gặp nhà tín nữ ngoại đạo, tên Ma Đăng Già, dùng phép huyền thuật là thần chú của Ta Tỳ Ca La Phạm Thiên, bắt vào phòng, dùng đủ lời dịu ngọt, vuốt ve mơn trớn, ép uổng về tình duyên!
A Nan bị nạn, hết sức buồn rầu, chắp tay niệm Phật hướng về Đức Chí Tôn cầu cứu! Phật biết A Nan mắc nạn, nên khi thọ trai xong không kịp thuyết pháp, liền trở về Tịnh xá ngồi kiết già, trên đỉnh phóng hào quang trăm báu, trong hào quang ấy có hoa sen ngàn cánh, trên hoa sen có đức Hóa Phật ngồi kiết già, nói thần chú Lăng Nghiêm (mỗi buổi khuya các chùa đều tụng).
Phật bảo ngài Văn Thù đem thần chú ấy đi đến chỗ nàng Ma Đăng Già, để phá trừ tà chú, cứu nạn cho A Nan.
II. A Nan Cầu Phật Dạy Phương Pháp Tu Hành Lần Thứ Nhất
Khi ông A Nan được thoát nạn, về đến chỗ Phật cúi đầu kính lạy, buồn tủi khóc than và bạch Phật rằng: “Bạch đức Thế Tôn! Con từ hồi nào đến giờ có lòng ỷ lại: Con là em Phật, được Phật thương yêu, chắc chắn Phật sẽ ban cho con thần thông trí huệ, hay đạo quả Bồ đề, nên chỉ lo học rộng nghe nhiều, chẳng cần tu niệm, không ngờ ai tu nấy chứng, mặc dù là con là em của Phật, nếu không tu, thì cũng bị đọa như ai; học nhiều mà không tu, thì cũng chẳng có ích lợi gì! Cúi xin Phật rộng lòng từ bi chỉ dạy cho con phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật tu hành đều được thành đạo chứng quả.”
III. Phần Chú Giải
1. Định danh và giải nghĩa tên kinh
Khi đó Phật an ủi A Nan và hứa sẽ chỉ dạy phương pháp tu hành để thành đạo chứng quả, là kinh Lăng Nghiêm. Kinh này, đọc cho đủ là: “Kinh Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm,” gọi tắt là “Kinh Thủ Lăng Nghiêm” tức là kinh nói về Chân Tâm.
a) Vì kinh này rất quý báu, đã ít có mà lại khó gặp, hàng Tiểu Thừa Thanh Văn và quyền thừa Bồ Tát không thể thấu suốt được, nên dụ như cái tướng “Vô kiến đảnh” của Phật, vì tướng này rất quý báu và khó thấy, hàng phàm phu và Nhị thừa không thể thấy được.
b) Mười phương các Đức Phật đều y theo kinh này làm nhân địa tu hành mà được thành đạo chứng quả, nên gọi là “Như Lai mật nhân.”
c) Y theo kinh này mà tu và chứng thì lối tu chứng ấy mới được rốt ráo, nên gọi rằng “tu chứng liễu nghĩa.”
d) Các vị Bồ Tát tu pháp lục độ vạn hạnh đều y theo kinh này, nên cũng gọi là “Bồ Tát vạn hạnh.”
e) Tóm lại, “Thủ Lăng Nghiêm,” Tàu dịch là Đại định kiên cố. Nghĩa là: Chỉ cho cái Bản thể chân tâm sẵn có của tất cả chúng sinh và chư Phật, nó bao la trùm khắp cả vũ trụ, nên gọi là “Đại.” Thể tính ấy thường tịch tịnh không vọng động nên gọi rằng “Định.” Không bị thời gian thay đổi, hay không gian chuyển dời, thấu xưa suốt nay, bao giờ cũng vẫn thường như thế, ở nơi bậc thánh không thêm, tại phàm cũng không bớt, như như bất động, nên gọi rằng “Kiên cố.”
Chữ “Kinh” theo nghĩa hẹp là đường chỉ xuôi, tức là đường canh trong tấm vải. Tấm vải nhờ có đường canh xâu kết lại các chỉ ngang, mới thành một tấm vải.
Còn theo nghĩa rộng, chữ “Kinh” là xâu tóm các lời lẽ và nghĩa lý của thánh hiền làm thành một quyển hay một bộ.
Trong đạo Phật hay ngoài đời đều có kinh điển. Xong kinh Phật có thêm chữ “Khế” nên khác hơn kinh sách ở thế gian. Chữ “Khế” nghĩa là hợp:
a) Hợp căn cơ trình độ của chúng sinh
b) Hợp chân lý
Chữ kinh có nghĩa là “thường pháp,” là một chân lý không thay đổi: quá khứ Phật nói pháp như vậy, hiện tại Phật cũng nói pháp như vậy và vị lai Phật ra đời cũng nói pháp như vậy mà thôi, nên gọi là “thường pháp.”
Nói một cách khác cho dễ hiểu:
a) Chúng ta sẵn có bản thể chân tâm, nó vẫn thanh tịnh và như như bất động, thế là nơi ta có “Thủ Lăng Nghiêm.”
b) Y theo chân tâm này, mà khởi tu lục độ muôn hạnh của Bồ Tát, thì chính là nơi ta có “chư Bồ Tát vạn hạnh.”
c) Y theo chân tâm mà tu, và cũng y theo chân tâm này mà chứng, tu chứng như thế mới rốt ráo, nên gọi là “tu chứng liễu nghĩa.”
d) Chúng ta y theo chân tâm này làm nhân địa tu hành, sẽ được thành Phật, nên gọi là “Như Lai mật nhân.”
Chân tâm này rất quý báu, những hàng phàm phu, Tiểu thừa và quyền thừa Bồ tát không ngộ nhập được, nên dụ như “Vô kiến đỉnh tướng” của Phật. Chân tâm chúng ta bao trùm cả vũ trụ, muôn sự muôn vật không ngoài chân tâm ta, đó là nghĩa chữ “kinh”.
Mười chữ đầu đề của kinh này: “Đại Phật Đảnh, Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm,” đã bao hàm toàn cả bộ kinh, nào giáo lý, hạnh, quả, thể đại, tướng đại và dụng đại, nhân địa tu chứng đều trùm cả, mà rốt cuộc chỉ ở nơi tâm chúng ta sẵn đủ. Bởi ngộ được lý này, nên đức Lục tổ Huệ Năng nói rằng:
Nào dè tự tính vốn sẵn thanh tịnh.
Nào dè tự tính vốn không sinh diệt.
Nào dè tự tính vốn sẵn đầy đủ.
Nào dè tự tính vốn không lay động.
Nào dè tự tính có công năng sinh ra muôn pháp.
Đọc đề mục kinh có 19 chữ, chúng ta thấy đã vui thú rồi, vì chính nơi ta sẵn có kinh “Đại Phật đảnh, Như Lai mật nhân, tu chứng liễu nghĩa, chư Bồ tát vạn hạnh, Thủ Lăng Nghiêm.” Chỉ vì chúng ta mê muội nên chẳng nhận được kinh Lăng Nghiêm của mình. Song nó cũng không mất khi ngộ được thì sẽ thành Phật.
2. Nội dung kinh Lăng Nghiêm
Nội dung của kinh Lăng Nghiêm là Phật chỉ dạy cho chúng ta ngộ được chân tâm. Chúng ta vì không ngộ được chân tâm nên phải vĩnh kiếp làm chúng sinh, trầm luân trong biển sinh tử, chịu không biết bao nhiêu khổ sở. Còn như Phật thoát ly sinh tử luân hồi, được tự do giải thoát, thần thông tự tại, trí tuệ vô ngại v.v....đều do các Ngài đã ngộ chân tâm, nên mới được như thế.
Nói cho dể hiểu: Phật với chúng sinh vẫn đồng một thể tính chân tâm, nhưng các Ngài đã hoàn toàn giác ngộ được thể tính ấy, nên mới thành Phật. Trái lại, chúng sinh vì mê muội thể tính chân tâm, nên phải bị sinh tử luân hồi. Nếu chúng sinh giác ngộ chân tâm, thì sẽ được như Phật.
Ông A Nan cầu Phật chỉ dạy phương pháp nào mà mười phương các Đức Phật đã tu hành và đều được chứng quả, thì Phật chỉ dạy, phải ngộ "Chân tâm" mà thôi. Nếu ngộ được chân tâm này thì thành Phật. Ngộ được chân tâm, như người còn ngủ chiêm bao. Đây là phương pháp duy nhất mà mười phương chư Phật tu hành đã được thành đạo chứng quả.
- 229
Viết bình luận