Nẻo Quỷ thần (Quỷ thần đạo)
Nẻo Quỷ thần (Quỷ thần đạo)
Hỏi: Thế nào gọi là nẻo quỷ?
Đáp: Vì bọn đó có những hành động tàn ác, vô cùng tham lam bỉ ổi về các mặt thân, khẩu, ý nên phải đến nơi đó, sinh ở nẻo đó cho nên bị nghiệp báo phải đói khát, trải qua trăm ngàn vạn năm chẳng nghe thấy tiếng nước, nói chi là chuyện được ăn được uống. Bởi vậy gọi là nẻo quỷ. Hơn nữa vì chùng còn ấp ủ hi vọng nên gọi là Quỷ, ý nói trong sáu đường, bọn chúng còn đặt hy vọng vào con người để được ăn uống. Thêm nữa, quỷ còn có nghĩa là úy (tức là sợ hãi), vì chúng yếu hèn hay sợ hãi.
Hỏi: Thế chúng ở đâu?
Đáp: Hoặc chúng ở dưới địa ngục, ở trên núi, dưới biển, ở nơi đồng không mông quạnh, ở trong miếu, xóm, làng, ngõ, phố, trong dân gian, ở nhà xí, ở hoa quả rễ cội của cây cối, ở cây thuốc. Tóm lại ở đâu cũng có, chỉ có điều con người không trông thấy mà thôi. Dù con người có đi vào trong cung thất của chúng thì các cung thất đó cũng không bị sụp đổ, cũng như quỷ đi qua tường vách của con người mà tường vách đó cũng không bị xuyên thủng, bị hư hại vậy. Thần có nghĩa là năng lực. Kẻ có năng lực lớn thì có thể dời non lấp biển. Kẻ có năng lực nhỏ thì có thể ẩn hiện, biến hóa. Thêm nữa nếu là vô phúc, ti tiện mà quấy đảo thì gọi là quỷ. Hơn nữa, bọn chúng lại chia thành giàu nghèo, sang hèn đủ thứ khác nhau, chứ chẳng phải nhất loạt như nhau.
THUẬN CHÍNH LÝ LUẬN
Thuận Chính lý luận nói rằng: Quỷ có ba loại. Đó là loại không có của, loại ít của và loại nhiều của. Loại không của lại chia làm ba hạng: miệng lửa (cự khẩu), miệng kim (châm khẩu), miệng thối (xú khẩu). Loại quỷ miệng lửa (cự khẩu quỷ): loài quỷ này trong miệng thường phun lửa mạnh, rừng rực không tắt, thân như hình cây Đa-la bị cháy, đó là quả báo khổ sở do thói cực kỳ keo bẩn gây ra. Loài quỷ miệng kim (châm khẩu quỷ): loại này bụng to như núi, miệng nhỏ như lỗ chon kim, tuy nhìn thấy rất nhiều thức ăn ngon nhưng không hưởng thụ được, bị đói, bị khát không thể chịu nổi. Loài quỷ miệng thối (xú khẩu quỷ): loài quỷ này trong miệng luôn luôn bốc ra mùi cực kỳ hôi thối, tự mình bị mùi thối xông vào nên luôn luôn bị nôn ọe, dù có gặp thức ăn thức uống cũng không thể nào hưởng thụ được cho nên bị đói khát dày vò, phải kêu gào cuồng loạn, chạy cuống chạy cuồng.
Loại quỷ ít của cũng chia làm ba hạng là loại lông kim (châm mao), loại lông thối (xú mao), loại bướu to (đại anh).
-
Loại quỷ lông kim (châm mao): loại quỷ này lông lá trên người rắn, cứng nhọn sắc, không thể đến gần, trong thì tự đâm vào bản thân mình, ngoài thì bắn vào thân thể nhiều thứ khác như hươu trúng tên độc sợ chạy cuống cuồng, nếu gặp thứ bẩn thỉu cũng cứ ăn cho đỡ đói khát.
-
Loại quỷ lông thối (xú mao quỷ): loại này lông lá trên người rất thối, mùi thường nồng nặc khiến thịt xương bức sốt, ruột gan cồn cào lên tận cổ thành ra bị nôn ọe khổ sở, khiến cho thân bứt rứt khó chịu phải tự vặt lông làm cho rách da rách thịt, càng thêm khổ cực. Nếu gặp các thứ bẩn thỉu thì cũng cứ ăn để đỡ đói khát.
-
Loài quỷ bướu to (đại anh quỷ): loại này do nghiệp lực của việc nuốt các thứ ác độc nên mọc bướu to như cục thịt thừa to thây lầy, đau đớn ê ẩm nên chúng phải cắn xé lẫn nhau cho bướu vỡ ra, mỡ hôi trào ra thì chúng tranh nhau mà ăn cho đỡ đói.
Loại quỷ nhiều của cũng chia làm ba hạng: hạng hóng của cúng tế (lư từ quỷ), hạng hóng của bỏ đi (lư khứ quỷ), và hạng có thế lực lớn (đại thế quỷ).
-
Hạng hóng của cúng tế (lư từ quỷ): hạng quỷ này thường đến chỗ đền miếu thờ cúng hưởng thụ đồ cúng tế của người khác. Bọn chúng sinh ra bản tính đã sẵn thế, chúng thường đi đến các nơi khác như chim bay lướt qua khoảng không trung, trở đi trở lại không gì trở ngại. Do nghiệp lực thắng giải trước nên chúng nảy ra hy vọng như sau: nếu ta chết đi thì con cháu ta cũng thờ cúng ta, cung cấp cho ta ăn uống đầy đủ. Do lực thắng giải đó nên chúng sinh vào trong hạng quỷ này. Nhờ thiện nhân cũ nên cảm ứng được việc cúng tế đó. Hoặc có kẻ kiếp trước tính yêu bạn bè, muốn cho họ đều được đầy đủ sung túc, nhưng vì tích tụ của cải châu báu chẳng đúng phép tắc, cư xử keo kiệt, chẳng chịu bố thí nên do các nghiệp này mà phải sinh vào trong loại quỷ đó, phải ở ngay cạnh nhà mình trong các chỗ bẩn thỉu như hố tiêu, chuồng xí. Bạn bè nhớ tới bèn mời Sa môn, Phạm Chí (tu sý Bà-la-môn) cùng các kẻ côi cút cùng khổ đến cúng cấp bố thí cầu phúc. Lũ quỷ này nhìn thấy bèn nảy ra tư tường cho là của mình đối với bạn bè cũng là của cải của bạn bè, lại thấy rõ quả báo nhãn tiền của thói keo kiệt, trước sự bố thí đó bản thân sinh ra tịnh tín, tương tục sinh trưởng, xả tâm tương ứng, do đó thành thuận thiện pháp thu. Nhờ nghiệp lực đó mà được tư cấp sung tấp.
-
Hạng quỷ hóng của bỏ đi (lư khứ quỷ): là hạng chỉ hòng vơ vét các thứ thế phế thải của người ta nôn ọe ra để làm thức ăn cũng được sung túc. Đó là do kiếp trước bọn này đã mắc tội keo bẩn cho nên chỗ nào có thứ có thể ăn uống được dù thấy ô uế cũng coi như không, dù thấy ô uế cũng cho là sạch. Lại do phúc báo của kiếp hiện tại ứng với hạng này thảy đều được sung túc, đồ ăn thức uống sinh ra đã có. Thụ báo khác nhau, không thể suy luận nói cho biết được. Như nẻo địa ngục, các sắc tướng Dị Thục sinh đứt rồi lại nối, còn nẻo khác thì không. Trong nẻo người thì có các chuyện Thắng niệm trí, tu Phạm hạnh…. còn các nẻo khác thì không. Như trong nẻo Trời, muốn thì mọi thứ đều hiện ra. Các chuyện như vậy ngay trong các nẻo sinh khác đều đã có sẵn như vậy, không thể tìm ra hạn lượng nhất định ở trong đó.
-
Hạng quỷ có thế lực lớn (đại thế quỷ): là loại tốt trong loài quỷ như Bà Sa Luận đã nói. Như hạng quỷ có uy đức thì hình dung đoan chính, chẳng khác chư Thiên. Thêm nữa hết thảy các thần sông biển, năm núi, bốn sông phần nhiều đều đoan chính nên gọi là tốt, là đẹp. Còn hạng xấu trong loài quỷ chỉ hàng quỷ không có uy đức, hình dáng xấu xí không thể tả xiết, có như mõm chó đói, đầu rối như cỏ bồng, họng nhỏ như chôn kim, chân khô như cây mục, miệng thường nhỏ rớt dãi, mũi luôn chảy nước mũi, trong tai có mủ, trong mắt chảy máu, các loại như vậy là loại đại xấu.
Thêm nữa, hạng khổ trong loại quỷ đó là hạng quỷ không có uy đức, luôn luôn đói khát, cả năm chẳng nghe thấy tiếng nước, tiếng hồ nói chi đến gặp những của ngon vật lạ. Dẫu gặp được sông to muốn uống, nước kia cũng lập tức biến thành đám lửa, có ăn vào miệng bụng cũng sẽ bị thiêu đốt cháy rụi. Những hạng như vậy há chẳng khổ! Hạng sướng trong loài quỷ là hạng giàu có béo tốt trong loại quỷ có uy đức. Bọn chúng ăn uống, quần áo tự nhiên, thân mặc áo trời, miệng ăn cỗ trời, hình dung đẹp đẽ thoải mái lên xe xuống ngựa thả sức ngao du có khác gì trời. Loài quỷ như vậy há chẳng sướng ư? Hỏi: “Đã được sung sướng như vậy thì tức là hơn cả con người, vậy mà sao trong kinh lại nói rằng: “Người và quỷ là khác nẻo?”. Đáp: “Kinh nói: quỷ thần không bằng nẻo người”. Đại để có hai ý: một là phần thụ báo biểu hiện không được bằng loài người, vì quỷ thần kia ban ngày thì phải ẩn nấp, ban đêm mới rong chơi. Thứ hai là quỷ thần yếu ớt nhút nhát phải sợ hãi nhiều thứ, không được như người. Bọn chúng đều có uy đức nhưng vì thụ báo thấp kém nên thường sợ người. Dù ban ngày ban đêm chúng có gặp người chúng cũng luôn luôn phải trốn tránh, ẩn nấp. Hỏi: “Đã kém người sao lại được uy đức, được thụ báo giống như Trời?”. Đáp:” Song do tiền thân ra sức bố thí nên được thụ uy báo. Do tiền thân xiểm nịnh gian dối nên phải thụ báo sinh vào nẻo quỷ”.
Trong loài quỷ lại có sự phân biệt sang hèn. Nếu có uy đức thì gọi là sang, không có uy đức thì gọi là hèn. Thêm nữa kẻ được làm vua quỷ thì gọi là sang, kẻ bị sai khiến thì tức là hèn. Hỏi: “Còn chuyện giàu nghèo thì thế nào?”. Đáp: “Kẻ nào có nhiều uy đức, có nhiều đồ ăn thức mặc, nhiều tôi tớ, được tự tại thì gọi là giàu. Còn kẻ nào bản thân luôn luôn bị gò bó, bị sai khiến, cơm hẩm chẳng có, áo rách cũng không, những loại như vậy thì gọi là nghèo”. Thêm nữa, kẻ nào có uy đức, hoặc ở trong hang núi, hoặc ở bờ biển, hoặc ở trong không trung nhưng đều có cung điện được trang trí bằng thất bảo, đầu đội vòng hoa, mình mặc áo Trời, ăn món cam lộ, giống như con Trời, cưỡi voi ngựa, đi xe cộ, ai nấy vui chơi, quả báo hơn người, hết thảy thần núi thần sông đều có nhà cửa nương tựa vào đó mà trụ lại. Kẻ không có uy đức như loài quỷ lang thang vật vờ không có nhà cửa, hoặc nương phần mộ, hoặc ở trong rừng rú, cây cỏ hang hốc hoặc nương náu ở chỗ phân tro bẩn thỉu, hoặc ở chỗ chuồng xí, cầu tiêu, mả cũ. Bọn chúng đều không nhà, không cửa, đầu tóc bù xù, trên mình không quần không áo, hình dáng tiều tụy, lấy tóc che thân, tay cầm bát sành mà đi ăn xin. Những kẻ quả báo kém người, hình dáng phần nhiều cũng như người. Cũng có loại khác hoặc mặt tựa lợn, hoặc giống các loại cầm thú hung ác như tranh vẽ trên tường ngày nay. Trang nghiêm luận viết rằng: Phật dạy xưa có một lái buôn lớn tên là Ức Nhĩ, xuống biển tìm châu báu, mua được rồi mang về, nghỉ trọ khác chỗ các bạn, rồi lạc bạn bơ vơ, bị đói bị khác, xa xa nhìn thấy một tòa thành, cho rằng ở đó có nước, liền đến bên thành định tìm nước uống. Song tòa thành này chính là thành của quỷ đói. Người lái buôn đó đi vào trong thành, đi đến ngã tư chỗ người đông đúc chẳng thấy gì bèn kêu: “Nước! Nước!”. Bọn quỷ đói nghe tiếng hô “Nước!” thì đều xúm đến xem ai là kẻ từ bi mà lại định mang cho ta nước uống như vậy. Bọn quỷ đói đó đều thân hình như cột nhà cháy, tóc quấn lấy người, chạy lại chắp tay mà van rằng: “Cho chúng tôi nước!”. Ức Nhĩ đáp: “Tôi bị khát quá nên mới đến đây để mà kiếm nước!”. Bấy giờ bọn quỷ nghe nói Ức Nhĩ khát quá cũng đến để kiếm nước thì mọi hy vọng đều tất ngấm, ai nấy đều thở dài nói: “Anh không biết ư? Đây là thành của quỷ đói thì làm sao mà có thể kiếm cho ra nước ở trong đó được”.
Nguyên chú: Dị thục sinh sắc tức là quả báo sinh thân.
Trang Nghiêm luận đó là tác phẩm của Mã Minh Bồ Tát tập chú kinh Phật. Tứ Thiên Vương và Đao Lợi Thiên chỉ có đại uy đức quỷ cùng chư thiên chúng canh gác giữ cửa là làm các việc đưa đón hầu hạ.
Kinh Chính Pháp Niệm viết rằng: Phật dạy tổng số quỷ đói chia làm 36 loại, vì hành động khác nhau nên thụ báo cũng khác nhau.
Một là Hoạch thán quỷ - quỷ thân trong vạc: do được thuê mướn mà làm chuyện sát sinh thì phải chịu quả báo là bị luộc trong vạc sôi. Hoặc nhận thứ của người rồi bầy nhầy không chịu trả lại thì cũng phải chịu quả báo này.
Hai là Châm khẩu xú quỷ - quỷ thối miệng kim: dùng tiền thuê người làm chuyện giết chóc nên họng nhỏ tựa mũi kim, giọt nước chẳng lọt.
Ba là Thực thổ quỷ - quỷ ăn vào nôn ra: chồng khuyên vợ bố thí nhưng vợ tiếc rẻ nói không có của sẵn, keo xỉn nên ăn thường bị nôn.
Bốn là Thực phân quỷ - vì lừa dối chồng, ăn vụng ăn trộm. Vợ chồng ác thì bị quả báo làm quỷ ăn thứ người ta mửa ra hoặc ăn phân tro.
Năm là Thực thực quỷ: do cấm người khác ăn uống khiến người ta bị chết thì bị lửa thiêu, phải khổ sở kêu gào vì đói khát.
Sáu là Thực khí quỷ - quỷ ăn hơi: tham ăn của ngon, không cho vợ con, sẽ bị luôn luôn đói khát chỉ được ăn hơi thối.
Bảy là Thực pháp quỷ: vì cầu tài cầu lợi mà thuyết pháp cho người thân thường bị đói khát, thịt trên người bị tiêu hết, nhờ Tăng thuyết pháp nên tính mệnh mới còn.
Tám là Thực thủy quỷ: bán rượu pha nước, đánh lừa người ngu, không giữ trai giới thì thường bị tiêu khát.
Chín là Hy vọng quỷ: do mua bán tranh giá, lừa người lấy của thì thường bị đói khát, gặp kỳ cúng tế vong linh người xưa thì được ăn uống.
Mười là Thực thóa quỷ - quỷ ăn nước bọt: vì ăn bẩn, lừa người xuất gia nên thân thường bị đói khát, thường bị nung nấu thiêu đốt, phải xin nước bọt của người và ăn các thứ bẩn thỉu.
Mười một là Thực man quỷ: vì kiếp trước ăn trộm vòng hoa của Phật để tự trang sức. Nếu người ta có công việc thì phải đem vòng hoa để cúng tế thì mới được man thực. Hoa chuỗi thành vòng thì gọi là man.
Mười hai là Thực huyết quỷ - quỷ ăn máu: do sát sinh ăn máu, không cho vợ nên phải làm loại quỷ này. Hơn nữa bị thụ báo làm hạng quỷ này thì thân bị sơn bằng máu, khi nào cúng tế mới được ăn.
Mười ba là Thực nhục quỷ - quỷ ăn thịt: do giết hại chúng sinh, mổ thịt đem cân, mua bán lừa lọc nên phải chịu quả báo này. Bọn quỷ này trí trá xấu xí, bị người ta ghét chẳng thèm nhìn. Khi nào có việc cúng tế bằng thịt thà tạp nhạp mới được ăn.
Mười bốn là Thực hương quỷ - quỷ ăn nhang: do bán hương xấu lại lấy nhiều tiền. Loại này chỉ ăn hương khói, sau bị thụ báo.
Mười lăm là Tật hành quỷ: nếu kẻ nào pháp giới mà mặc pháp phục, lửa đảo lấy tiền nói là để cho người ốm, nhưng cuối cùng lại không cho người ta, tự mình ăn đi thì sẽ bị quả báo này, phải luôn luôn ăn những thứ bẩn thỉu, tự thiêu đốt mình.
Mười sáu là Tứ tiện quỷ: vì mưu mánh lửa đảo để lấy của người, không tu phúc nghiệp thì bị quả báo này, lông trên người sẽ bốc lửa, phải ăn những thứ bẩn thỉu trong khí lực của người ta để mà tự sống.
Mười bảy là Hắc ám quỷ: do làm sai pháp luật để vòi tiền, bắt người ta vào trong ngục, khiến người ta mắt chẳng thấy gì, miệng phải luôn luôn kêu la thảm thiết thì bị thụ báo đẩy vào chỗ tăm tối đầy rẫy rắn độc, thân bị khổ sở đau đớn như dao cắt.
Mười tám là Đại lực quỷ: do lấy trộm cắp của người cho bạn bè xấu, chẳng bỏ ra làm điều phúc đức thì bị quả báo này, tuy đại lực thần thông nhưng bị nhiều khổ não.
Mười chín là Xí nhiêu quỷ: vì phá thành cướp bóc, giết hại trăm họ nên phải chịu quả báo này. Miệng phải gào khóc, thân bị lửa thiêu, chết đọa địa ngục, sau này dù có được sinh làm người cũng thường hay bị cướp bóc.
Hai mươi là Tứ anh nhi tiện quỷ - quỷ rình ăn cứt trẻ con: là giết trẻ con, sinh lòng giận dữ nhân bị quả báo này, thường rình người đi đại tiểu tiện, có thể làm hại trẻ con.
Hai mươi mốt là Dục sắc quỷ: do thích dâm dật, được của không chịu làm phúc, nhân đó là thụ báo này, rong chơi nhân gian, giao hợp với người, làm chuyện yêu quái xằng bậy để cầu mạng sống.
Hai mươi hai là Hải chữ quỷ - quỷ ở bãi biển: do đi ở nơi đồng không mông quạnh, thấy người ốm yếu khổ sở lừa lọc người ta để lấy của cải thì sẽ bị quả báo phải sinh trong bãi biển, bị khổ sở vì nóng lạnh gấp mười lần nỗi khổ sở của con người.
Hai mươi ba là Diêm La vương chấp trương quỷ: do đời trước được thân cận quốc vương đại thần chuyên làm những việc tàn bạo, bạo ác, nhân đó mà bị quả báo này phải làm quỷ để Diêm Vương sai khiến, là quỷ cầm binh khí theo hầu Diêm Vương.
Hai mươi bốn là Thực tiểu nhi quỷ - quỷ ăn trẻ con: do thuyết chú thuật, lửa đảo người ta để lấy của, giết hại dê lợn, chết đọa địa ngục, sau thụ báo này, thường ăn thịt trẻ con.
Hai mươi lăm là Thực tinh khí quỷ - quỷ ăn tinh khí: do giả làm bạn thân nói rằng tôi sẽ bảo vệ anh rồi khiến người ta hăng hái xông pha trận mạc rồi bị chết mà không cứu giúp nên bị quả báo này.
Hai mươi sáu là La sát quỷ - quỷ la sát: vì giết sinh mạng để mở hội hè nên bị quả báo này, bị lửa đói thiêu đốt.
Hai mươi bảy là Thiêu thực quỷ: do tính keo bẩn ghen ghét che lấp bản tâm, thích ăn của Tăng, trước đọa địa ngục, từ địa ngục ra bị quả báo này, bị lửa lò đốt thân.
Hai mươi tám là loại Bất tịnh họng mạch quỷ: vì đem các thức ăn bẩn thỉu cho người tu hành nên bị quả báo phải ăn những thứ không sạch sẽ.
Hai mươi chín là thực phong quỷ: vì thấy người xuất gia đến xin ăn, đã hứa cho rồi lại không bố thí cho ăn nên phải chịu quả báo này, luôn luôn bị đói khát, khổ sở như ở trong địa ngục.
Ba mươi là loại Thực thán quỷ: vì coi việc xét xử giam cầm các phạm nhân ở trong ngục, đã cấm không cho họ ăn uống nên bị quả báo này, thường phải nuốt than hồng.
Ba mươi mốt là Thực độc quỷ: vì dùng thuốc độc làm cho người ta phải mất mạng nên phải đọa vào địa ngục, sau ra làm quỷ, thường bị đói khát, phải luôn luôn ăn các thứ độc, bị lửa thiêu thân.
Ba mươi hai là Khoáng dã quỷ: do đã đào ao, đào hố, đào giếng ở các nơi đồng không mông quạnh, đào xong đã cho người nhưng lại quyết tâm phá đi, khiến người qua đường bị khát nên bị quả báo này, thường bị đói khát, bị lửa thiêu thân.
Ba mươi ba là Chủng gian thực khôi thổ quỷ - quỷ ăn tro đất ở bãi tha ma: vì ăn trộm hoa của Phật, bán để sinh sống, cho nên bị quả báo này, thường phải ăn ở chỗ người chết, ăn tro nóng của người bị thiêu xác.
Ba mươi tư là Thụ hạ trụ quỷ: vì thấy người ta trồng cây để lấy bóng mát cho người, bản thân đã ác tâm đốn chặt lấy gốc về dùng nên bị đọa vào trong cây, bị khổ vì nóng lạnh.
Ba mươi lăm là Giao đạo quỷ: do ăn trộm lương thực của người đi đường, vì nghiệp ác đó nên thường bị cưa sắt cưa vào người, dựa vào các chỗ ngã ba ngã bảy có việc tế tự để kiếm ăn.
Ba mươi sáu là Ma la quỷ: do theo tà đạo, không tin điều chân chính nên bị đọa làm ma quỷ, thường phá hoại thiện pháp của người khác.
Nên đối với người khác mà sinh ra bụng tham lam, ghen ghét gian nịnh, gièm pha, lừa đảo hoặc lại keo bẩn, gian tham, ky cóp của cải, không chịu bố thí thì đều phải sinh ở nẻo quỷ (quỷ đạo).
Từ loài quỷ mà chết đi thì phần nhiều sinh vào nẻo súc sinh, làm thân chim gà tra cá, luôn bị đói khát, rất khổ não, chỉ uống nước mưa từ trên trời, há miệng mà hứng, không được uống nước gì khác cho nên thường bị khốn đốn vì đói khát. (Tục gọi loài chim này là Điểu thiên ông).
Kinh Nghiệp báo sai biệt nói: “Nếu làm đủ mười nghiệp ác thì phải sinh vào ngã quỷ (quỷ đói). Một là thân làm điều ác nhẹ; Hai là khẩu làm điều ác nhẹ; Ba là ý làm điều ác nhẹ; Bốn là keo bẩn tham lam; Năm là gây ra điều ác không đúng phận mình mà muốn vơ lấy; Sáu là xiểm nịnh ghen ghét; Bảy là nảy ra tà kiến; Tám là tham bám sự sống, dù đã mệnh chung; Chín là bị khát mà chết; Mười là khát khô mà chết. Do các nghiệp trên sẽ phải sinh vào loài ngã quỷ.
Đại Trí luận viết rằng: Có khi có loài ngã quỷ, kiếp trước ác khẩu, thích dùng những lời thô tục đối với chúng sinh, bị chúng sinh ghét, coi như kẻ thù. Do các tội đó phải đọa vào trong loài ngã quỷ. (Luận này có một trăm quyển là tác phẩm của Long Thọ Bồ Tát chú thích Kinh Đại phẩm Bát Nhã).
Kinh Pháp cú nói: Phật dạy rằng dẫu làm Sa môn nhưng không chịu gìn giữ thân, khẩu, nói lời thô lỗ, độc mồm ác miệng, xúc phạm nhiều người, bị mọi người ghét, trí giả chẳng thương, thân chết thần đi, luân chuyển ba đường, tự sinh tự tử, khổ não vô lượng, chư Phật Thánh hiền chẳng thèm thương tiếc. Giả sử chúng sinh thân dẫu chẳng có tội lỗi, nhưng không thận trọng về khẩu nghiệp cũng sẽ bị đọa vào nẻo ác. Cho nên Đại luận kể rằng: Lúc bấy giờ có một con quỷ đầu như đầu lợn, có giòi thối từ trong miệng bò ra, thân có ánh vàng sáng chói. Con quỷ đó vì kiếp trước làm Tỳ kheo, lại ác khẩu chửi bới vị Tỳ kheo là khách, thân từ tịnh giới nên thân có ánh sáng, miệng nói lời ác nên giòi thối từ miệng bò ra.
Kinh Pháp tạng kể rằng: xưa Tôn giả Xà Dạ Da La hán dẫn các đệ tử đến thành Đức Xoa Thi La, khi tới thành rồi buồn rầu không vui, đệ tử kêu hỏi thầy: “Xin thầy nói rõ nhân duyên”. Tôn giả đáp: “Ta mới tới thành, thấy dưới cửa thành có một con quỷ đói quá bảo ta: “Mẹ tôi vào thành để xin ăn cho tôi ăn. Từ khi mẹ tôi đi đến nay đã năm trăm năm, tôi bị đói khát thiếu thốn sắp chết đến nơi. Tôn giả vào thành nếu thấy mẹ tôi nói giúp là tôi rất khổ sở, mong mẹ mau tới”. Ta mới vào thành đã gặp mẹ hắn, kể cho mẹ hắn nghe hết mọi nguồn cơn và mọi ý muốn của hắn. Mẹ hắn đáp rằng: “Từ lúc tôi vào thành đến nay đã năm trăm năm mà chưa thấy người nào nhổ bọt nhổ rãi. Tôi mới sinh đẻ, khí lực suy yếu, dù có được một ít bọt rãi thì các quỷ khác cũng sẽ cướp mất. Nay gặp một người được ít nước bọt định mang ra khỏi thành để chia cho con tôi, mẹ con cùng ăn. Nhưng dưới cửa có nhiều quỷ thần có thế lực lớn nên tôi sợ không dám ra. Mong Tôn giả đưa tôi ra khỏi thành”. Ta liền đưa mụ ra để mụ cùng ăn với con. Ta lại hỏi quỷ sinh ra được bao lâu? Quỷ trả lời ta rằng: “Tôi đã thấy được thành này bảy lần thành hoại”. Ta nghe quỷ nói liền buồn cho nỗi sinh tử, bị khổ lâu dài. Chính vì thế mà ta buồn rầu”.
Kinh Ưu Bà Tắc nói: loài ngã quỷ trường thọ nhất sống một vạn năm ngàn tuổi. Cứ năm ngàn năm của nhân gian thì bằng một ngày một đêm của loại ngã quỷ. Và loài ngã quỷ đã thọ một vạn năm ngàn tuổi với ngày đêm như vậy (tính ra số năm tháng của nhân gian thì bằng hai ngàn bảy trăm vạn năm).
Kinh Chính Pháp Niệm nói: có loài quỷ thọ năm trăm tuổi. Cứ một trăm năm của thế gian thì bằng một ngày đêm của bọn ngã quỷ. Và bọn quỷ đã thọ năm trăm tuổi với ngày đêm như vậy (nếu tính theo năm tháng của thế gian thì bằng một trăm tám mươi vạn năm). Thọ mệnh dài ngắn như trên là do nghiệp của chúng có loại nặng, có loại nhẹ nên quả báo thấy được cũng khác nhau.
Phân Biệt Công Đức luận kể rằng: có vị Sa môn tu thiền ở bãi tha ma, quán các xác chết. Đêm thấy ngã quỷ đánh một xác chết. Vị Sa môn đó hỏi: “Vì sao lại đánh xác chết?”. Quỷ đáp: “Cái xác này đã làm cho tôi khốn đốn đến nước này nên tôi đánh”. Sa môn hỏi: “Sao không đánh tâm người? Đánh xác chết phỏng có ích gì?”.
Lại có một vị trời lấy hoa trời rắc lên cái xác thối đó. Vị trời đó đáp: “Nhờ các xác chết này mà tôi được sinh lên cõi trời. Xác này chính là bạn của tôi, cho nên tôi phải báo đáp ơn xưa!”. Sa môn nói: “Sao không rắc lên tâm người. Nguồn gốc gây ra thiện ác đều do tâm gây ra. Thế mà sao lại bỏ cái gốc đi câu cắt ngọn”.
(Trích "Lục đạo tập")
TT. Thích Viên Thành
Nguồn: NXB Hải Phòng)
- 5406
Viết bình luận