6. Bài thứ sáu | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

6. Bài thứ sáu

Bài thứ sáu


I. A Nan không hiểu, hỏi Phật

A Nan thưa Phật:

- Bạch Thế Tôn, vừa rồi Phật nói cái nghĩa “nhân duyên, tự nhiên, hòa hợp và bất hòa hợp” chúng con còn chưa hiểu, nay lại nghe Phật nói đến nghĩa tâm sinh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm, v.v…Chúng con lại càng thêm mù mịt nữa. Cúi xin đức Như Lai duỗi lòng từ bi, chỉ dạy cho chúng con ngộ được chân tâm thanh tịnh, sáng suốt này.

II. Phật chỉ hai món vọng thấy

Phật dạy:

- A Nan, ông phải chín chắn nghe, ta sẽ vì các ông phân biệt chỉ dạy, cũng khiến cho chúng sinh đời sau ngộ được đạo quả Bồ Đề.

Này A Nan, tất cả chúng sinh bị sinh tử luân hồi trong thế gian, đều do hai món điên đảo phân biệt vọng thấy, nó đương xứ phát sinh ra nghiệp, rồi theo nghiệp đó mà chịu khổ luân hồi.

Chú Giải

Từ nơi tâm vọng động sinh ra các nghiệp, rồi theo các nghiệp đó mà chịu quả khổ hay vui. Cũng như từ mê mà sinh ra ngủ, rồi đương nơi ngủ đó, mà hiện ra có cảnh vật vui, buồn rồi tự chịu lấy buồn, vui.

- Thế nào là 2 món?

1) Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhân.

2) Cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp chung của đồng loại.

III. Dụ về nghiệp riêng của cá nhân

- A Nan, sao gọi là cái điên đảo vọng thấy thuộc về nghiệp riêng của cá nhân? Dụ như người dặm con mắt, ban đêm dòm đèn thấy có vòng tròn lòa đỏ năm màu (ngũ uẩn).

Ý ông nghĩ sao? Cái vầng đỏ năm màu ấy “của đèn” hay của cái “thấy”?

A Nan, nếu ông nói “của đèn” thì sao những người không dặm mắt, họ chẳng thấy vầng đỏ, mà duy có người dặm mắt mới thấy thôi?

Nếu nói “cái vầng đỏ đó của cái thấy”, thì cái thấy đã thành vầng đỏ; vậy người dặm con mắt thấy vầng đỏ, thì bảo là thấy cái gì? (vì cái thấy đã thành vầng đỏ rồi, thì không thể nói thấy vầng đỏ được nữa).

Lại nữa, nếu ông chấp “cái vầng đỏ rời đèn riêng có,” thời đáng lẽ ông xem bàn ghế chung quanh đều có vầng đỏ cả. Còn nói “vầng đỏ rời cái thấy riêng có,” thì không cần con mắt thấy. Vậy tại sao người dặm mắt thấy có vầng đỏ?

Thế nên phải biết: Cái sáng là ở nơi đèn, cái thấy vì bệnh mà có bóng lòa. Cái “bóng lòa” và “cái thấy lòa” đều do nơi mắt dặm. Còn cái thấy được lòa dặm, thì “cái thấy” đó không phải dặm.

Nên không thể nói: Cái vầng đỏ này là “đèn” hay “thấy” và “không phải đèn” hay “không phải thấy,” mà chính do dặm mắt hiện ra.

Chú Giải

Đại ý đoạn này Phật nói “Vì vô minh vọng động (dặm) mà thấy có các cảnh vật hiện ra như vậy (lòa đỏ). Chớ không phải do chân lý (dụ đèn) hay chân trí (dụ cái thấy) và cũng không thể nói nó ngoài chân lý và chân trí.

IV. Dụ về nghiệp chung của đồng loại

- A Nan, sao gọi là nghiệp chung vọng thấy của đồng loại? Dụ như trong thế giới này có nhiều nước. Nhưng chỉ có một nước vì dân chúng đồng tạo ác nghiệp nên đều cảm thấy có các điềm không tốt, như sao chổi, sao phướn, hoặc hai mặt trời, hai mặt trăng, v.v… Còn dân chúng ở các nước khác thời đều không thấy và cũng không nghe.

V. Lấy nghiệp riêng để chỉ rõ nghiệp chung

- Này, A Nan, như người dặm con mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên “vọng thấy” cái đèn có vầng đỏ hiện ra. Tại con mắt dặm thành ra lòa, chớ “cái thấy” đó không lòa.

So sánh như các ông ngày hôm nay, thấy có núi sông, thế giới và chúng sinh đó, đều do cái “dặm lòa từ vô thỉ” (vô minh vọng động từ vô thỉ) cho nên mới thấy có các cảnh vật hiện ra như vậy. Các ông nên biết: “mắt thấy” (kiến) với “cảnh vật bị thấy” (kiến duyên) hiện tiền đây, đều do cái “vọng thấy” (giác minh) hiện ra. Cái “vọng thấy” đó (giác kiến) nó lòa dặm, chớ cái chân tâm không có lòa dặm. Cái chân tâm biết được cái lòa dặm đó (giác sở - giác sảnh) nó không phải ở trong lòa dặm (giác phi sảnh trung). Như thế thời làm sao bảo cái chân tâm đó là các cảm giác thấy, nghe, hay, biết được ư? Đây chính là cái nghĩa: “Tâm sinh ra cái thấy, cái thấy không phải tâm, v.v…” ông mới vừa hỏi trước.

Thế nên, nay ông thấy “tôi,” thấy “ông” cùng thấy “thế giới” và “chúng sinh,” đều do ông lòa dặm (vô minh vọng động) mà thấy như vậy, chớ không phải cái thấy (tâm) đó nó lòa dặm. Bởi tính nó không lòa dặm, cho nên không thể bảo nó (chân tâm) là “cái thấy.”

Chú Giải

Đại ý đoạn này nói: Từ nơi chân tâm, vì vô minh vọng động nên khởi ra có căn và cảnh (cái thấy và cái bị thấy). Vì các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết cùng với các cảnh vật bị thấy, đều do vô minh vọng động hiện ra cả. Còn “chân tâm” vì không phải là vô minh, nên không thể gọi nó (chân tâm) là các cảm giác: thấy, nghe, hay, biết được. Đây là giải lại cái nghĩa ở đoạn trước nói: Chân tâm sinh ra cái thấy, v.v… (kiến kiến chi thời) cái thấy, v.v… không phải là chân tâm (kiến phi thị kiến). Cái thấy nó còn xa cách chân tâm, v.v… Nên nhớ: Lỗi tại vô minh vọng động, chớ không phải lỗi tại cái thấy và cảnh bị thấy. Cũng như tại dặm chớ không phải lỗi tại “cái thấy” của mắt và “bóng lòa.”

VI. Phật kết thúc lại

- A Nan, một người dặm mắt, vì nghiệp riêng của họ, nên họ thấy cái vầng đỏ; cũng như dân chúng trong một nước, do ác nghiệp chung tạo của họ, nên đồng thấy có những điềm không lành hiện ra.

Lên một tầng nữa, là toàn cả chúng sinh trong mười phương thế giới ngày nay đây, đều do “vô minh vọng động từ vô thỉ” nên đồng vọng thấy có thế giới chúng sinh hiện ra vậy.

Từ nơi chân tâm, vì hư vọng nên hiện ra các cảm giác thấy, nghe, hay, biết. Do hòa hợp vọng sinh ra, rồi cũng do hòa hợp vọng diệt đi.

Nếu các ông xa lìa được các duyên hòa hợp cùng bất hòa hợp, và trừ hết các nhân sinh tử rồi, thì cái chân tâm thường trụ thanh tịnh, bất sinh bất diệt hiện ra, và các ông được viên mãn đạo Bồ Đề.

Chú giải

Phật lấy một người dặm để dụ một nước thấy điều ác; lấy một nước để dụ chúng sinh trong mười phương. Vì vô minh vọng động từ vô thỉ, nên thấy có chúng sinh và thế giới. Cũng như người dặm mắt thấy có vầng đỏ, nếu hết dặm thì vầng đỏ không còn, lúc bấy giờ con mắt lành mạnh tự hiện. Cũng như vô minh vọng tưởng hết, thì thế giới chúng sinh chẳng còn. Lúc bấy giờ chân tâm sáng suốt hiện ra, được viên mãn đạo Bồ Đề, thế gọi là bậc Đại Giác.

VII. Phật chỉ các pháp đều trở về chân tâm

- A Nan, ông còn chưa hiểu: các trần tướng huyễn hóa đó là từ nơi tâm sinh ra, rồi cũng tùy tâm diệt mất (Đương xứ xuất sinh, tùy xứ diệt tận).

Cái “tướng” (hiện tượng) của nó thì huyễn vọng, còn “tính” (bản thể) của nó lại chân thường.

Nào là: năm ấm, sáu nhập, 12 xứ, 18 giới đều do nhân duyên hư vọng hòa hợp tạm có sinh; nhân duyên biệt ly, hư vọng tạm gọi là diệt.

Các ông không biết: nào sinh, diệt, khứ, lai đều gốc ở nơi chân tâm thường trụ. Trong thể tính chân tâm thường trụ nầy, tìm kiếm cái khứ, lai, mê, ngộ, sinh, tử, v.v… quyết không thể được.

Chú Giải

Hiện tượng các pháp thì vọng, mà bản thể của các pháp lại chân. Đứng về phần hình tướng (hiện tượng) các pháp thì thấy có sinh, diệt, khứ, lai. Còn đứng về phần bản tính (bản thể) thì tìm cái khứ, lai, sinh, diệt, mê, ngộ không thể được.

VIII. A Nan nghi cái nghĩa bốn đại hòa hợp sinh

A Nan thưa Phật rằng:

- Bạch Thế Tôn, trước kia Ngài thường nói “tất cả các vật trong thế gian đều do bốn đại hòa hợp sinh.” Tại sao ngày hôm nay, Như Lai bác bỏ cả thuyết “nhân duyên” và “tự nhiên.” Chúng con không biết nghĩa này như thế nào? Cúi xin đức Từ Tôn chỉ dạy nghĩa trung đạo rốt ráo cho chúng con.

Chú Giải

Phật đã nhiều lần bác cả nhân duyên và tự nhiên, mà A Nan vẫn còn chấp mãi. Thật là lưới nghi nhiều lớp, không thể một lần lột hết được!

IX. Phật quở A Nan học nhiều mà không hiểu

Phật dạy rằng:

- Ông trước kia nhàm chán quả Thanh Văn, Duyên Giác là thuộc về Tiểu Thừa, phát tâm cầu đạo Vô Thượng Bồ Đề, cho nên ta mới vì ông chỉ bày nghĩa lý cao thượng thứ nhất (đệ nhất nghĩa đế). Tại sao nay ông còn đem lời nói tầm thường trong thế gian, là thuyết “nhân duyên” để tự ràng buộc lấy mình?

Ông tuy học nhiều mà không hiểu chi cả; cũng như người trong thế gian nói tên món thuốc này, món thuốc kia, đến khi thuốc thật đem trước mắt thì họ không thể phân biệt được, thật đáng thương xót!

Ông nên chăm chú nghe, ta sẽ vì các ông, cùng với những người tu về Đại Thừa đời sau mà phân biệt chỉ dạy, để cho các ông thông hiểu đuợc thật tướng (chân tâm).

A Nan yên lặng, lóng nghe lời Phật dạy.

X. Phật nói cái tính của tứ đại phi hòa hợp

- A Nan, ông nói rằng: “Do bốn đại hòa hợp sinh ra tất cả vật.” Này A Nan, nếu cái thể tính (bản thể) của bốn đại kia không có hòa hợp, thời không thể hòa với cái gì được; cũng như hư không không hòa hợp với các vật biến hòa (hiện tượng sinh diệt) nghĩa là: trước sau thành nhau, như nước thành băng, băng trở lại thành nước. Sinh diệt nối nhau, sinh tử, tử sinh, sinh sinh, tử tử, xoay tròn như vòng lửa, không đứt đoạn.

Chú Giải

A Nan lấy hình tướng (hiện tượng của tứ đại có hư vọng hòa hợp mà hỏi. Còn Phật thì chỉ cái thể tính (bản thể) của tứ đại không hòa hợp, cũng như hư không mà giải thích. Nếu nó (tính) có hòa hợp thì cùng đồng như các tướng (tứ đại) có sinh diệt.

XI. Đất từ chân tâm biến hiện

- A Nan, ông xem đất kia, lớn là quả địa cầu, còn nhỏ là hạt bụi (vi trần). Chẻ hạt bụi rất nhỏ (cực vi) ra làm bẩy phần, thì thành hạt bụi lân hư (gần với hư không). Cái giáp ranh của sắc tướng tột đến chừng đó. Nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhất này (lân hư) ra một lần nữa, thì thành hư không. Thế thì rõ ràng hư không do chẻ bụi mà có, không phải do hòa hợp sinh.

Này A Nan, như lời ông nói “do hòa hợp sinh ra các vật trong thế gian,” vậy ông thử xem một hạt bụi nhỏ nhất này (lân hư), phải dùng bao nhiêu hư không hòa hợp lại mới thành ra nó? Không lẽ hạt bụi nhỏ nhất này, hòa hợp lại thành ra hạt bụi nhỏ nhất.

Chú Giải

Nếu nói “các vật do hòa hợp thành” thì hạt bụi nhỏ nhất này cũng phải do hòa hợp mà thành. Vậy thời lấy cái gì hòa hợp thành hạt bụi này. Nếu nói “lấy hư không hòa hợp lại thành” thì phi lý. Còn không lấy hư không thì lấy cái gì hòa hợp thành ra nó? (Vì chấp các pháp do hòa hợp mà sinh ). Nếu nói lấy “sắc tướng hòa hợp” thì thành ra một vật lớn, chớ không phải là thành hạt bụi nhỏ nhất (lân hư) nữa.

- Lại nữa, nếu chẻ hạt bụi nhỏ nhất (lân hư) ra thành hư không, thì rõ ràng hư không không phải do hòa hợp thành. Nều nói do hòa hợp thành, thì phải dùng bao nhiêu sắc tướng hòa hợp lại mới thành hư không? Không lẽ hư không tự hòa hợp thành ra hư không?

Chú Giải

Vì chấp “các pháp do hòa hợp mà có “thì hư không cũng phải do hòa hợp mà có. Vậy hư không lấy cái gì hòa hợp mà thành? không lẽ lấy hư không hòa hợp lại thành hư không. Đoạn trên Phật chỉ hạt bụi, đoạn này Phật chỉ hư không, đều phi hòa hợp cả.

- Vậy nên biết: khi sắc hòa hợp thì không phải hư không, khi hư không hòa hợp thì không phải sắc. Cái sắc còn có thể chia chẻ ra được, chớ hư không làm sao mà hòa hợp được?

Chú Giải

Đại ý đoạn này, Phật nói các pháp hư vọng như huyễn, như hóa, phi hòa, phi hợp, do chúng sinh mê vọng mà thấy in tuồng như thật.

- Các ông không biết: trong chân tâm, tính (bản thể) của sắc là chân không (tâm); tính (bản thể) của không là chân sắc (tâm). Nó vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới; tùy theo tâm của chúng sinh tạo nghiệp và phân biệt như thế nào, thì nó ứng hiện ra như thế nấy. Chúng sinh không biết, chấp là nhân duyên sinh, hay tự nhiên có, v.v… những cái chấp đó, đều do thức tâm phân biệt so đo cả. Phàm có nói năng, phân biệt thì đều không đúng.

Chú Giải

Thật ra các vật ở giữa này, không có nhất định vật gì thật là vật gì cả. Tùy theo tâm của chúng sinh tạo nghiệp như thế nào, thì nó hiện ra như thế nấy. Đối với chúng sinh đó, nó thật hay đúng với loài đó mà thôi.

Như chén nước đây, nếu đồng nghiệp loài người thì thấy thật là nước; còn đối với con vi trùng trong chén nước, thì không phải là nước nữa rồi, mà chính là nhà cửa của nó.

Hay như cái bàn gỗ này, đối với loài người thấy nó là cái bàn thật, chớ đối với con mọt thì không thành cái bàn nữa, mà thật là món ăn của chúng. Thêm một tỷ dụ nữa, như thân này đối với loài người, thì thấy thật là thân người, chớ đối với con vi trùng trong thân, thì không thành cái thân nữa, mà thật là một thế giới bao la vô tận của nó.

Vậy thì thật thấy nước hay thật chỗ ở, thật cái bàn gỗ hay thật món ăn, thấy thân người hay bầu thế giới, đều tùy theo tâm niệm phân biệt, nhận định riêng của mỗi loài như thế nào, thì nó thành ra thế nấy. Nên trong kinh nói “Tùy tâm biến hiện.” Chúng ta thường thấy: Khi nào tâm niệm vui vẻ, thì thấy cảnh vật chung quanh đều vui, cho đến ngủ chiêm bao cũng thấy cảnh vui hiện ra. Mỗi mỗi đều do tâm mình biến hiện ra cả, nên có câu: “Cảnh nào cảnh chẳng reo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”

XII. Lửa từ chân tâm biến hiện

- A Nan, lửa không có tự thể, nó chỉ gá các duyên mà sinh. Ông hãy xem những nhà ở trong thành này, khi họ muốn nấu ăn, thì họ cầm cái kiếng (dương toại) ra trước mặt trời lấy lửa. Này A Nan, lửa ấy nếu nhân hòa hợp mà có, thì nó từ trong cái kiếng sinh, từ bùi nhùi ra, hay từ nơi mặt trời đến?

Nếu lửa từ mặt trời đến, cháy được bùi nhùi trong tay của ông, thì những cây rừng và các cảnh vật nó vừa trải qua đó, đáng lẽ đều phải bị cháy cả. Còn nói “lửa từ trong kiếng sinh ra cháy cái bùi nhùi” sao cái kiếng người cầm đó không cháy? Và cả bàn tay của người cầm cũng không cháy?

Còn nói “lửa từ trong bùi nhùi sinh” thì cần gì phải có bàn tay cầm cái kiếng hứng ánh sáng mặt trời, mới có lửa?

Ông nên chín chắn xem xét: Cái kiếng ở nơi tay người cầm, mặt nhựt thì ở trên trời, bùi nhùi nằm tại đất. Cái kiếng với mặt trời vẫn xa nhau, không phải hòa, không phải hợp. Vậy lửa này từ đâu mà đến cháy đây? Không lẽ lửa không từ đâu cả mà tự có?

Các ông không biết trong chân tâm, tính (bản thể) của lửa (tâm) là thật không; tính (bản thể) của không (tâm) mới là thật lửa. Nó vẫn thanh tịnh khắp giáp cả pháp giới, tùy theo tâm của chúng sinh phân biệt như thế nào, thì nó hiện ra như thế nấy.

Nếu một người cầm kiếng lấy lửa, thì một chỗ đó có lửa hiện ra. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm kiếng lấy lửa, thì khắp cả trong thế gian đều có lửa hiện ra; chỉ tùy theo vọng nghiệp của chúng sinh mà hiện đó thôi, chớ không có xứ sở gì. Người thế gian không biết, dùng thức tâm hư vọng phân biệt, mê lầm chấp cho nhân duyên sinh, hoặc tự nhiên có, v.v… Phàm có nói năng, phân biệt đều không đúng sự thật.

Chú Giải

Đại ý như đoạn trên (đất).

XIII. Nước từ chân tâm biến hiện

- A Nan, tính nước không định, đứng chẩy chẳng thường. Như ở trong thành Thất La, các vị đại huyễn sư, như ông Ca Tỳ La Tiên, Chiết Ca La Tiên, Bác Đầu Na và Ha Tát Đa, v.v… Các vị này thường lấy nước mặt trăng hòa với thuốc. Họ chờ đêm nào trăng sáng tỏ, cầm hột châu phương chư hứng dưới mặt trăng, thì có nước chẩy ra ở thau. Vậy nước ấy từ hột châu sinh? Hay từ hư không ra? Hay từ mặt trăng đến?

A Nan, nếu từ mặt trăng đến, nó làm cho hột châu ra nước; vậy thời từ phương xa đến đây, trong khi trải qua cây cối các cảnh vật, nó phải đều làm cho ngập ướt cả, nếu thế thời cần gì phải có hột châu phương chư (Hột châu lấy nước)? Xong sự thật các cảnh vật không ngập ướt, thì rõ ràng nước ấy không phải từ mặt trăng đến.

Còn nói “nước từ hột châu ra” thì hột châu nếu đã chẩy ra được nước, đáng lẽ lúc nào nó cũng tự chẩy ra được nước, cần gì phải chờ nửa đêm hứng mặt trăng sáng mới có nước?

Còn nói “nước từ hư không sinh,” thì hư không vô biên, nước cũng phải vô biên; vậy thì từ nhân gian cho đến thiên thượng, tất cả cỏ cây, đất đai đều bị ngập lụt cả.

Ông nên chín chắn xem xét: Mặt trăng ở trên trời, hột châu ở tay người cầm, cái thau hứng nước lại để dưới đất. Mặt trăng với hột châu cách xa nhau, không phải hòa cũng không phải hợp, vậy nước đó từ đâu mà đến? Không lẽ không nhân đâu mà tự có.

Ông không biết trong chân tâm, tính (bản thể) của nước (tâm) thật không; tính (bản thể) của không (tâm) thật nước, vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm của chúng sinh phân biệt như thế nào, thì nó ứng hiện như thế ấy. Một người cầm hột châu lấy nước, thì một chỗ đó có nước. Nếu tất cả người trong thế gian đều cầm hột châu lấy nước; thì khắp cả trong thế gian đều có nước. Nước tùy theo nghiệp của chúng sinh mà phát hiện ra; nó không có phương hướng xứ sở gì. Người trong thế gian không biết, lầm chấp nhân duyên sinh, hoặc tự nhiên có, đều do thức tâm vọng chấp, phân biệt cả. Phàm có nói năng, luận bàn thế nào, cũng đều không trúng cả.

XIV. Gió từ chân tâm biến hiện

- A Nan, tính gió không định, động và tịnh chẳng thường. Như ông thường đắp y đi vào đại chúng, cái chéo y của ông phất qua người gần bên, thì có một chút gió quạt đến mặt người. Vậy gió này từ chéo y ra, hay từ hư không đến, hay từ nơi mặt người sinh?

A Nan, nếu gió này từ cái y ra, thì cái y đã thành gió, vậy nó phải bay bổng rời khỏi thân ông, và ông đắp y thành ra đắp gió hay sao? Ta nay xổ cái y ra, ông hãy thử xem coi gió ở chỗ nào? Chẳng lẽ trong y có chỗ cất (để) gió!

Nếu gió từ hư không sinh, vậy thời khi ông không động cái y, sao chẳng có gió? Và hư không thường còn, thì gió cũng phải thường sinh, nếu khi nào không có gió, thì hư không phải diệt. Song thật ra gió có thể diệt (hết) chớ hư không làm sao diệt được.

Nếu hư không có sinh diệt, thời không gọi là hư không; còn gọi là hư không thời làm sao lại sinh ra gió được.

Còn ông nói “gió từ nơi mặt người bị phất sinh.” nếu thật thế, thì gió phải phất đến mặt ông mới phải, tại sao nó phất ngược trở lại mặt người bị phất.

Ông nên chín chắn xem xét: Cái y là ở nơi ông, cái mặt là thuộc về người kia (bị phất), còn hư không thì tự yên lặng; gió (động) với hư không (lặng) tính khác nhau, không hòa không hợp, vậy gió từ nơi đâu mà phát động đến đây? Không lẽ không từ nơi đâu mà tự có.

Các ông không biết trong chân tâm, tính (bản thể) của gió (tâm) là thật không; tính (bản thể) của không (tâm) là thật gió, vốn sẵn thanh tịnh, khắp giáp cả pháp giới, tùy tâm chúng sinh phân biệt như thế nào, thời nó hiện ra như thế nấy. Một người phất y, thì cả thế giới đều có gió, theo nghiệp của chúng sinh mà phát hiện, không có phương hướng, xứ sở gì. Thế gian không biết, khởi thức tâm phân biệt so đo, lầm chấp là nhân duyên sinh, hoặc tự nhiên có, v.v… đều không đúng cả.


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6328188
Số người trực tuyến: