Hà Ngưng | Đại Bảo Tháp Mandala Tây Thiên | Đại Bảo Tháp | Đại Bảo Tháp Tây Thiên

Hà Ngưng

Hà Ngưng

Lâm Tôn Tê tên là Hà Ngưng, ở trong Yên Hoàn, phía bên phải lò Loa Cương, xã Long Sơn, là cháu trưởng của thái sư Công. Phái bên phải nhà có một lầu sách. Bên phải lò có một cái ao nhỏ. Hiên trên ao gọi là Hành – đạm – tạ. Sân thì gọi là phương châu. Ở đó trúc cây hoa quả sum suê. Ngưng cùng Đàn Sán Thúc đọc sách. Mơ thi xã ở trong đó. Có các vị Khang Tôn, Nông, Đặng, Hồ đến học Hán Thúc. Một đêm tháng năm năm Quý Sửu, niên hiệu Khang Hy, cát đá từ trên không rơi xuống nhiều lần ở bên ngoài cửa sổ phòng bên phải dưới lầu, làm mọi người trong thi xã phải sửng sốt. Từ ngày mồng bảy cho tới ngày 21 tháng 6, quái dị nhiều lần xuất hiện. Sán giận chửi mà vẫn chẳng thôi. Ngưng bèn bảo Sán: “Đích thực là quỷ đấy. Hai ta hãy thành kính cúng quỷ, xin quỷ đừng trêu nữa. Nếu chúng mình thất đức mà quỷ ra tay dáng họa thì đâu dám từ, bằng không thì ta có gì mà ân hận nữa”.

Thế rồi ngay tối đó biện rượu thịt cáo với thổ thần và còn cúng cả quỷ mà khấn rằng: “Chỗ ở của ta trong sạch yên vui, bạn bè của ta tôn kính lâu dài, lòng dạ của ta trong trắng thấu trời, ông cháu cha con chọn nhà ở đây đã hai mươi năm trời, không phải lo sợ gì. Nay cớ sao quỷ lại kéo đến làm loạn trên chiếu văn của ta. Phải chăng là ta thất đức, hay ngươi có điều gì oan ức. Ngươi là nam hay là nữ? Chớ có sớm tối trêu ghẹo ta. Nếu ngươi có ương bướng ngu muội thì thần minh sẽ tru diệt ngươi!”. Tế xong Ngưng còn ngồi một mình để chờ xem có gì hiển hiện không. Tới canh năm, khi đó trăng sáng như ban ngày, Ngưng bèn đi dạo dưới hành lang, bỗng nhìn thấy một chiếc hòm xách tay, mở ra thì thấy phía trên có một chiếc quạt vàng xòe, trên quạt có chiếc mũ của nữ, dưới quạt có giầy của nữ, đều là các thứ bán ở hiệu vàng mã ở chợ. Ngoài ra còn có một chiếc chén uống rượu. Cậy ở góc hòm mở ra xem thì thấy thịt vừa mới cúng tế vừa rồi, trên khắc chữ “Khứ” (bỏ đi). Hòm là vật của Hồ Tử, vốn đã khóa kỹ nhưng đã mở ra được và vật ở đó. Đêm ngày 24 vẫn có rất nhiều hiện tượng quái dị.

Tới tối 25 lại có rất nhiều cát bay xuống. Ngưng bực mình mắng rằng: “Ai làm ngươi oan cứ nói toạc ra, chứ làm sao mà cứ quấy rầy mãi ta như vậy được?”. Lát sau thì thấy bên cạnh chỗ ngồi chiếc lá bằng gỗ, khắc hình lá đào, các vân trên lá, trái phải lồi lõm, cuống nhánh đều đầy đủ, dài tám tấc, rộng bảy tấc, trên bôi phấn sáp và có đề hai câu: “Cố nhân ngộ ngã kim đồ báo. Nguyệt hạ chư quân vật quái khiên”. (Người cổ hại ta nay phải báo. Chư quân dưới nguyệt chớ trách chi). Ngưng cùng Sán xem rồi nói: “Quả có điều oan trái ư? Cố Nguyệt có nghĩa là chuyện của Hồ Tử”. Ngưng nói: “Nay đưa giấy bút cho ngươi, ngươi hãy mách bảo tường tận cho ta biết, ta sẽ lễ Phật để cầu Phật độ cho ngươi”. Tối ngày 27 bắt được ở trước cửa Hồ Tử một bài thơ thất ngôn đường luật, một bài thơ ngũ ngôn tuyệt cú và một bài từ. Bài luận thì viết:

Chư quân mệnh thiếp xiến u tư

Cố tình để khởi bất thặng bi

Nguyệt để giai nhân ung hữu hậu

Phong thiềm học sỹ vật do nghi

Vạn chủng sầu hoài tu dục báo

Thập niên oan trái thủ chi trì

Hành hành ngã diệc tầm tung tích

Nhâm tấu thiên nhai ngã diệc trì.

Dịch:

Các ông bảo thiếp nói rõ tấm lòng u uẩn

Nhưng nhắc lại tình xưa buồn không chịu nổi.

Người đẹp dưới trăng hẳn có mối hận

Xin các học sỹ trong thềm gió chớ có nghi ngờ

Muôn nỗi u sầu trong lòng nay định trả thù

Mười năm oan trái hiện vẫn còn giữ

Đi đâu tôi cũng tìm theo dấu vết

Dù có chạy đến chân trời tôi cũng vẫn biết.

Dịch 2:

Các vị bảo tôi giải nỗi niềm

Tình xưa nhắc lại chỉ buồn thêm

Dưới trăng người đẹp đành ôm hận

Trong gió u sầu nay định báo

Mười năm oan trái nọ vẫn gìn

Đi đâu tôi cũng tìm được đến

Chạy đến chân trời cũng biết tin


Bài ngũ ngôn tuyệt cú viết:

Cuồng phong ngự liễu thì

Kinh tính tự thương bi

Nhược liên quân mệnh đoản

Giao thiệp tao quy y.

Dịch:

Lúc trận cuồng phong đè lên liễu yếu.

Giếng vàng tự thấy buồn thương

Nếu có thương chàng sợ chàng mệnh đoản

Thì hãy sớm giúp cho thiếp quy y.

(Cuồng phong đè lên liễu yếu

Giếng vàng tự thương bi

Nếu thương chàng mệnh đoản

Giúp thiếp sớm quy y)

(Thương chàng: là chỉ Hổ Tử)


Bài từ viết:

Sầu thường dục tiết

Chỉ đãi thời quai mệnh liệt

Chư quân hà tất uống lao tư

Các tự môn tiền tào tuyết.


Dịch:

Nỗi lòng sầu bi muốn phát tiết ra

Chỉ đợi lúc vận mệnh rủi kém

Các ông cần chi phải nghĩ ngợi cho mệt

Tuyết trước cửa ai thì người ấy quét.

Ngưng bèn cùng Sán bảo nhau sửa tế cúng Phật để cầu siêu cho quỷ. Nói: “Nếu ngươi quy y Phật pháp, há lại chẳng có họ tên mà được ư! Lát sau trước cửa sổ lại bắt được một bài thơ. Thơ rằng:

Phi thanh, phi bạch, diệc phi hồng

Thiếp tưởng thâm khuê trách hướng đông

Quan vị thủy vương Danh Hợi Tử

Hà tất đa nghi tại cá trung.

Dịch:

Chẳng phải là xanh, chẳng là trắng, cũng chẳng là hồng

Thiếp lớn lên trong khuê phòng sâu kín, nhà quay hướng Đông

Chàng là Hợi Tử của Thủy Vương Doanh

Còn gì mà phải nghi ngờ mãi mãi

(Chỉ Hồ Tử. Xưa con Tần Thủy Hoàng Doanh Chính tên là Hồ Hợi. Đây được dùng làm ẩn ngữ để chỉ Hồ Tử).

Ngưng hiểu được ý đại khái của bài thơ. Nhưng còn đòi quỷ viết hẳn họ tên ra để đưa vào pháp sư điệp. Lát sau bắt được một bức thư nói: “Thiếp đã nói hết rồi, cần gì mà phải chi ly thế! Thiếp tuy có nhũ danh nhưng nói ra càng thêm đau lòng, cần chi phải lôi thôi làm vậy?”.  Hôm sau, chú thứ ba của Ngưng mộ chuyện quái dị này, đến thăm Hán Thúc, Hồ Tử và Ngưng. Bốn người cùng đoán xem ẩn ngữ trong bài thơ ngụ ý chỉ ai, nhưng Hồ Tử vẫn cố chống chế biện bạch về chữ Hội Tử. Ngưng bèn cáu tiết nói: “Hội Tử là người nào? Dù là ông Lâm hay ông Đàm cũng cứ nói ra, có gì mà phải kiêng kỵ?”.

Lát sau thì thấy dưới bản thân sớ điệp có một bức thư và một bài thơ (văn nhiều, không trích). Tới danh thự thấy có tiếng động, cầm đèn soi thì bắt được một bài thơ và một bức thư. Thư rằng: “Nay núi nhờ ơn được chư vị làm lễ siêu độ cho thiếp, thì xin các quý vị cứ làm 360 bộ quần áo, lại xin 30 cân tiền để tế rộng rãi khắp hết thảy các u hồn, mở một lễ hội Vu Lan cho thiếp. Như vậy thì sẽ cảm ơn rất sâu, chứ cần gì phải đòi hỏi họ tên mà làm chi. Thiếp vốn không có tội, chẳng bao lâu sẽ ra làm người, chẳng siêu độ cũng vẫn được. làm sớ điệp đó không phải chỉ làm một mình thiếp, mà chỉ có thể làm để cầu siêu chúng cho mọi u hồn. Nếu không thì tức là thiếp tự dưng mà lại ân huệ của các ông. Ở dưới âm phủ có câu: Một chữ cũng phải báo đáp! Dầu các ông chẳng tiếc gì nhưng ngộ nhỡ tôi lại phải làm các kiếp súc sinh khoác lông đội sừng thì há lại chẳng làm tăng thêm một kiếp tội lỗi ư? Như vậy thì chẳng phải là giúp thiếp đâu, mà chỉ làm tăng thêm cái tội của thiếp mà thôi. Vì sao vậy? Vì các vị chẳng phải là kẻ thù của tôi nên tôi chả dám nhận sằng. Bởi vậy các vị chỉ có thể làm lễ cầu siêu chung cho tất cả các u hồn rồi gộp cả tôi vào trong số đó. Nếu là kẻ thù thì dẫu các vị có làm lễ cầu siêu bảy ngày đêm liền thì cũng có thể nhận được. Hội Tử chẳng phải là hai vị tướng công đây, vậy việc gì mà phải nổi cơn thịnh nộ”.

Tải Thuyết và Sán nói: “Câu chuyện đã rõ rồi! Có tài như vậy không biết có thể tặng cho chúng tôi một bài thơ ở trên sập ngoài, phòng bên phải đề là thơ tặng Lâm Tam Lão (chỉ Lâm Tải Thuyết)”. Tải thuyết liền cất lấy và họa lại. Sáng hôm sau bắt được một bức thư dưới đáy nghiên, viết rằng: “Xin bỏ hai chữ “oan ức” và những lời nói về thiếp trong sớ. Xin làm ơn bỏ đi”. Ngày 29 mời ba vị thượng nhân tới, chọn ngày mùng một sẽ làm pháp sự. Đêm đó các bạn sang ngồi trong trai phòng xem bày Phật sự. Bèn thấy trên lầu có tiếng động, sau đó liền bắt được hai bài thơ đường luật. Một bài đề là: “Cảm xúc khi ở nhà ao phương châu nhân dịp tới thăm trang Yên Hoàn”. Bấy giờ hai ông Tôn, Khang mới nói rằng: “Chúng tôi ở cùng một chỗ với người, thường được thấy dấu lạ, há lại chẳng cho chúng tôi xin người một bài thơ hay được ư!”. Nói chưa dứt lời liền được ngay một bài thơ đề trên vách của ông Tôn, đề là: “Gửi gắm nỗi lòng nhân dịp cùng hai vị quốc sỹ Tôn, Khang ngự chung ở nhà ao phương châu!’. Tới ngày 1 tháng 7 mời mọi người đến làm lễ Vu lan bồn. Các ông Lê, Hoang, Ôn, Mông cùng chú ruột, em trai của Ngưng tất cả bảy người cư sỹ đến làm lễ ở trên. Sán rập đầu lễ, cầm lư hương vô cùng thánh kính.

Chập tối Sán đọc chúc cầu khấn thay cho Hồ Tử, kẻ xa người gần xúm đến xem ở chung quanh, có đến hàng trăm người. Bỗng có hai bài thơ từ trên không trung bay xuống, một bài đề là: “Tặng Ôn tướng công”. Một bài đề là: “Đáp người đọc chúc khẩn hộ là Đàm Tử Công”. (bút tích bài thơ này xin kèm ở trang sau). Bấy giờ Hồ Tử không còn có thể giấu diếm được nữa, bèn quỳ lạy sợ sệt. Đêm đó thí thực pháp sự xong, ai nấy về nghỉ. Thế thượng nhân vẫn còn hướng ra ao mà tụng thầm các câu mật chú trong kinh Lăng Nghiêm, cầu cho quỷ chóng đi. Ngưng và Lê Trụ Quang cũng cầu nguyện cho quỷ nhờ pháp lực sẽ được siêu sinh và đừng nấn ná. Bấy giờ thơ dài, thơ ngắn rơi xuống tới tấp. Một bài đề là: “Kính cầu tạ ơn hai vị đại sư”. Vâng mệnh ắt phải nhờ sức Phật giúp. Nhưng cho tôi được nói chuyện một nửa đêm rồi đi! Các sư thấy thế nào?”. Thơ rằng:

Khổ thử từ bi pháp sỹ tiền

Mẫn du cô hồn muộn yêm yêm

Tạ lục siêu thăng phi độc ngã

Chu hồn hàm trượng, tảo binh thiên

Anh linh mỹ dự hà khám thụ

Đâu phàm cơ sự bất ứng nghiên

Minh nhật nhị sư siêu Tịnh Độ

Cảm khất dương chi tọa bảo liên.

Dịch 1:

Xin cúi đầu lạy trước pháp sỹ từ bi, thương tôi hồn côi rất là buồn tủi. Nhờ Phật lực được siêu thăng chẳng phải chỉ riêng một mình tôi, các u hồn đều nhờ ơn mà được sinh lên cõi Trời, tiếng tốt anh linh đâu có dám nhận, nhưng mọi sự đều không nên nói. Mai đây hai thầy về nơi trời Tịnh Độ, dám xin cành dương ngồi trên sen báu).

Dịch 2:

Cúi đầu lạy trước đấng từ bi

Thương xót hồn tôi kẻ bơ vơ

U hồn đều được lên thiên giới

Siêu thăng nào chỉ một tôi nhờ

Anh linh tiếng tốt nào kham nổi.

U ân đừng để lộ sự cơ.

Mai ngày hai vị về Tịnh Độ

Sen báu, cành dương sẵn một tàn.

Lại thêm thơ tặng các vị dự lễ sám (thơ chép ở phần sau).

Lại thêm thơ từ biệt Đàm tướng công. Thơ rằng:

Kim quân vị thiếp tế quân y

Phiêu bạt cô hồn toại sơ cầu

Tăng chúng bình thành tề hạ liệt

Hàng nho phụ hội tại cao cầu

Pháp lực phố tù về phất giới

Vũ lô đồng chiếu phúc bội lưu

Tình hối hự dương kiêm giới sát

Tông thứ khoa danh mị bất thu.

Dịch 1:

Nay tôi vì ông mà tế cô hồn

Cô hồn lạc loài đã toại nguyện rồi.


 

Viết bình luận

Chúc mừng năm mới
Copyright © 2015 daibaothapmandalataythien.org. All Rights Reserved.
Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc. Email: daibaothapmandalataythien@gmail.com

Đăng ký nhận tin mới qua email
Số lượt truy cập: 6329190
Số người trực tuyến: