1. Bài thứ nhất
25/06/2016 - 14:16
Lượt xem: 261
Bài Thứ Nhất
LƯỢC GIẢI
Đề mục kinh có tám chữ: “Kim cương Bát Nhã Ba la mật kinh”; gọi tắt là "Kinh Kim cương”
KINH: Kinh điển hay giáo lý, do Phật Phật hoặc Bồ Tát nói ra. Chữ “Kinh” có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có ba nghĩa như sau:
1. Đường canh (nghĩa đen): Sợi chỉ xuôi trong tấm vải. Nhờ sợi chỉ xuôi xâu kết các sợi chỉ ngang, để làm thành một tấm vải. “Kinh” cũng có nghĩa là sự tổng hợp ghi chép lại các lời nói của Phật hoặc thánh hiền.
2.Thường: Không thay đổi. Chân lý của Phật không thay đổi; dù Phật quá khứ, hiện tại hay vị lai cũng đều nói chân lý như vậy.
3. Hợp (Khế): Kinh của Phật “hợp với chân lý của vũ trụ” và “hợp với căn cơ trình độ của chúng sinh”. Cũng một bộ kinh, mà tuỳ theo trình độ của mỗi người, kẻ hiểu cao, người hiểu thấp. Tuy sự hiểu ngộ có cao thấp không đồng, mà cứ như lý tu hành thì đều được khỏi khổ luân hồi, không sót một người nào. Kinh Phật có những đặc điểm như thế, nên gọi là “Khế kinh”
KIM CƯƠNG: Chữ “Cương”, người Nam đọc là “cang”, người Bắc đọc là “cương”. Có hai nghĩa:
1. Ngọc Kim cương: Thuộc về loại khoáng vật rất quí giá. Tính nó rất cứng và rất bén, đã không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại các vật.
2. Kim cương: chất cứng rắn trong loại kim khí, tức là “thép”, cũng thuộc về loại khoáng vật. Tính nó cũng rất cứng bén, và cụng không bị các vật phá hoại, trái lại còn phá hoại các vật, như khoan sắt, đục đá v.v…dao búa nhờ có thép mới bén.
Chất “cứng rắn” của “ngọc Kim cương” hay của “thép”, đã saün có từ hồi nào đến giờ, không phải do rèn luyện mới có, hay nhờ các vật bên ngoài tạo thành.
Phật dùng “ngọc kim cương” hay “chất thép cứng”, để thí dụ “trí tuệ Bát Nhã” rất quí báu và sẵn có trong mọi người (tức là tính Phật sáng suốt của mỗi chúng sinh).
Trí tuệ Bát Nhã, không phải do tu mới có, hay nhờ các duyên bên ngoài luyện tập mới thành. Nó có sẵn trong mỗi chúng sinh từ vô thủy đến nay. Dù ở địa vị phàm phu nó cũng không giảm, hay chúng quả Thánh nó cũng không thêm. Nó đã không bị các vô minh phiền não tàn phá, trái lại còn phá tiêu tất cả vô minh phiền não từ vô thủy đến nay. Nó phá một cách rốt ráo và dễ dàng, như gió thổi mây bay, mặt trời chiếu sương mù tan. Bởi thế nên gọi là “Bát Nhã Ba La mật” Trí tuệ rốt ráo.
BÁT NHÃ: Dịch âm của chữ Phạn “Prajnà”. Vì Trung hoa không có chữ dịch cho cân xứng nên chỉ dịch nguyên âm là “Bát Nhã”.
Bát Nhã có nhiều nghĩa sâu xa, nhưng tóm lại có sau nghĩa:
1. Viễn ly: xa lìa các vô minh, phiền não vọng chấp;
2. Minh: Sáng, không mờ tối
3. Tuệ: Sáng tỏ
4. Thanh tịnh: Trong sạch không nhiễm ô
5. Trí: Thông suốt
6. Trí tuệ: Sáng tỏ thông suốt
Bát Nhã có nhiều nghĩa như vậy, nếu lấy một nghĩa thì không được đúng lắm, nên các nhà dịch chỉ để nguyên âm chữ Phạn (Bát Nhã).
Tuy nhiên, trong 6 nghĩa trên đây, nếu đem so sánh và cân nhắc, thì có thể dùng tạm nghĩa”trí tuệ”; vì nghĩa “trí tuệ” có phần rõ ràng và xác đáng hơn hết.
Nhưng cần phải chọn lọc thật kỹ, bỏ ra các thứ Trí tuệ sau đây, mới đúng với nghĩa chữ “Bát Nhã”:
1. Trí tuệ thế gian: Trong thế gian, những người học rộng thấy xa, thông minh lanh lợi, khôn khéo lịch duyệt, hay giỏi mọi phương diện, thiên hạ gọi đó là người “trí tuệ”. Nhưng trí tuệ đó là trí tuệ của thế tục phàm phu, chứ không phải là “trí tuệ Bát Nhã”.
2. Trí tuệ ngoại đạo: Chúng ngoại đạo tu thiền định (xem bài “Thiền định” trong bản đồ tu Phật) lâu ngày cũng có trí tuệ, biết được quá khứ vị lai, thần thông biến hoá vô cùng, nhiều pháp kỳ lạ. Nhưng trí tuệ đó là tà trí tuệ, chứ không phải là “trí tuệ Bát Nhã”.
3. Trí tuệ Nhị thừa: Hàng Thanh văn và Duyên giác, do tu pháp Tứ đế và Thập Nhị Nhân duyên mà đặng đạo quả. Các vị này đã khỏi sinh tử luân hồi, thần thông tự tại và có trí tuệ biết được việc quá khứ, hiện tại và vị lai. Nhưng trí tuệ đó thuộc về Tiểu thừa trí tuệ, chỉ thấy về “ngã không chân như”(thiên không), chứ chưa thấy được “pháp không chân như”, nên cũng không phải trí tuệ Bát Nhã.
Trừ ba loại trí tuệ trên đây, duy chỉ có trí tuệ Phật hay của Đại thừa Bồ Tát, mới phải là trí tuệ Bát Nhã.
Công dụng của trí tuệ Bát Nhã, như mặt nhật chiếu phá các mây mù vô minh vọng chấp: ngã, pháp, bốn tướng (ngã, nhân, chúng sinh, thọ giả), có, không, chẳng phải có, chẳng phải không v.v…Bởi thế nên Trí tuệ Bát Nhã chiếu soi các pháp, thì pháp nào cũng bỏ hình tướng giả dối, mà hiện ra tướng chân thật. Tướng chân thật của các pháp đã hiện, tức là chân tâm, chân như hay chân lý của vũ trụ hiện ra vậy.
Trí tuệ Bát Nhã, có công năng như chiếc thuyền đưa chúng sinh một cách rốt ráo, từ bên này bờ mê muội triền phược của phàm phu, đến bên kia bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật, nên cổ nhân cũng gọi là “thuyền Bát Nhã”.
Muốn phân biệt trí tuệ Bát Nhã khác với trí tuệ của phàm phu, ngoại đạo và Tiểu thừa, thì chúng ta nên dịch nghĩa chữ “Bát Nhã” như sau:
1. Trí tuệ Phật
2. Trí tuệ rốt ráo (Bát Nhã Ba La mật)
3. Trí tuệ Bát Nhã (dùng cả chữ Phạn và chữ Hán)
BA LA MẬT: “ba la mật” hoặc “ba la mật đa” là dịch âm của chữ Phạn “Paramita”. Có hai nghĩa:
1. Đáo bỉ ngạn: Đến bờ bên kia. Trí tuệ Bát Nhã có công năng đưa chúng sinh từ bờ triền phược mê muội của phàm phu bêb này, mà qua đến bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật bên kia, nên gọi là “Bát Nhã Ba la mật”.
2. Cứu kính viên mãn: hoàn toàn rốt ráo. Theo tục ngữ ở Ấn Độ, phàm làm việc gì, khi đã được hoàn toàn viên mãn, thì gọi là “Ba la mật”. Trí tuệ Bát Nhã là loại trí tuệ đã rốt ráo viên mãn, nên gọi là “Bát Nhã Ba la mật”.
Tóm lại, “Kim cương Bát Nhã Ba la mật kinh” là kinh nói về “Trí tuệ Phật”(Bát Nhã), loại Trí tuệ đã rốt ráo viên mãn (ba la mật). Trí tuệ này có công năng đưa hành giả từ bến mê muội triền phược của chúng sinh, sang bờ giác ngộ giải thoát của chư Phật (đáo bỉ ngạn).
Trí tuệ Phật (Bát Nhã) rất quý báu (như ngọc kim cương), vừa cứng rắn và sắc bén (như thép), có thể phá tiêu núi vô minh vọng chấp (ngã, pháp hay bốn tướng) và đốn tận gốc rừng phiền não nghiệp chướng, từ vô lượng kiếp đến nay, mà không bị hư tổn; cũng như ngọc kim cương hay chất thép, có thể đục chẻ các loại rất cứng, như sắt, đá v.v…mà không bị hư hoại.
***
Phật nói kinh “Đại Bát Nhã” tại 4 chỗ, 16 hội gồm 600 quyển, trong 22 năm mới xong (nhị thập nhị niên Bát Nhã đàm). Tóm tắt lại kinh Đại Bát Nhã là “kinh Kim cương Bát Nhã Ba la mật”.
NÓI VỀ DANH, TƯỚNG, THỂ, DỤNG VÀ TÔN CHÆ CỦA KINH NÀY
DANH: Kinh này lấy “thí dụ” (Kim cương) và “pháp” (Bát Nhã Ba la mật) mà đặt tên.Tướng: Kinh này lấy “Đại thừa” làm giáo tướng.THỂ: Kinh này lấy “Thật tướng” làm thể.
DỤNG: Công dụng của kinh này là phá các chấp tướng (Ngã, pháp) đoạn hết các vô minh mê hoặc.
TÔN CHỈ: Kinh này lấy “Vô trụ”(không trụ chấp nơi nào) làm tôn chỉ.
KẾT LUẬN
Mới đọc đến đề mục kinh, chúng ta đã thấy thích thú lắm rồi! Đề mục kinh chỉ có tám chữ, mà đã nói lên được rõ ràng nội dung và tôn chỉ của kinh: Phật dạy tất cả chúng sinh đều sẵn có Trí tuệ Bát Nhã (Trí tuệ Phật) từ vô thủy đến nay. Trí tuệ Bát Nhã (Phật tính sáng suốt hay khả năng thành Phật) rất là quý báu và cứng bén, như ngọc Kim cương hay chất thép. Trí tuệ Bát Nhã có sẵn từ vô thủy đến nay, đã không bị cái gì làm hư hoại; trái lại, còn phá tiêu núi Ngã tướng, Nhân tướng, chúng sinh tướng và Thọ giả tướng, hay núi Ngã chấp, pháp chấp; nói tổng quát là phá các vô minh vọng chấp từ vô thủy đến nay. Nó phá một cách hoàn toàn rốt ráo (Ba la mật) và dễ dàng, như mặt trời chiếu sương tan, gió thổi mây bay.
Trí tuệ Bát Nhã có công năng như chiếc thuyền, đưa hành giả từ bên này bến vô minh mê muôi của chúng sinh, vượt qua khỏi sông mê bể khổ, đến bờ bên kia Giác ngộ giải thoát của chư Phật, tức là “Đáo bỉ ngạn” (Ba la mật). Bởi thế nên Cổ nhân gọi là “Thuyền Bát Nhã”.
Chúng ta đã sẵn có “Trí tuệ Bát Nhã” hay “Trí tuệ Phật”, thì thế nào chúng ta cũng sẽ thành Phật.
***
TÊN DỊCH GIẢ
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nói kinh này tại Tịnh xá của ông Trưởng giả Cấp Cô Độc trong vườn của Thái tử Kỳ Đà, ở nước Xá Vệ.
Ngài A Nan kiết tập. Ngài Tam Tạng Pháp sư tên Cưu Ma La thập dịch từ văn Phạn (Ấn Độ) qua văn Trung Hoa.
TAM TẠNG PHÁP SƯ: Tam Tạng là ba kho tàng; vì có công năng trùm chứa văn bghĩa của Phật pháp, nên gọi là “Tàng”.
1. Kinh tạng: chép những lời Phật dạy hoặc những lời của các vị Bồ Tát nói ra, khi đã được Phật chứng nhận.
2. Luật tạng: chép những giới và luật (kỹ luật) trong 7 chúng (Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Sa di, sa di ni, Thức xoa và Ưu bà tắc, Ưu bà di).
3. Luận tạng: chép những lời nghị luận chính tà, phân biệt chân vọng của các vị Bồ Tát và chư Tổ.
Thầy giảng “kinh” thì gọi là “Pháp sư”
Thầy giảng “luật” thì gọi là “Luật sư”
Thầy giảng “luận” thì gọi là “Luận sư”
Ngài Cưu Ma La Thập, thông suốt cả ba tạng và giảng dạy cả Kinh, Luật, Luận, nên gọi Ngài là “Tam Tạng Pháp sư” (vị Pháp sư thông ba tạng).
CƯU MA LA THẬP (Kumàralabdha): Tên của một vị Pháp sư có danh tiếng lỗi lạc ở Ấn Độ; bên Trung Hoa dịch nghĩa là “Đồng Thọ”, nghĩa là vị Pháp sư, tuổi tác thì “đồng niên”, mà tài đức lại “kỳ lão” (thọ).
Kinh này có nhiều bản dịch, nhưng bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập rất rõ ràng sáng suốt, nên được phổ biến nhiều hơn hết.
***
A. PHẦN TỰ
(PHẦN MỞ ĐẦU KINH BÁT NHÃ)
Tôi nghe như vầy: Một hôm, tại nước Xá Vệ, Phật và 1250 vị Đại Tỳ kheo, đều ở Tịnh xá Kỳ hoàn, trong vườn của ông Thái tử Kỳ Đà và ông Trưởng giả Cấp Cô Độc.
Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực.
Khất thực xong, Phât và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rữa chân, rồi trải toạ cụ, ngồi yên tịnh.
Lược giải
Đây là những cử chỉ bình thường và rất đơn giản; nhưng đã tạo thành một bức tranh tuyệt diệu, nói lên được tinh thần “giải thoát vô trụ”, để mở màn cho Phật nói kinh Bát Nhã.
Chúng ta hãy định tâm, đọc kỹ lại một lần nữa, những câu sau này, thì chúng ta sẽ thấy bộc lộ rõ ràng tinh thần Bát Nhã (giải thoát vô trụ).
“Sắp đến giờ ngọ trai, Phật và chúng tăng đều đắp y, mang bình bát vào thành Xá Vệ, theo thứ lớp khất thực. Khất thực xong, Phật và chúng tăng đồng về Tịnh xá để thọ trai. Sau khi thọ trai xong, Phật xếp y, cất bình bát và rửa chân, rồi trải toạ cụ ngồi yên tịnh.
Vì ngộ được tính “Bát Nhã giải thoát”, trùm khắp trên muôn vật, nên Cổ nhân có nói hai câu:
Thanh thanh tuý trúc, tổng thị Chân như
Uất uất huỳnh hoa, vô phi Bát Nhã.
Dịch nghĩa:
Mướt mướt tre xanh, biểu lộ Chân như.
Mởn mởn hoa vàng, trình bày Bát Nhã.
Ngài Thái Hư pháp sư giảng:
“Phật nói kinh này để chỉ rõ trong mỗi chúng sinh đều sẵn đủ bản thể Kim cương Bát Nhã. Cái diệu dụng của Kim cương Bát Nhã là làm cho hành giả khi tu Lục độ vạn hạnh, mà không trụ chấp các tướng.
Người ngộ được Kim cương Bát Nhã rồi thì đối với các pháp và mọi việc đều thông suốt vô ngại; những việc làm bình thường hằng ngày đều là Phật pháp, tạm bình thường đó cũng là Phật pháp cho đến đi, đứng, nằm, ngồi v.v…cũng đều là Phật pháp. Những việc thần thông biến hoá đều là diệu dụng vô thượng của chư phật đã đành, mà những nỗi mừng, vui, giận, ghét cũng là cái phương tiện hay khéo của phật pháp.
Trái lại, nếu người chưa nhập được “Kim cương Bát Nhã”, dù có được thần thông biến hoá di sơn đảo hải đi nữa, thì cũng là tà thuật của yêu ma ngoại đạo, dù có thiền định muôn năm, cũng chỉ hưởng phước quả hữu lậu của cõi nhân, thiên mà thôi; một mai nghiệp báo hết rồi, vẫn trở lại thọ khổ luân hồi trong lục đạo. Quí vị nên chín chắn nghĩ xét!
Kinh Kim cương Bát Nhã, trong mỗi người đều sẵn đủ và khắp cả pháp giới. Nó không ở trong, không ở ngoài, không ở chính giữa và cũng không rời trong ngoài và chính giữa; không thể nghĩ bàn và cũng không trụ chấp được. Nếu người bền chí tu hành lâu dài, thì sẽ có ngày tự nhiên đốn ngộ. Trái lại, nếu người hướng ngoại tìm cầu, chấp rằng Phật có thần thông biến hoá v.v…phải có đủ như thế, mới phải là Phật. Những người chấp như thế, không thể phân biệt, giản trạch được thế nào là Phật pháp và thế nào là ngoại đạo. Than ôi! Nếu sai một hào ly, thì cách xa ngàn dặm! Quí vị phải cẩn thận, rất cẩn thận!”
KIM CƯƠNG GIẢNG LỤC
GIẢI DANH TỪ
TÔI NGHE NHƯ VẦY: Trong trí Độ Luận có chép: “Khi Đức Như Lai sắp nhập Niết bàn ông Ưu Ba Ly nói với A Nan rằng: Ông là người giữ gìn “Pháp tạng” của Phật, ông phải bạch Phật những điều cần yếu về sau.
Ông Ưu Ba Ly và A Nan cùng nhau đến bạch Phật bốn điều:
1. Tất cả các kinh của Phật, mở đầu nên đề chữ gì?
2. Phật nhập diệt rồi lấy ai làm thầy?
3. Nương nơi đâu mà trụ?
4. Xá lợi và y bát của Phật, phân như thế nào?
Phật dạy:
1. Mở đầu các kinh, hãy để “Như thị ngã văn” (Tôi nghe như vầy).
2. Ta nhập Niết bàn, các ông phải lấy “giới luật” làm thầy.
3. Các ông phải trụ nơi pháp “Tứ niệm xứ” (quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã).
4. Xá lợi của ta chia làm ba phần (một phần thờ tại nhân gian, một phần thờ trên các cõi trời, một phần thờ dưới Long cung) còn y và bát truyền lại cho ông Ma Ha Ca Diếp.
TỲ KHEO: Tỳ kheo là dịch âm của tiếng Phạn, dịch nghĩa có ba:
1. Khất sĩ: Là kẻ đi xin: trên xin giáo pháp của Phật để nuôi thân, dưới xin vật thức để nuôi thân.
2. Phá ác: Phá trừ các việc tội ác.
3. Bố ma: Làm khủng bố các ma.
NGỌ TRAI: Phật độ cơm đúng giờ ngọ (12 giờ trưa) nên gọi là “ngọ trai”. Những thực phẩm cúng dường chư Tăng, trong giờ ngọ, thì gọi là “Trai Tăng”
Y: Y phục của chư tăng, tức là áo Cà sa. Y phục của chư Tăng bằng vải, có nhiều loại: Không điều (mạn y), năm điều, bảy điều và chín điều v.v…
BÌNH BÁT: Đồ đựng thức ăn của chư tăng, làm bằng sành v.v…lớn hay nhỏ tuỳ sức người dùng.
TOẠ CỤ: Tấm vải để lót vải ngồi của Phật hoặc chư Tăng.
- 261
Viết bình luận